Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

CHỮ NGHĨA TRUYỆN KIỀU (1952) - VÂN-HẠC LÊ VĂN HÒE

Không ai dám tự phụ đã hiểu hết truyện Kiều, dù rằng có người thuộc Kiều từ đầu đến cuối.

Hiểu đây không phải là hiểu ý nghĩa cao xa, triết lý của truyện Kiều, hoặc giá trị văn chương nghệ thuật của văn Kiều, hoặc dụng ý thầm kín của tác giả khi viết cuốn truyện văn-chương tuyệt tác đó.

Hiểu đây là hiểu những điển cố, những chữ lấy ở sách Tàu, thơ Tàu, những chữ lấy ở ca dao ngạn ngữ ta cùng những chữ cổ hoặc những chữ dùng quen mà tới nay không ai biết xuất xứ và ý nghĩa đích xác.

Truyện Kiều là một kho tài liệu vô tận về từ ngữ và điển cố văn-chương. Không hiểu truyện Kiều là một điều thiệt thòi rất lớn cho từ ngữ học Việt Nam. Điều đó dĩ nhiên là không nên có.

Nhận thấy rõ điều đó, xưa nay nhiều văn nhân học giả đã dụng công chú thích, hay chú giải chuyện Kiều.

Tuy nhiên vẫn chưa đủ. Từ Nguyễn văn Vĩnh, Bùi khánh Diễn, tới Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim và thi sĩ Tản Đà, có thể nói hết thảy các nhà chú giải đều chỉ chú trọng đến các điển cố và « chữ sách » dùng trong truyện Kiều. Còn những chữ « nôm » thì hình như người ta cho là không cần giải nghĩa, có ý cho rằng chữ nôm thì ai mà chẳng hiểu.

Thật ra, nhiều tiếng nôm hoặc cho là nôm khó hiểu vô cùng. Và sự thật trong các khoa thi cấp trung học, đã xảy ra cái tình trạng này : thí sinh giải thích điển cố và chữ sách Tàu rất thông, mà khi hỏi đến nghĩa một vài tiếng nôm thì không sao đáp nổi. Tình trạng đó, không nên để kéo dài.

Nhất là hiện giờ tiếng Việt đã được dùng là chuyển ngữ, tiếng Việt cần được giải thích rõ ràng hơn, để xứng đáng là quốc văn một nước độc lập.

Nghĩ vậy nên chúng tôi để tâm nghiên cứu một số vừa chữ nôm vừa chữ Hán bấy lâu bị hiểu lờ mờ đại-khái trong truyện Kiều, mục đích muốn giúp ích phần nào cho các Giáo-sư trong giờ giảng văn, và các sinh viên, học sinh về môn Việt-ngữ.

Hà Nội, 11-11-52

VÂN-HẠC

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Suối Đàn - Lan Khai PDF (NXB Cộng Lực 1942)
Trong 17 năm cầm bút (1928 – 1945), ông để lại cho nền văn học VN hàng trăm tác phẩm đủ các thể loại. Chỉ tính từ 1939 đến 1942, Lan Khai đã để lại gần 50 cuốn sách các loại, có thể chia làm ba loại: tiểu thuyết tâm lý xã hội, tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết đường rừng. Ngoài ra ông còn viết Nghiên cứu lý luận văn học, dịch sách và sưu tầm văn học dân gian các dân tộc thiểu số vùng cao. Tiểu thuyết đường rừng: Tiếng gọi của rừng thẳm (Tân Dân xuất bản, 1939 Truyện đường rừng (Tân Dân xuất bản, 1940 Dấu ngựa trên sương (Hương Sơn xuất bản, 1940 Chiếc nỏ cánh dâu (Duy Tân xuất bản, 1941 Suối đàn (Cộng Lực xuất bản, 1942)Suối ĐànNXB Cộng Lực 1942Lan Khai150 TrangFile PDF-SCAN
Tại Tôi - Hồ Biểu Chánh PDF
Mâu thuẫn ngày càng tăng giữa vợ chồng Như Thạch – bà Cả Kim – cô Phụng, chị Như Thạch, nên vợ chồng chàng từ bỏ tất cả trở lên Sài Gòn lập nghiệp. Tại đây Như Thạch đi dạy học, sống trong nghèo khổ và nuôi vợ đang mang thai. Sau khi cô Nhung sinh con thì cô bị bệnh rồi mất. Đứa con gái được đặt tên Thanh Nguyên. Không lâu sau, chính Như Thạch cũng qua đời do bênh lao. Lúc lâm trọng bệnh, Như Thạch viết lá thư kể rõ sự tình, mong bà Cả Kim tha thứ và đem cháu về nuôi, nhưng không thấy hồi âm, nên lúc hấp hối chàng đành gởi con gái Thanh Nguyên lại cho bạn đồng môn của mình là Tự Cường cùng tờ di ngôn và bảo Tự Cường cố giữ kín tung tích Thanh Nguyên, chờ khi cô 18 tuổi…Tại TôiNXB Đức Lưu Phương 1938Hồ Biểu Chánh204 TrangFile PDF-SCAN
Thanh Niên Với Ái Tình PDF (NXB Đời Mới 1943) - Nguyễn Lương Bích
Tự nghìn xưa, người ta đã nói đến ái tình. Và tự nghìn xưa, mỗi người quan niệm ái tình một khác. Sự trái ngược nhau ấy là do lẽ : ái tình chưa được hiệu tới triệt-để. Ca-ngợi ái-tinh là những ai chỉ mới được nếm cái phần ngon ngọt nhất của ái tình, hoặc đã đuợc nếm cả mùi tan khổ, nhưng lờ đi, để chiều theo xu-hướng của thế tình. Hoặc chưa được một lần biết cái hương-vị yêu-đương, nhưng khát-khao và mờng-tượng những cái tình hay ho, đẹp-đẽ, tả trong những văn thơ đã được coi. Người ta a-dua sách-vở mà ca-ngợi ái-tình.Thanh Niên Với Ái TìnhNXB Đời Mới 1943Nguyễn Lương Bích168 TrangFile PDF-SCAN
Thầy Thông Ngôn - Hồ Biểu Chánh PDF
“Phong cách của Hồ Biểu Chánh là phong cách viết như nói, nói tiếng mà dân chúng Nam bộ thường dùng hàng ngày vào đầu thế kỉ 20. (...) Điều cần phải ghi nhận ở văn Hồ Biểu Chánh qua cả vạn trang tiểu thuyết của ông là: ông viết tiểu thuyết bằng tiếng của dân chúng vùng đồng bằng sông Cửu Long. Lẽ tự nhiên ai cũng hiểu đó vẫn là tiếng Việt, nhưng đó là tiếng Việt ở một vùng cư dân đông đúc tại nơi phía Nam của Tổ quốc với những đặc sắc riêng của nó".Thầy Thông NgônNXB Sài Gòn 1927Hồ Biểu Chánh82 TrangFile PDF-SCAN