Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đỗ Nương Nương Báo Oán

Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930. Tiểu thuyết của ông bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Đó là sự tha hóa của con người trước sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới... Lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày là một ưu thế khiến tác phẩm của Hồ Biểu Chánh chiếm được cảm tình đặc biệt của người dân Nam Bộ. *** Trái đất vần xây, tối rồi kế sáng, sáng rồi tối lại. Nước sông luân-chuyển, hết ròng rồi lớn, lớn rồi lại ròng. Việc nhà hễ hết thạnh rồi tới suy cũng như vận nước hễ mất trị thì phải loạn. Đó là định-luật dĩ-nhiên xưa nay thường-lệ mà Đông Tây cũng thường-lệ. Thử lật Việt-Nam Quốc-Sử mà xem, chúng ta sẽ nhận thấy rõ-ràng cuộc thạnh-trị với cuộc loạn ly cứ tiếp mà diễn ra hoài hoài. Nếu người cầm-quyền hẫng-hờ để thất chánh thì tự-nhiên rối-rắm khắp mọi nơi. Nếu muốn non-nước được thanh-bình thì phải nhờ bực anh-hùng chí-sĩ có đại đức đại tài, thâu-phục dân tâm, hướng-dẫn quần-chúng, mới có thể đánh dẹp trong ngoài mà xây dựng an-ninh lại bá-tánh. Kìa như thuở xưa, sau một cơn bị trị kéo dài đến trót một ngàn năm, nước non nghiêng-ngửa, quốc-hồn lu-lờ, dân-chúng khóc than, cỏ cây khô héo. Trong thời-gian đau khổ ấy tuy có Trưng Nữ Vương, có Bà Tiệu-Ẩu, có Lý Nam-Đế, có Triệu Việt-Vương có Mai Hắc-Đế, có Khúc-Thừa Dũ lần-lượt nổi lên quyết ra tay bình-định sơn-hà và đem chủ-quyền quốc-gia về cho dân-tộc. Rất tiếc thay các đứng tiền-nhơn ấy có hào-khí chói-lòa, có hùng-tâm mãnh-liệt, nhưng chưa phải là người lật ngược thời-cuộc, bởi vậy công-nghiệp không thành-tựu được hoàn-toàn, chỉ lưu lại danh thơm chí cả cho hậu nhơn sùng-bái muôn đời mà thôi. Mãi đến thế-kỷ thứ 10, mới có Ngô-Quyền xuất-hiện, quét sạch ở trong, đánh dẹp ở ngoài, xây nền quốc-gia tự-chủ cho Việt-Nam rạng-rỡ ở góc trời Đông-Á. Non nước được hưởng thanh bình có 5 năm rồi Ngô-Vương lại băng. Người sau nối nghiệp lại không đủ tài đủ đức, để cho thất chánh đi, nên mới sanh phản loạn Thập-Nhị Sứ-Quân, làm lung-tung một lúc. May có Đinh Tiên-Hoàng ra đời bình-loạn trấn-an, lập ra nhà Đinh, sau liên-tiếp truyền ngôi quốc-vương cho các nhà Tiền Lê, nhà Lý rồi qua nhà Trần. Đến thế-kỷ 13, nhà Trần gặp nạn ngoại-xâm, Nguơn-Triều bên Trung-Quốc, ỷ binh đông tướng mạnh nên toan nuốt luôn đất nước Việt-Nam. Chẳng dè bên ta, trên vua hiền-đức, dưới tướng hùng-cường, lại thêm muôn dân nhứt tâm, nhứt trí, đoàn-kết cùng nhau quyết đổ máu phơi xương để bảo-vệ sơn-hà, bởi vậy binh tướng của Nguơn-Triều luôn luôn đại-bại, phải cầu hòa cho khỏi bị tiêu-diệt. Trong đời chẳng có vật chi trường-tồn vĩnh-viễn được. Đá lâu năm phải hao mòn, sắt lâu năm phải mục sét. Tinh-thần lâu năm cũng phải suy giảm, đạo-đức lâu năm cũng phải lu mờ. Trước kia đời nhà Lý là đời thạnh-trị nhưng giữ ngôi vua được 215 năm rồi phải sang lại cho nhà Trần. Mà đời nhà Trần là đời vừa xán-lạng vừa hùng-cường, song trị-vì được 175 năm rồi cũng bị nhà Hồ soán đoạt. Nhà Minh, bên Trung-Quốc, mượn cớ soán đoạt nầy mới xua binh qua đánh dẹp họ Hồ rồi chiếm trị cả đất nước Việt-Nam trót 13 năm. Thấy cha con Hồ-Quí-Ly vì tham quyền cố-vị để cho ngoại-bang cướp mất chủ-quyền quốc-gia, người Việt-Nam từ trẻ chí già, từ bực sĩ-phu cho đến hàng dân-giả, ai ai cũng phẫn-uất, quyết hy-sinh tánh mạng đặng cứu nước, cứu dân. Nghe ông Lê-Lợi phất cờ mộ nghĩa ở Lam-Sơn, người trong nước thảy đều hưởng ứng. Trong 10 năm chinh-chiến, ban đầu sức kém nên thất bại, nhưng nhờ đem tinh-thần cứu quốc cao vòi vọi mà đấu với lòng cướp giựt thấp hèn của giặc, bởi vậy tướng-sĩ ta lần-lần đánh rã quân xâm-lăng, đuổi chúng chạy về Tàu, tôn Lê Thái-Tổ lên ngôi báu, rồi bố-cáo cuộc bình Ngô đạt định. Miêu-Duệ của Lê Thái-Tổ tiếp nối trị-vì được 99 năm rồi bị quyền thần Mạc-Đăng-Dung cướp ngôi, may nhờ có hai trung-thần là ông Nguyễn-Kim với rể là ông Trịnh-Kiểm cứu giá đưa con của vua Lê Chiêu-Tôn qua Cam-Châu thuộc xứ Lèo, tôn lên làm vua rồi rước về Thanh-Hóa để chiêu binh mãi mã đánh dẹp họ Mạc. Từ đó nhà Lê đóng đô ở Thanh-Hóa, nhà Mạc đóng đô ở Thăng-Long. Trong nước có tới hai vua, hai triều, lòng dân phải chia rẽ, người phò Lê, kẻ phò Mạc, Nam Bắc cứ đánh nhau trót 65 năm, dân gian hết sức đồ-khổ. Mãi đến năm 1592, Trịnh-Tùng con của Trịnh-Kiểm mới đánh bắt được vua Mạc-Mậu-Hiệp mà giết rồi gom hết đất nước đem về một mối đưới quyền thống-trị của vua Lê. Nhưng đã dứt cái nạn một nước hai vua rồi thì tới cái họa một triều hai chúa nữa. Tuy nhà Lê đã thống nhứt sơn-hà song quyền-bính tại triều đều ở trong tay Trịnh-Tùng cả. Ông Nguyễn-Hoàng là con ông Nguyễn-Kim tức là cậu của Trịnh-Tùng trước kia đã được vào trấn đất Thuận-Hóa, chừng thấy Trịnh-Tùng lộng quyền xưng chúa, ông e quyền thần ám-hại nên ông không chịu ra Bắc chầu vua nhà Lê nữa, thành thử gây phân tranh. Chúa Trịnh chiếm cứ cả miền Bắc vô tới Linh-Giang, còn chúa Nguyễn thống-trị miền Nam từ Linh-Giang vô Quảng-Nam. Trong khoảng 45 năm, chúa Trịnh với chúa Nguyễn phải đánh nhau đến bảy lần, gây tai hại cho đất Hà-Tĩnh và đất Quảng-Bình không biết bao nhiêu, lại làm tổn-hao sanh-mạng của nhơn-dân không kể xiết. Tuy luôn luôn phải lo chống với chúa Trịnh ở phía Bắc, song chúa Nguyễn cũng chăm nom mở rộng bờ cõi ở phia Nam, lần lần chiếm hết đất Chiêm-thành từ Quảng-Nam vô Bình-Thuận rồi phân huyện, phân phủ mà cai-trị. Đến giữa thế-kỷ 18, tất cả vùng đất Nam-Việt bây giờ cũng thuộc luôn về chúa Nguyễn thống-trị nữa. Cuộc nam-tiến của các đời chúa Nguyễn được thành-công rất vẻ-vang chỉ nhờ sức cố-gắng của thần-dân từ tỉnh Quảng-Bình trở vô mà thôi. Từ Hà-Tỉnh trở ra Bắc, nhơn-dân là phe đảng của chúa Trịnh, nghịch hẳn với chúa Nguyễn nên không có tham-dự cuộc nam-tiến rực-rỡ đó. Đến năm 1765 chúa Nguyễn Võ-Vương mất. Quyền thần Trương-phước-Loan đổi tờ di-chiếu lập người con thứ 16 của Võ-Vương lên ngôi Chúa gọi là Định-Vương. Vả Định-Vương mới được 12 tuổi nên Phước-Loan đoạt hết quyền-hành tác oai tác phước, tham-lam, khắc-khổ, làm nhiều điều tàn ác, khiến cho cả nước quan dân thảy đều oán ghét. Ở đất Tây-Sơn, thuộc vùng Qui-Nhơn bây giờ, có ba anh em Nguyễn-Nhạc, Nguyễn-Lữ và Nguyễn-Huệ, vốn là miêu-duệ của một chiến-sĩ gốc ở Nghệ-An, trước kia theo Chúa Trịnh mà đánh giặc, bị tướng-sĩ của chúa Nguyễn bắt làm tù binh rồi đem về quản-thúc tại Qui-nhơn. Ba anh em Nhạc lóng nghe ở Thuận-Hóa Nguyễn-Triều thất chánh, lòng dân ly-tán, hết kể cang-thường, biết rồi đây thế nào cũng phải rối loạn khắp nơi. Nhạc mới hiệp với hai em mà chiêu mộ dân nghèo đặng huấn-luyện cho thành quân-sĩ để đánh giặc. Được người ta theo càng ngày càng thêm đông, Nhạc mới phân đội ngũ, lập trại đồn rồi kéo nhau ra đánh lấy thành Qui-Nhơn, lần lượt chiếm cả phần đất từ Bình-Thuận ra giáp Quảng-Nam. Ngoài Bắc Chúa Trịnh-Sâm thấy Nguyễn-Triều đương bối-rối, trong bị quyền thần ngang-ngược, ngoài bị giặc Tây-Sơn hùng-hào. Chúa Trịnh thừa dịp may bèn sai Đại-tướng Hoàng-Ngũ-Phúc đem thủy-bộ hơn ba muôn binh vào chiếm đất Bố-Chánh (Quảng-Bình) rồi lấy luôn đô-thành Phú-Xuân (Huế) mà bắt hết quần-thần của Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Định-Vương thấy tình-hình nguy-ngập, trong bị binh Tây-Sơn đánh ra, ngoài bị binh Chúa Trịnh tràn vào, mới nhóm quần-thần mà định kế đối-phó. Đình-thần bèn phân ra một tốp thì hộ-giá đưa Chúa Nguyễn cùng cung-quyến vào Quảng-Nam lánh nạn, còn một tốp thì đề binh khiển tướng bắt giam gian thần Trương-Phước-Loan đem nạp cho Hoàng-Ngũ-Phúc mà cầu hòa. Tướng Trịnh giết Trương-Phước-Loan, nhưng cũng đánh tan binh Nguyễn rồi vào chiếm kinh-thành Phú Xuân. Chúa Nguyễn Định-Vương vào Quảng-Nam rồi nghe lời khuyên của đình-thần mới lập Nguyễn Phước-Dương là con của cố thế-tử Nguyễn-Phước-Hiền lên ngôi Đông-Cung, chuyên lo sắp-đặt cuộc chống-cự với giặc. Chẳng bao lâu, Định-Vương nghe tin trong thì Tây-Sơn, ngoài thì tướng Trịnh, cả hai đều xua binh đánh ụp Quảng-Nam. Đình-thần bèn khuyên Định-Vương xuống thuyền cùng với cháu là Nguyễn-Phước-Ánh (sau là Gia-Long) vốn là con của người anh thứ hai cho quan hộ-giá đưa vào đất Gia-Định mà lánh nạn để Đông-Cung Dương với chư-tướng ở lại Quảng-Nam lo mưu trừ giặc. Và lúc Tây-sơn mới khởi binh dấy loạn ở Qui-Nhơn thì triều-đình đã có ban chiếu cho chư-trấn trong đất Gia-Định dạy phải đem binh ra đàng ngoài mà dẹp loạn. Ông Tống-Phước-Hiệp đương ngồi chức Lưu-Trấn Long-Hồ (Long-Hồ là Vĩnh-Long bây giờ) tiếp được chiếu của Chúa Nguyễn, ông hăng-hái gom binh các trấn, rần-rộ kéo ra Bình-Thuận quyết nghinh địch. Cuộc chiêu binh tuyển tướng nầy làm xao-xuyến, náo-động cả vùng Gia-Định là lãnh-thổ xứ Nam-Việt ngày nay. Những người trai-tráng tuy không được biết rõ tình-hình chung trong nước rắc-rối thế nào, song nghe nói có giặc thì ai cũng nô-nức toan-tính ra sức đẹp loạn, trị-an, đặng lập công-danh với đất nước.   Mời các bạn đón đọc Đỗ Nương Nương Báo Oán của tác giả Hồ Biểu Chánh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trước Giờ Nổ Súng - Phan Tứ
Tiểu thuyết Trước giờ nổ súng của Phan Tứ (Lê Khâm) ra đời năm 1960, từng gây chú ý một thời. Đã có nhiều bài viết tập trung khai thác tác phẩm ở khía cạnh nội dung tư tưởng. Tuy nhiên, nếu phân tích cuốn tiểu thuyết này từ góc độ Thi pháp học, ta sẽ phát hiện được nhiều điều thú vị về bút pháp ngôn từ, nhất là trên phương diện không gian và thời gian nghệ thuật. Tác phẩm được xây dựng theo kiểu cốt truyện phiêu lưu như sử thi Odyssee và Ramayana. Đặc điểm của kiểu cốt truyện này là có rất nhiều không gian. Tuy nhiên, nhiều tiểu thuyết có cốt truyện phiêu lưu nhưng vẫn không gây hứng thú cho bạn đọc. Lý do chính là các mảng không gian mà nhân vật trải qua là quá êm đẹp, không có kịch tính, bởi vậy không thể hiện đúng bản chất của tiểu thuyết phiêu lưu. “Đặc điểm của tiểu thuyết phiêu lưu là sau mỗi biến cố, nhân vật bị ném vào một không gian mới đầy xa lạ, nhiều hiểm họa” (Trần Đình Sử) [5]. Phan Tứ đã chú trọng xây dựng loại “không – thời gian cản trở” với chức năng thử thách nhân vật. Cả không gian lẫn thời gian đều cộng hưởng nhau gây sức ép lên các hoạt động nhân vật, để từ đó sàng lọc, chỉ giữ lại những anh hùng lý tưởng theo quan điểm cách mạng. Nói tóm lại, “không – thời gian cản trở” là một đặc điểm của cốt truyện phiêu lưu, và khi sáng tác Trước giờ nổ súng, Phan Tứ ý thức rất rõ điều đó. Tác giả không chỉ xây dựng thành công xuất sắc không gian và thời gian nghệ thuật mà còn tỏ ra có tài trong nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật. Giọng văn linh hoạt, uyển chuyển, kết hợp nhiều giọng điệu khác nhau. Trước giờ nổ súng còn lôi cuốn bạn đọc bởi nó cung cấp một kho tàng kiến thức hết sức phong phú về Đất nước và Con người Lào. Nó xứng đáng là một trong những cuốn tiểu thuyết hay của văn học Việt Nam thời chiến tranh. *** Những nóc lô cốt chìm trong đêm, hằn trên nền trời vần vụ một đường sống dài, chen đôi chỗ gãy góc. Ngọn đèn điện treo giữa cổng chính soi ánh vàng ệch xuống một mảng thép gai và mấy thân cọc lổn nhổn chạy vào bóng tối. Cái khối bê tông, gỗ, đá, thép gai úp tròn trên đỉnh đồi này nằm lịm, chỉ hé lên đôi chấm đèn ngái ngủ. Từng lúc, bọn lính trong hầm nói mê lầu bầu, nghiến răng, nhai tóp tép. Tiếng động luồn qua các lỗ châu mai như một hơi thở ngột ngạt, cắt ngang tiếng dế rên ti tỉ từ trong lòng đất thấm ra, rồi lắng đi. Tên lính gác vẫn đứng dựa vào tường lô cốt, gãi, ngáp, xốc cổ áo mưa sột soạt. Lưng hắn bịt giữa lỗ châu mai. Lính gác không đứng trước lỗ châu mai bao giờ. Nhưng hắn là lính mới, hắn ngốc. Hai giờ gác dưới mưa dài hơn hai canh bạc thâu đêm. Hắn vặn người, vươn vai một cái rõ mạnh. Rồi hắn giật thót bụng, bật người sang bên: bàn tay hắn vừa chạm phải vật gì mềm mà tròn trên miệng lỗ châu mai. Như con rắn. Hắn lóng ngóng lên đạn, lại buông súng. Hắn đánh diêm, khum tay che mưa, soi. Không có gì. Chắc con rắn đã bò ra ngoài, hay là hắn mê ngủ cũng nên. Hắn xốc lại áo mưa, chập chờn ngủ đứng. Dưới chân hắn, cách đế giày độ một ngang tay, nền đất không phẳng nữa mà cồn lên lượn xuống thành những nét lạ. Những nét ấy từ từ chuyển, từ từ chuyển, không một tiếng động, như con trăn gió nửa đêm trường lên cây bắt khỉ. ... Mời các bạn đón đọc Trước Giờ Nổ Súng của tác giả Phan Tứ.
Trạng Quỳnh Toàn Tập - Ngô Lăng Vân
Dân Việt Nam ta là dân giỏi cười và lắm chuyện cười nhất thế giới… Đó chính cũng là một trong nhiều yếu tố khác đã làm nước ta trở thành một nước anh hùng quật khởi, không kẻ cường địch nào lấn được. Kể số chuyện cười phải chép cả kho giấy nhà giấy, chỉ riêng những cái cười để sửa sang phong hóa, để chữa bệnh rởm rác, lố bịch, và để vui sống hăng say tranh đấu với mọi hoàn cảnh ở trên các lãnh vực nhân sinh. Trong kho chuyện cười ấy, phải kể chuyện Trạng Quỳnh là một. Chuyện Trạng Quỳnh chẳng những dài nhất, hay nhất, mà đọc lên, ngoài cái thưởng thức về thú vị văn chương, chúng ta còn được vô số những cái cười rất khoái, khoái hơn cả lúc động phòng hoa chúc là cái khoái gấp cả trăm ngàn lần những lúc được làm vương làm bá. Những cái cười rất khoái ấy, đại lược là : Cười để chửi thẳng vào mặt bọn vua chẳng ra vua, quan chẳng ra quan, văn chẳng ra văn và võ chẳng ra võ. Cười để vãi tưới lên đầu bọn ăn trên ngồi chốc, mũ cao áo rộng, tác oai tác quái, mà người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Cười để lột trần bề trái lũ buôn thần bán thánh, gá Phật thầu Trời, ma giáo quỷ thuật, giả nhân giả nghĩa, giả đạo đức thánh hiền, cũng như bọn tu hành ẩu tả, bọn trưởng giả học sang, phường ăn càn nói ẩu, bọn tham ô nhũng lạm và hành động lố lăng… Vân vân và v.v… Nói chung là những hạng đáng đem lột trần nọc cổ ra mà đánh cho bét đít sịt ngòi, nếu không phải dùng đến gươm đao súng đạn. Bởi các cớ ấy, và bởi chuyện Trạng Quỳnh tuy cũ mà tinh thần vẫn còn như mới ở trước cảnh huống của xã hội bây giờ, nên chúng tôi tổng hợp các chuyện do đồng bào đã kể và tham khảo những tài liệu đã viết để soạn ra quyển TRẠNG QUỲNH TOÀN TẬP này. Mục đích của chúng tôi không ngoài việc nhằm làm sống lại những cái cười đời trước để dọi lại đời nay. Còn việc chuyện tích có thật hay không, xin nhường để quý bạn đọc suy ngẫm… cũng như suy ngẫm để… Định Tường đầu Thu Nhâm-Tý 1972 NGÔ LĂNG VÂN *** Trạng Quỳnh dân gian là Nguyễn Quỳnh, sống dưới thời vua Lê, chúa Trịnh, quê ở làng Bột Thượng nay là xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Quỳnh (1677–1748 có tài liệu chép 1720–1770) là một danh sĩ thời Lê–Trịnh (vua Lê Hiển Tông), từng đỗ Hương cống nên còn gọi là Cống Quỳnh. Ông nổi tiếng với sự trào lộng, hài hước tạo nên nhiều giai thoại nên trong dân gian vẫn thường gọi ông là Trạng Quỳnh dù ông không đỗ Trạng nguyên. Ông còn có tên Thưởng, hiệu Ôn Như, thụy Điệp Hiên, quê tại làng Bột Thượng, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Thân sinh ông là ông Nguyễn Bổng và bà Nguyễn Thị Hương. Thuở nhỏ, ông học với ông nội và cha (vốn là giám sinh ở Quốc Tử Giám). Năm 1696, Quỳnh thi đỗ Giải nguyên, nhưng đi thi Hội nhiều lần bị hỏng. Về sau, triều đình bổ nhậm ông làm giáo thụ các huyện Thạch Thất, Phúc Lộc (Sơn Tây), tiếp đến làm huấn đạo phủ Phụng Thiên ở kinh thành Thăng Long. Năm 1718, đỗ khoa Sỹ vọng được bổ làm tri phủ Thái Bình, rồi về làm Viên ngoại lang ở Bộ Lễ; sau bị giáng xuống chức Tu soạn ở Viện Hàn lâm. Tuy không đỗ cao, Quỳnh vẫn nổi tiếng là người học hành xuất sắc. Đương thời đã có câu: “Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ vô tam” (nghĩa là thiên hạ không có người thứ ba giỏi như hai ông). Sách “Nam Thiên lịch đại tư lược sử” đã nhận xét về ông: “… Nguyễn Quỳnh văn chương nổi tiếng ở đời, nói năng kinh người, thạo quốc âm, giỏi hài hước…”. Tác phẩm còn lại của Nguyễn Quỳnh, gồm một số bài ký, văn tế mẹ, văn khóc em (vốn tài hoa, nhưng chết yểu ở tuổi 14) và hai bài phú chép trong tập: “Lịch triều danh phú”. Lịch triều danh phú là tuyển tập của các danh sĩ thời bấy giờ, tất cả đều đỗ đại khoa, chỉ có hai người đỗ Hương cống là Nguyễn Quỳnh và Đặng Trần Côn. Tương truyền Trạng Quỳnh là bạn thơ của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Do tính cách trào phúng nên dân gian thường đồng hóa ông vào nhân vật Trạng Quỳnh – một ông Trạng dân gian nổi tiếng với tính trào lộng. Để tôn vinh ông, nhà nước Việt Nam đã cho xây dựng nhà lưu niệm Trạng Quỳnh tại quê hương ông. Mời các bạn đón đọc Trạng Quỳnh Toàn Tập của tác giả Ngô Lăng Vân.
Nếu...Thì...
Chúng ta được sinh ra với một tư duy phân biệt và bản thể bị giới hạn. Điều này là cần thiết, vì nếu không chúng ta không thể biết được đâu là mình, đâu không phải là mình, và đâu là thứ sẽ là mình. Mình là một thứ vô cùng quan trọng. Nhưng biết được rồi, thì hãy gác nó qua một bên. Gác lại luôn những điều mình vẫn tin là đúng, và thử tự hỏi xem nếu điều ngược lại xảy ra thì sao. Biết đâu điều ngược lại mới là đúng? Biết đâu đó là cách để có thể vượt qua được định kiến của bản thân. Biết đâu khi đó mình sẽ trở nên rộng mở và bao la hơn? Hãy đặt câu hỏi. Đặt thật nhiều vào. Trả lời chúng tất nhiên là tốn công tốn sức, và rồi sẽ có lúc bạn cảm thấy hoang mang. Nhưng nhờ thế, bạn thấy yên tâm hơn với những điều hiện tại. Nhưng hay hơn cả, là đặt câu hỏi cho những điều tưởng như không bao giờ tồn tại. Biết đâu một ngày nào đó nó có thực thì sao? Mà cho dù nó không đến, thì bạn cũng đã có trong tay vô số lối đi để tiếp tục cuộc hành trình. *** KHUYẾN CÁO Đừng thử làm bất cứ điều gì trong sách này ở nhà. Tác giả cuốn sách là một họa sĩ vẽ truyện comic trên mạng chứ không phải là một chuyên gia về sức khỏe hay an toàn. Anh ta thích các thứ bắt lửa hoặc nổ tung, có nghĩa là anh ta không quan tâm tối đa đến lợi ích của bạn. Nhà xuất bản và tác giả không chịu trách nhiệm đối với bất kỳ hậu quả nào, trực tiếp hoặc gián tiếp, từ các thông tin chứa đựng trong cuốn sách này. *** Cuốn sách này tập hợp các câu trả lời cho những câu hỏi giả định. Những câu hỏi này đã được gửi cho tôi qua trang web của tôi, nơi – ngoài chuyện làm một góc hỏi đáp tâm tình cho mấy cha bác học điên – tôi vẽ xkcd, một web đăng truyện về người que. Tôi không bắt đầu sự nghiệp với việc vẽ truyện. Tôi học ngành vật lý ở đại học, và sau khi tốt nghiệp tôi đã làm việc cho bộ phận robotics ở NASA. Sau đó, tôi rời NASA để chuyên tâm vẽ truyện, nhưng sự quan tâm tới khoa học và toán học của tôi vẫn không hề phai nhạt. Cuối cùng, tôi tìm được một lối đi mới: trả lời những câu hỏi kỳ lạ, đôi khi là đáng lo ngại trên Internet. Cuốn sách này là một tuyển tập những câu trả lời ưa thích của tôi trên website, cùng với một loạt câu hỏi mới được trả lời lần đầu tiên. Tôi đã cố gắng sử dụng toán học để trả lời những câu hỏi kỳ lạ từ lúc tôi bắt đầu biết nhớ. Khi tôi năm tuổi, mẹ tôi đã ghi lại một cuộc trò chuyện với tôi và lưu vào album ảnh. Khi biết tôi viết cuốn sách này, bà đã tìm lại bản chép tay đó và gửi cho tôi. Dưới đây là nội dung được chép lại nguyên văn từ tờ giấy 25 năm tuổi đó: Randall: Trong nhà mình những thứ cứng nhiều hơn hay những thứ mềm nhiều hơn hả mẹ? Julie: Mẹ không biết. Randall: Trên thế giới thì thế nào ạ? Julie: Mẹ không biết. Randall: Mỗi nhà có 3 hoặc 4 cái gối, đúng không mẹ? Julie: Đúng rồi. Randall: Và mỗi nhà có khoảng 15 cái nam châm nhỉ? Julie: Mẹ đoán thế. Randall: Vậy là 15 cộng với 3 hoặc 4, cứ cho là 4 đi, bằng 19? Julie: Đúng. Randall: Như vậy, có khoảng 3 tỷ cái mềm và 5 tỷ cái cứng. Vậy là bên nào nhiều? Julie: Mẹ đoán là những cái cứng. Tới hôm nay, tôi vẫn không hiểu mình lấy những con số 3 tỷ và 5 tỷ ấy từ đâu ra. Rõ ràng là tôi đã không thực sự hiểu được cách thức các con số vận hành. Khả năng toán học của tôi đã tốt hơn trong những năm qua, nhưng lý do tôi làm toán cũng vẫn giống như khi tôi 5 tuổi: trả lời các câu hỏi. Người ta nói không có câu hỏi ngu ngốc. Điều này rõ ràng sai; tôi cho rằng câu hỏi của tôi về những thứ cứng và mềm là một ví dụ, nó khá là ngốc. Nhưng hóa ra việc cố gắng trả lời thấu đáo một câu hỏi ngốc nghếch có thể dẫn bạn tới những nơi thú vị. Tôi vẫn không biết rốt cuộc những thứ cứng hay mềm cái nào mới nhiều hơn trên thế giới, nhưng tôi đã học được rất nhiều thứ khác khi đi tìm câu trả lời cho câu hỏi đó. Sau đây là những thứ yêu thích của tôi trong chuyến du ngoạn này. RANDALL MUNROE *** Bão tố toàn cầu HỎI. Chuyện gì xảy ra nếu như Trái đất và tất cả các vật thể trên mặt đất đột nhiên ngừng quay, còn khí quyển vẫn giữ nguyên vận tốc của nó? — Andrew Brown ĐÁP. GẦN NHƯ MỌI NGƯỜI SẼ CHẾT HẾT. Sau đó mọi thứ sẽ trở nên thú vị. Tại xích đạo, bề mặt Trái đất chuyển động với tốc độ khoảng 470 m/s (khoảng 1700 km/h) so với trục của nó. Nếu Trái đất ngừng quay còn không khí thì không, kết quả là một cơn gió với tốc độ 1700 km/h sẽ đột ngột xuất hiện. Gió sẽ mạnh nhất ở đường xích đạo, nhưng tất cả mọi người và mọi thứ nằm trong khoảng giữa 42 độ vĩ Bắc và 42 độ vĩ Nam – khoảng 85% dân số thế giới – sẽ đột nhiên gặp những cơn gió siêu âm.   Những cơn gió mạnh nhất gần mặt đất sẽ chỉ kéo dài một vài phút, ma sát với mặt đất sẽ làm chúng thổi chậm lại. Tuy nhiên, vài phút đó là đủ lâu để biến hầu hết những kiến trúc của con người trở thành những phế tích. Căn nhà của tôi ở Boston nằm ở vĩ độ Bắc vừa đủ xa để thoát khỏi vùng gió siêu âm, nhưng gió ở đó vẫn mạnh gấp đôi so với những cơn lốc xoáy mạnh nhất. Các công trình, từ chuồng trại tới những tòa nhà chọc trời, sẽ bị san phẳng, bị xé rách từ móng và quay mòng mòng trên mặt đất. Gió sẽ yếu hơn ở gần các cực, nhưng không có thành phố nào nằm cách xa xích đạo đủ để thoát khỏi sự tàn phá. Longyearbyen, nằm trên đảo Svalbard của Na Uy, thành phố có vĩ độ cao nhất Trái đất, sẽ bị tàn phá bởi những cơn gió mạnh ngang với gió trong những cơn bão nhiệt đới mạnh nhất hành tinh. Nếu bạn định chờ cơn bão đi qua, một trong những nơi tốt nhất để làm việc đó có thể là Helsinki, Phần Lan. Mặc dù vĩ độ cao – khoảng 60 độ Bắc – không đủ để giúp nó tránh khỏi bị những cơn gió bào mòn sạch sẽ, những nền đá bên dưới Helsinki chứa cả một mạng lưới phức tạp các đường hầm, cùng với một trung tâm mua sắm ngầm, sân khúc côn cầu trên băng, phức hợp bể bơi và nhiều thứ nữa.   Không tòa nhà nào còn an toàn, kể cả những cấu trúc đủ vững chãi tồn tại sau những trận gió cũng sẽ gặp vấn đề. Như diễn viên hài Ron White đã nói về những cơn bão: “Vấn đề không phải là chuyện gió thổi, mà là gió cuốn theo cái gì.” Hãy giả sử là bạn đang ở trong một boong-ke khổng lồ được làm từ những vật liệu có thể chịu được sức gió vài nghìn kilomet một giờ.   Thật tuyệt, bạn sẽ ổn… nếu bạn là người duy nhất có một cái boong-ke như vậy. Thật không may, chắc hẳn bạn có hàng xóm, và nếu boong-ke của người hàng xóm ở phía ngược chiều gió của bạn không được neo giữ chắc chắn thì nơi trú ẩn của bạn có thể phải chịu cú va đập với vận tốc vài nghìn kilomet mỗi giờ từ những boong-ke bay của họ.   Loài người sẽ không bị tuyệt diệt.⦾ Nói chung, rất ít người trên mặt đất có thể sống sót; các mảnh vỡ bay sẽ nghiền nát bất kỳ thứ gì không chịu đựng nổi một vụ nổ hạt nhân. Tuy nhiên, rất nhiều người ở dưới mặt đất sẽ sống sót. Nếu bạn ở dưới boong-ke sâu (hoặc tốt hơn là dưới hầm tàu điện ngầm) khi điều đó xảy ra, khả năng còn sống sót của bạn là rất lớn. Sẽ có những người may mắn khác sống sót. Hàng chục nhà khoa học và nhân viên tại các trạm nghiên cứu Amundsen-Scott ở Nam Cực sẽ an toàn với những cơn gió. Với họ, dấu hiệu đầu tiên của sự rắc rối có lẽ là thế giới bên ngoài đột nhiên tĩnh lặng. Sự yên lặng bí ẩn đó có lẽ làm họ bối rối giây lát, nhưng cuối cùng sẽ có ai đó nhận ra những điều còn lạ lùng hơn:   Không khí Khi những cơn gió trên bề mặt Trái đất ngừng thổi, mọi thứ trở nên kỳ lạ hơn nữa. Luồng gió sẽ kéo theo luồng nhiệt. Thông thường, động năng của gió nhỏ đến mức có thể coi là không đáng kể, nhưng đây không phải gió bình thường. Bất thình lình phải dừng lại, không khí sẽ nóng lên. Khắp nơi trên mặt đất nhiệt độ sẽ tăng cao như thiêu đốt và có bão khắp toàn cầu từ những vùng không khí ẩm ướt. Cùng lúc, gió quét qua các đại dương sẽ khuấy lên và hóa sương lớp nước bề mặt. Sau một thời gian, khắp đại dương sẽ không có bề mặt, không thể chỉ ra được ranh giới giữa bụi nước và mặt biển. Các đại dương thì lạnh. Phía dưới lớp nước bề mặt mỏng, nhiệt độ khá đồng đều bằng 4°C. Cơn bão sẽ khuấy nước lạnh từ dưới sâu lên. Dòng chảy lạnh phun vào không khí siêu nóng sẽ tạo thành một kiểu thời tiết chưa bao giờ thấy trên Trái đất – kiểu thời tiết hỗn hợp mờ đục gồm gió, bụi nước, sương mù và nhiệt độ thay đổi nhanh chóng. Dòng nước trồi này sẽ làm sự sống bùng nổ, do các chất dinh dưỡng tươi mới tràn ngập các bề mặt phía trên. Đồng thời, nó cũng dẫn tới sự diệt vong hàng loạt của cá, cua, rùa biển và những sinh vật không đủ khả năng thích ứng với những dòng nước nghèo oxy từ dưới đáy. Bất kỳ động vật nào cần phải hít thở – như cá voi và cá heo – sẽ khó lòng tồn tại được trong hoàn cảnh biển-không khí hỗn loạn như vậy. Những con sóng sẽ quét khắp thế giới, từ Đông sang Tây, và tất cả các bờ hướng mặt về phía Đông sẽ gặp phải những con nước dâng do bão lớn nhất trong lịch sử. Một đám mây mù từ bụi nước biển sẽ quét vào trong đất liền, và sau nó,một bức tường nước hỗn loạn, cuộn trào sẽ tiến tới như một cơn sóng thần. Ở một số nơi, những con sóng sẽ đi sâu vào đất liền nhiều dặm. Các cơn bão sẽ phát tán một lượng lớn bụi và mảnh vụn vào khí quyển. Đồng thời, một lớp sương mù dày đặc sẽ hình thành trên bề mặt lạnh lẽo của các đại dương. Thường thì điều này sẽ dẫn đến sự tụt mạnh nhiệt độ toàn cầu. Và nó sẽ xảy ra. Ít nhất là trên một nửa của Trái đất. Nếu Trái đất ngừng quay, chu kỳ ngày đêm thông thường cũng sẽ kết thúc. Mặt trời sẽ không hoàn toàn ngừng di chuyển trên bầu trời, nhưng thay vì mọc và lặn một lần mỗi ngày,nó sẽ mọc và lặn một lần mỗi năm. Ngày và đêm sẽ kéo dài suốt 6 tháng, kể cả trên đường xích đạo. Ở nửa ban ngày, bề mặt Trái đất sẽ bị thiêu đốt dưới ánh nắng cố định, trong khi ở nửa ban đêm, nhiệt độ sẽ tụt mạnh. Đối lưu ở nửa ban ngày sẽ dẫn tới những cơn bão lớn ở khu vực ngay bên dưới Mặt trời.⦾ Theo một cách nào đó, Trái đất lúc này giống với một trong các hành tinh ngoài Hệ Mặt trời (ngoại hành tinh) bị khóa thủy triều, thường được tìm thấy trong vùng sống được của một sao lùn đỏ, nhưng một so sánh tốt hơn có lẽ là với Sao Kim thuở ban đầu. Do sự tự quay của nó, Sao Kim – giống như Trái đất đã ngừng quay của chúng ta – luôn hướng một mặt về phía Mặt trời trong nhiều tháng. Tuy nhiên, khí quyển dày của nó lại lưu thông khá nhanh, dẫn tới nhiệt độ ở các nửa ngày và đêm gần như nhau.   ⦾ Mặc dù độ dài ngày thay đổi, nhưng độ dài tháng thì không. Mặt trăng vẫn không ngừng quay quanh Trái đất. Tuy nhiên, mất đi năng lượng thủy triều do sự tự quay của Trái đất cung cấp, Mặt trăng sẽ ngừng trôi xa khỏi Trái đất (như nó vẫn đang xảy ra bây giờ) và sẽ bắt đầu trôi chậm về phía chúng ta. Thực tế thì, Mặt trăng, bạn đồng hành trung thành của chúng ta, sẽ hành động để loại bỏ những tác động xấu do kịch bản của Andrew Brown gây ra. Hiện tại, Trái đất quay nhanh hơn Mặt trăng và lực thủy triều làm chậm chuyển động tự quay của Trái đất trong khi đẩy Mặt trăng ra xa.⦾ Nếu Trái đất của chúng ta ngừng quay, Mặt trăng sẽ ngừng trôi ra xa. Thay vì làm chậm chuyển động tự quay của Trái đất, lực thủy triều của nó sẽ làm tăng tốc sự tự quay của Trái đất. Lặng lẽ, nhẹ nhàng, lực hấp dẫn của Mặt trăng sẽ kéo hành tinh của chúng ta…   … và Trái đất sẽ lại bắt đầu tự quay.   Mời các bạn đón đọc Nếu...Thì... của tác giả Randall Munroe & Nguyễn Hoài Anh (dịch) & Nguyễn Văn Trà (dịch).
Một Nửa Đại Đội - Đỗ Kim Cuông
Sở chỉ huy tác chiến của tiểu đoàn đặt trong một vạt mả rộng nằm chếch về phía bắc thôn Văn Xá chừng hai cây số. Có đến hàng chục ngôi mộ to có thành gạch xây bao chung quanh tạo thành một thứ công sự vững chãi, tránh được đạn thẳng và mảnh pháo. Tiểu đội trinh sát chiếm lĩnh từ chập tối. Bây giờ, từng tổ quay trở lại đón các bộ phận vào vị trí. Cách khu mộ chưa đầy hai trăm mét đã là hàng rào ngoài cùng của khu căn cứ quân sự Tứ Hạ. Ở đây có sân bay, có trận địa pháo và khu kho tàng, tiếp vận quân cụ, súng đạn cho các đơn vị tiền phương thuộc vùng I chiến thuật, tuyến phía Bắc sông Bồ kéo dài ra thấu Đông Hà, Quảng Trị. Một tiểu đoàn xe tăng M113 nằm thường trực chi viện cho các đơn vị lính của sư đoàn 1 khi đi càn quét các làng vùng Phong - Quảng Điền. Số lượng trực thăng chiến đấu nằm trong các hầm chứa máy bay và tại đường băng có khi lên tới ba chục chiếc. Trước Mậu Thân 1968, căn cứ Tứ Hạ nhỏ, nó chỉ được phình to mở rộng sau Mậu Thân. Hàng chục ấp chung quanh Tứ Hạ bị quét sạch xuống phía đông đường quốc lộ, để lấy chỗ lập hàng rào, vọng gác phòng thủ. Bảy lớp hàng rào bùng nhùng, hàng rào mái nhà xen kẽ với các bãi mìn gài chết. Tứ Hạ trở thành một căn cứ hỏa lực mạnh: chi viện tích cực cho các trung đoàn, sư đoàn ngụy, Mỹ phối hợp lên càn miền Tây. Pháo Tứ Hạ có thể bắn lên được tới bờ nam sông Bồ. Chưa một lần Tứ Hạ bị trầy vi tróc vảy. Với khả năng tấn công của Việt cộng ở đồng bằng, hai năm trở lại đây theo dõi trực tiếp những trận đánh xảy ra ở các thôn ấp, vùng ven giáp ranh, những tên phái viên trong ban tham mưu tác chiến của Bộ chỉ huy tiền phương ngụy vùng I chiến thuật rút ra kết luận: Việt cộng không đủ sức để chạm vào hàng rào lông nhím Tứ Hạ. *** Nhà văn Đỗ Kim Cuông sinh ngày 25 tháng 4 năm 1951, quê quán phường Hồng Phong, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, ông gia nhập quân đội, tham gia từ cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968, tại chiến trường Trị Thiên Huế với tư cách là một người lính bộ binh, trực tiếp chiến đấu cho đến Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất.  Năm 1976, Đỗ Kim Cuông được trở lại giảng đường Đại học tại Khoa Ngữ văn Viện đại học Huế. Sau khi tốt nghiệp, ông về giảng dạy tại Trường cao đẳng sư phạm Nha Trang - Khánh Hoà. Ông nguyên là Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh Khánh Hoà, kiêm Tổng Biên tập tạp chí Văn Nghệ Nha Trang, đại diện tuần báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) tại Nam Trung Bộ.  Đỗ Kim Cuông đã từng giữ chức Vụ trưởng Vụ Văn hoá văn nghệ Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch thường trực Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (2010 - 2021), sống và làm việc tại Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.  Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1990), Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam.  Tác phẩm đã xuất bản: - Người đàn bà đi trong mưa (tiểu thuyết, 1987); - Một nửa đại đội (tiểu thuyết, 1989); - Hai người còn lại (tiểu thuyết, 1989); - Thung lũng tử thần (tiểu thuyết, 1990); - Miền hoang dã (tiểu thuyết, 1991); - Mảnh sân sau u ám (tiểu thuyết, 1993); - Vùng trời ảo mộng (tiểu thuyết, 1993); - Tự thú của người gác rừng (tập truyện ngắn, 1996); - Đêm ngâu (tập truyện ngắn, 1999); - Cát trắng (tiểu thuyết, 1997); - Người dị hình (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, 2000); - Thủ lĩnh vùng sông Tô (tiểu thuyết, NXB Công an Nhân dân, 2001); - Phòng tuyến Sông Bồ (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn 2009); - Lỗi hẹn với Sê pôn (tiểu thuyết, 2011); - Chớp biển (tập truyện ngắn, 2010); - Lời hẹn với Sê pôn (tập truyện ngắn, 2012); - Gió rừng (tập truyện ngắn, 2012); - Trang trại Hoa Hồng (tiểu thuyết, 2014). Mời các bạn đón đọc Một Nửa Đại Đội của tác giả Đỗ Kim Cuông.