Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PHAN ĐÌNH PHÙNG - ĐÀO TRINH NHẤT

Năm 1885, vua Hàm Nghi mưu việc kháng Pháp không thành phải chạy ra Tân Sở (Quảng Trị) lẩn tránh. Phan Đình Phùng đã quên nỗi hiềm khích riêng, để cùng với Tôn Thất Thuyết chống Pháp. Hưởng ứng dụ Cần Vương của vua, dù đang cư tang mẹ, Phan Đình Phùng vẫn đứng ra chiêu tập lực lượng từ khắp các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, để chống ngoại xâm.

Phan Đình Phùng được nhà vua phong chức tán lý quân vụ, lãnh đạo nghĩa quân xây dựng căn cứ tại hai huyện Hương Sơn (đồn Hà Tân), Hương Khê (đồn Quy Hợp (Phú Gia)), thuộc Hà Tĩnh. Theo giúp sức ông có các trí thức như Tiến sĩ Phan Trọng Mưu, Cử nhân Phan Quảng…và nhiều võ tướng xuất thân từ nông dân và nhiều thành phần khác như Cao Thắng, Cao Nữu, Lê Ninh, Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch, Lê Văn Tạc, Phan Đình Phong, Phan Đình Can…

Suốt mười năm (1885-1896), bất chấp mọi hiểm nguy, gian khổ, cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo đã giao chiến với Pháp nhiều trận, và đã gây cho đối phương nhiều tổn thất nặng nề, tiêu biểu nhất là trận Vụ Quang vào năm 1894.

Thấy không thể dùng sức mạnh quân sự để tiêu diệt được cuộc khởi nghĩa, người Pháp dùng mọi cách dụ dỗ, mua chuộc Phan Đình Phùng. Người Pháp còn lợi dụng các cộng sự như Lê Kinh Hạp, Phan Trọng Mưu, Võ Khoa, Hoàng Cao Khải viết thư lấy “tình xưa nghĩa cũ” để khuyên hàng, nhưng trước sau ông vẫn một lòng cự tuyệt. Người Pháp lại dùng Nguyễn Thân và những cộng sự khác ra sức đàn áp, bắt thân nhân và khai quật mồ mả tồ tiên ông, vẫn không làm ông sờn lòng.

Năm 1893, Cao Thắng tử trận khiến Phan Đình Phùng bị mất đi một cộng sự đắc lực. Năm 1895, Pháp điều Nguyễn Thân đến phối hợp với công sứ Nghệ An là Duvillier đem 3.000 lính đi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Quân chủ lực của Phan Đình Phùng bị đối phương bít đường tiếp vận, nên vũ khí, lương thực, quân số thảy đều thiếu thốn, khó bù đấp. Mỗi lần đối phương tấn công, nghĩa quân chỉ có thể chạy quanh từ núi Quạt rồi trở về núi Vụ Quang, và không thể ở đâu lâu quá 3 ngày.

Ngày 17 tháng 10 năm 1894, Phan Đình Phùng đã tập hợp lực lượng, đánh thắng một trận lớn, đối phương mất nhiều vũ khí và bị giết chết rất nhiều. Ban đầu, ông cho quân lên tận nguồn sông chặt cây đóng kè chặn nước lại, đồng thời chuẩn bị sẵn nhiều khúc gỗ lớn. Khi quân Pháp và quân triều thân Pháp đến giữa dòng sông, thì ông cho phá kè trên nguồn, và tuôn cây xuống. Đối phương phần bị nước cuốn, phần bị cây lao vào người, lại bị nghĩa quân ở hai bên bờ xông ra đánh nên bị thương vong rất nhiều.

Đây là trận thắng cuối cùng, vì gần 3.000 quân do Nguyễn Thân cầm đầu ngày càng xiết chặt vòng vây. Trong một trận giao tranh ác liệt, Phan Đình Phùng bị thương nặng, rồi hy sinh vào ngày 28 tháng 12 năm 1895.

Mười hai ngày sau khi thủ lĩnh Phan Đình Phùng mất, Nguyễn Thân mới tới được núi Vụ Quang và núi Quạt. Sau đó, Nguyễn Thân cho quật mồ Phan Đình Phùng ở chân núi Quạt, đổ dầu đốt cho xương thịt ông cháy thành tro, rồi trộn vào thuốc súng bắn xuống sông La.

Sang đầu năm 1896, một số chỉ huy lần lượt mất vì ở lâu nơi rừng sâu nước độc, một số bị tử trận hoặc bị bắt, một số khác thì rút qua Xiêm La hoặc ra hàng…Cuộc khởi nghĩa Hương Khê mà Phan Đình Phùng cùng các cộng sự đã dày công xây dựng đến đây là kết thúc.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN TRUNG ƯƠNG DƯỚI TRIỀU LÊ THÁNH TÔNG (1460 - 1497)
Cuộc cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497) diễn ra trong bối cảnh đất nước sau một thời gian dài chiến tranh, khủng hoảng, bộ máy hành chính nhà nước yếu kém về nhiều mặt. Sau chiến tranh, bộ máy hành chính nhà nước thường do các quan võ nắm giữ, tổ chức lỏng lẻo, không thống nhất, hoạt động phân tán, kém hiệu quả. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước,  ông đã kiên quyết thực hiện CCHC, coi đó là điều kiện tiên quyết để đất nước phát triển và thực hiện các cải cách khác.  Cuộc cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497) diễn ra trong bối cảnh đất nước sau một thời gian dài chiến tranh, khủng hoảng, bộ máy hành chính nhà nước yếu kém về nhiều mặt. Sau chiến tranh, bộ máy hành chính nhà nước thường do các quan võ nắm giữ, tổ chức lỏng lẻo, không thống nhất, hoạt động phân tán, kém hiệu quả. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước,  ông đã kiên quyết thực hiện CCHC, coi đó là điều kiện tiên quyết để đất nước phát triển và thực hiện các cải cách khác. 
VIỆT NAM NHÂN VẬT CHÍ VỰNG BIÊN - THÁI VĂN KIỂM & HỒ ĐẮC ĐÀM
Trên đường tìm hiểu Đất Nước, chúng tôi nhận thấy có nhiệm-vụ phổ-biến những tinh-hoa cùa Dân-Tộc, không ngoài mục-đích nâng cao trình-độ văn-hóa của đại-chúng, kích.thích lòng yêu nước thương nòi và phát-huy uy-tín Quốc-Gia đối với các dân-tộc khác trên thế-giới. Trên lập-trường ấy, chúng tôi rât láy làm hân-hợnh cho xuát-bòn quyền : «VIỆT-NAM NHÃN-VẬT-CHÍ VỰNG-BIÊN » cùa hai học-giâ Hồ-Bác-Hàm và Thái-Vân-Kiềm, đâ dày công sưu-tâm, tra-cứu cóc sCr sách xưa dề thu-thạp và xép đặt tiều-truyện và cỗng-nghiệp các danh-nhân liệt-nữ Việt-Nam, theo thứ-tự a, b, c và theo quan-niệm « Cái quan luận-đỊnh » (Bậy náp rồi mới xét-đỉnh giá-trỊ). SỞ-dT chúng tôi dã không ngân-nggi làm việc này, mặc dâu với những phương-tiện rốt ổo-hạp, là vì chúng tôi đồng quan-niệmvới người xưa ràng : « Dĩ cổ vi giám » (Láy việc xưa làm gương), « Vô cố bât thành kim » (Không có xưa làm gì có nay) và chúng tôi cũng tón-thành lời nói bát-hủ cùc triốt-gia Auguste Comte :« Người chốt cai quân người sổng > (Les morts gouvernent les vlvants). Trên đường tìm hiểu Đất Nước, chúng tôi nhận thấy có nhiệm-vụ phổ-biến những tinh-hoa cùa Dân-Tộc, không ngoài mục-đích nâng cao trình-độ văn-hóa của đại-chúng, kích.thích lòng yêu nước thương nòi và phát-huy uy-tín Quốc-Gia đối với các dân-tộc khác trên thế-giới. Trên lập-trường ấy, chúng tôi rât láy làm hân-hợnh cho xuát-bòn quyền : «VIỆT-NAM NHÃN-VẬT-CHÍ VỰNG-BIÊN » cùa hai học-giâ Hồ-Bác-Hàm và Thái-Vân-Kiềm, đâ dày công sưu-tâm, tra-cứu cóc sCr sách xưa dề thu-thạp và xép đặt tiều-truyện và cỗng-nghiệp các danh-nhân liệt-nữ Việt-Nam, theo thứ-tự a, b, c và theo quan-niệm « Cái quan luận-đỊnh » (Bậy náp rồi mới xét-đỉnh giá-trỊ). SỞ-dT chúng tôi dã không ngân-nggi làm việc này, mặc dâu với những phương-tiện rốt ổo-hạp, là vì chúng tôi đồng quan-niệmvới người xưa ràng : « Dĩ cổ vi giám » (Láy việc xưa làm gương), « Vô cố bât thành kim » (Không có xưa làm gì có nay) và chúng tôi cũng tón-thành lời nói bát-hủ cùc triốt-gia Auguste Comte :« Người chốt cai quân người sổng > (Les morts gouvernent les vlvants).
VIỆT NAM PHÁP THUỘC SỬ (1884 - 1945)
Lịch-sử cuộc mất chủ-quyền của một nước là lịch- sử tối cần-thiết cho nhân dân nước ấy. Vì có thấy rõ việc trước mới để phòng và lo liệu cho việc sau, có thấy những sai-lầm, những đắc-sách của người xưa, thì người nay và người sau mới lo tránh hoặc gắng bắt chước theo, có cảm những hờn-tủi của người dân mất nước mới phấn-khích, tự cường mà mưu nghĩ đến cuộc phục-hưng. Trong lịch-sử cận-đại của người Việt-Nam, sự can- thiệp của nước Pháp, như lấy Nam-kỳ làm thuộc-địa, đặt bảo-hộ ở Trung, và Bắc-kỳ v.v… là một biến-cố lớn lao và hệ-trọng. Lịch-sử cuộc mất chủ-quyền của một nước là lịch- sử tối cần-thiết cho nhân dân nước ấy. Vì có thấy rõ việc trước mới để phòng và lo liệu cho việc sau, có thấy những sai-lầm, những đắc-sách của người xưa, thì người nay và người sau mới lo tránh hoặc gắng bắt chước theo, có cảm những hờn-tủi của người dân mất nước mới phấn-khích, tự cường mà mưu nghĩ đến cuộc phục-hưng. Trong lịch-sử cận-đại của người Việt-Nam, sự can- thiệp của nước Pháp, như lấy Nam-kỳ làm thuộc-địa, đặt bảo-hộ ở Trung, và Bắc-kỳ v.v… là một biến-cố lớn lao và hệ-trọng.
VIỆT SỬ THÔNG LUẬN - THÁI DỊCH LÝ ĐÔNG A
越史通论 Việt Sử Thông Luận 越史通论 Việt Sử Thông LuậnMục Lục 1.1. Thời kỳ Duy Nhiên: Thời kỳ này loài người chưa biết kết hợp thành bộ lạc với xã hội 1.2. Thời kỳ Duy Dân: Thời kỳ này là khi nhân loại đã biết quần tụ lại một nơi 1.3. Thời kỳ Duy Nhân: Thời kỳ này đã phôi thai ra ở những lý thuyết Đại Đồng Mục Lục1.1. Thời kỳ Duy Nhiên: Thời kỳ này loài người chưa biết kết hợp thành bộ lạc với xã hội 1.2. Thời kỳ Duy Dân: Thời kỳ này là khi nhân loại đã biết quần tụ lại một nơi1.3. Thời kỳ Duy Nhân: Thời kỳ này đã phôi thai ra ở những lý thuyết Đại Đồng 2. GIẢI THÍCH TỪNG THỜI KỲ 2. GIẢI THÍCH TỪNG THỜI KỲ 2.1. Môn Hóa Kỳ (Thần Tắc Kỳ): Vì cái đặc sắc của thời kỳ này là dân tộc ta đã chế ra đươ c văn tự là thứ chữ Môn Thư, chữ Hoa 2.2. Văn Hóa Kỳ (Đế Tắc Kỳ): Thời kỳ này bắt đầu Nam thiên từ lưu vực sông Dương Tử và lưu vực 5 hồ 5 núi xuống Phong Châu, lấy nơi này làm hoa địa mới, lập ra nước Văn Lang, 2.3. Hồng Hóa Kỳ (Danh Tắc Kỳ ): Thời kỳ này bắt đầu từ Thục Phán là cháu ngoại vua Hùng Vương từ Ba Thục xuống chiếm Văn Lang làm Âu Lạc. 2.3.1. Hỗn Hợp thời đại: Quân cách mạng, lực lượng có thể gọi là chính thức bắt đầu từ khi Tần Thủy Hoàng thôn tính cả 6 nước rồi cho Đồ Thư sang đánh Ngũ Lĩnh: A. NAM VIỆT THỜI B. TIỂU VIỆT THỜI 2.3.2. Hồng Việt thời đại: Thời đại này là bắt đầu từ vua Đinh Tiên Hoàng dùng sức Vạn Thắng (thắng hết cả mọi thứ về lực lượng cũng như văn hóa) để xây dựng nền độc lập cho dân tộc Việt. 2.4. Dân Hóa Kỳ: Theo thời kỳ này có thể bắt đầu từ khi Gia Long nhờ quân Pháp (do cố đạo Bá Đa Lộc) làm môi giới để dứt nhà Tây Sơn mà thống nhất cả nước 3. PHÊ PHÁN VÀ KẾT LUẬN Hơn một vạn năm trước, giải đất triều lưu sông Hoàng Hà lên đến núi Thái Sơn là cuộc tranh giành rất kịch liệt giữa các dân tộc mà trong đó có dân tộc Việt đã nắm một thắng thế khá lâu. 2.1. Môn Hóa Kỳ (Thần Tắc Kỳ): Vì cái đặc sắc của thời kỳ này là dân tộc ta đã chế ra đươ c văn tự là thứ chữ Môn Thư, chữ Hoa2.2. Văn Hóa Kỳ (Đế Tắc Kỳ): Thời kỳ này bắt đầu Nam thiên từ lưu vực sông Dương Tử và lưu vực 5 hồ 5 núi xuống Phong Châu, lấy nơi này làm hoa địa mới, lập ra nước Văn Lang,2.3. Hồng Hóa Kỳ (Danh Tắc Kỳ ): Thời kỳ này bắt đầu từ Thục Phán là cháu ngoại vua Hùng Vương từ Ba Thục xuống chiếm Văn Lang làm Âu Lạc.2.3.1. Hỗn Hợp thời đại: Quân cách mạng, lực lượng có thể gọi là chính thức bắt đầu từ khi Tần Thủy Hoàng thôn tính cả 6 nước rồi cho Đồ Thư sang đánh Ngũ Lĩnh:A. NAM VIỆT THỜIB. TIỂU VIỆT THỜI2.3.2. Hồng Việt thời đại: Thời đại này là bắt đầu từ vua Đinh Tiên Hoàng dùng sức Vạn Thắng (thắng hết cả mọi thứ về lực lượng cũng như văn hóa) để xây dựng nền độc lập cho dân tộc Việt.2.4. Dân Hóa Kỳ: Theo thời kỳ này có thể bắt đầu từ khi Gia Long nhờ quân Pháp (do cố đạo Bá Đa Lộc) làm môi giới để dứt nhà Tây Sơn mà thống nhất cả nước3. PHÊ PHÁN VÀ KẾT LUẬNHơn một vạn năm trước, giải đất triều lưu sông Hoàng Hà lên đến núi Thái Sơn là cuộc tranh giành rất kịch liệt giữa các dân tộc mà trong đó có dân tộc Việt đã nắm một thắng thế khá lâu.