Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Đời Bác Sĩ Arrowsmith

Cuốn sách Cuộc Đời Bác Sĩ Arrowsmith bao gồm các bình luận xã hội đáng kể về tình trạng và triển vọng của y học ở Hoa Kỳ trong những năm 1920. Arrowsmith là một người tiến bộ, thậm chí là một kẻ nổi loạn, và thường thách thức tình trạng hiện có của mọi thứ khi anh ta thấy nó muốn. Cuốn tiểu thuyết Cuộc Đời Bác Sĩ Arrowsmith này đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ sinh viên tiền y và y khoa. Có rất nhiều đau khổ trên đường đi liên quan đến các quyết định sự nghiệp và cuộc sống. Trong khi kể chi tiết việc Arrowsmith theo đuổi những lý tưởng cao đẹp của nghiên cứu y học vì lợi ích của nhân loại và lòng tận tụy quên mình trong việc chăm sóc bệnh nhân, Lewis đã ném ra nhiều cám dỗ và sự tự lừa dối ít cao thượng hơn trong con đường của Arrowsmith. Sự hấp dẫn của sự an toàn tài chính, sự công nhận, thậm chí cả sự giàu có và quyền lực khiến Arrowsmith rời khỏi kế hoạch ban đầu để theo bước người cố vấn đầu tiên của mình, Max Gottlieb, một nhà vi khuẩn học tài giỏi nhưng có tính mài mòn. Trong cuốn tiểu thuyết, Lewis mô tả nhiều khía cạnh của đào tạo y tế, thực hành y tế, nghiên cứu khoa học, gian lận khoa học, đạo đức y tế, sức khỏe cộng đồng và xung đột cá nhân / nghề nghiệp vẫn còn phù hợp cho đến ngày nay. Sự ghen tuông nghề nghiệp, áp lực thể chế, lòng tham, sự ngu ngốc và sự cẩu thả đều được miêu tả một cách châm biếm, và bản thân Arrowsmith cũng đang bực tức tự cho mình. Nhưng cũng có sự cống hiến không mệt mỏi, và tôn trọng phương pháp khoa học và trí tuệ trung thực. *** Sinclair Lewis sinh ở Sauk Centre, Minnesota trong gia đình một bác sĩ. Học tiểu học tại Minnesota, sau đó học Đại học Yale. Tại đây Lewis in thơ và tham gia vào ban biên tập tạp chí văn học của trường. Trong kì nghỉ hè rảnh rỗi, Lewis viết cuốn tiểu thuyết The Village Virus (Virus nhà quê), mười lăm năm sau được phát triển thành tác phẩm danh tiếng Main Street (Phố chính). Năm 1912, cuốn sách đầu tiên của Lewis Hike and the Aeroplane (Cuộc dạo bộ và chiếc máy bay) được in dưới bút danh Tom Grame. Năm 1914, ông in tiểu thuyết Our Mr. Wrenn: The Romantic Adventures of a Gentle Man (Ông Wren của chúng ta) và tiếp tục viết nhiều truyện giải trí nhưng không được chú ý. Trong 15 năm sau đó, ông lang thang qua 40 tiểu bang nước Mỹ và nhiều nước trên thế giới để kiếm sống, tìm việc làm và thu thập tài liệu viết văn. Nguồn cảm hứng sáng tạo thực sự của Sinclair Lewis được khơi dậy chính là từ những ngày tháng sống trong toa xe ngủ tại nông trại Vermont ở Minnesota và các nhà trọ ở thành phố Kansas hoặc Savannah. Tất cả sự phong phú của cuộc sống qua các câu chuyện kể và sự tiếp xúc với giới bình dân và nhiều tầng lớp xã hội khác đã mang lại cho nhà văn nguồn tư liệu vô tận để miêu tả cuộc sống thật sinh động. Sinclair Lewis trở nên nổi tiếng thật sự bắt đầu từ tiểu thuyết Main Street (Phố chính, 1920) - cuốn sách gây nên hai luồng dư luận trái ngược nhau: một bên ca ngợi hết lời, một bên phê bình kịch liệt. Tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông là Babbitt (1922). Với hai cuốn tiểu thuyết này Lewis đã tạo ra hai hình tượng điển hình trong văn học cận đại Mỹ: Babbitt điển hình cho người Mỹ tiểu tư sản tầm thường, nhạt nhẽo, ba hoa, và hám lợi; Main Street điển hình cho cuộc sống tỉnh lẻ, hẹp hòi, ngột ngạt ở các thị trấn, thành phố nhỏ của nước Mỹ. Năm 1925 cuốn Arrowsmith được trao giải Pulitzer nhưng ông không nhận. Còn giải Nobel năm 1930 dành cho Sinclair Lewis bị một số báo chí Mỹ phản ứng, coi là không xứng đáng vì cho rằng Lewis bôi nhọ nước Mỹ trong các tác phẩm của mình. Tiểu thuyết World So Wide (Thế giới quả là rộng lớn, 1951) là tác phẩm cuối cùng của ông. Cuối đời nhà văn nghiện rượu nặng và mất tại Roma ở tuổi 65. HARRY SINCLAIR LEWIS là con một bác-sĩ ở vùng quê, sinh tại Sauk Centre, Minnesota, năm 1885. Thuở thơ- ấu và niên-thiếu, ông ở Middle West và sau học tại Đại Học Đường Yale; ở đây ông làm chủ bút tờ văn-học tập-san. Sau khi tốt-nghiệp năm 1907 ông đến New York viết báo một thời-gian, rồi làm việc trong bộ biên-tập của nhiều tờ báo ở nhiều nơi từ East Coast tới California. Sau khi đã viết một số truyện đăng trong các tạp chí và xuất-bản được cuốn truyện đầu tay, Our Mr. Wrenn (1914) ông bỏ nghề viết báo. Tuy nhiên, Main Street (1920) mới thực là tác-phẩm thành công đầu tiên của ông, và cuốn Babbitt (1922) làm cho ông nổi danh thêm. Năm 1926, ông được thưởng giải Pulitzer về cuốn Arrowsmith (1925) , nhưng ông từ chối danh-dự này. Tuy nhiên, ông nhận giải Nobel người ta tặng ông năm 1930 và ông chính thức đến Stockholm để lãnh thưởng. Trong khoảng cuối đời ông, ông thường hay ở tại Âu-Châu và tiếp-tục viết cả hai thứ tiểu-thuyết và kịch. Năm 1950, sau khi hoàn thành cuốn truyện cuối cùng, World so Wide (1951) , ông dự định làm một vòng du-lịch xa rộng, nhưng ông bị đau và bắt buộc phải ở tại Rome mấy tháng để làm thơ. Ông mất tại đây năm 1951.   *** Một buổi chiều tháng Năm, nghị- sĩ Almus Pickerbaugh đương dùng cơm chiều với Tổng-Thống Hoa-Kỳ. Tổng-Thống nói, “Khi tuyển-cử xong rồi, tôi mong Bác-sĩ sẽ nhận một chức trong nội-các... chức Bộ- Trưởng Y-Tế đầu tiên của Hoa-Kỳ!" Chiều hôm đó, Bác-sĩ Holabird đọc diễn-văn trong một cuộc hội-họp những tư-tưởng-gia trứ danh do Hội Liên-Hiệp Văn-hóa tổ- chức. Trong số những “Nhân Vật Chỉ Vui có Hạn" lên diễn đàn có Bác-sĩ Aaron Sholtheis, Tân Giám-Đốc Viện McGurk và Bác-sĩ Angus Duer, Giám-đốc Dưỡng-đường Duer kiêm Giáo-sư giải-phẫu tại Y-Khoa Đại-Học-Đường Fort Dearbron. Bài diễn-văn lịch-sử của Bác-sĩ Holabird được vô-tuyến truyền-thanh đi cho hàng triệu thính-giả nhiệt-thành yêu khoa-học nghe. Cũng chiều hôm ấy, Bert Tozer ở tại Wheatsylvania tại North Dakota, đương dự một khóa lễ bán tuần. Chiếc xe hơi mới hiệu Buick của ông đậu bên ngoài nhà thờ đợi ông, và ông hoan-hỷ một cách khiêm-nhường, nhũn-nhặn nghe mục-sư giảng: "Thượng-đế đã dạy rằng: những kẻ chính-trực, ngay cả những ‘Đứa Con Của Ánh Vinh-Quang’, sẽ được thưởng một phần thưởng vĩ-đại và sẽ đi trên đường hỷ- lạc, còn những kẻ hay nhạo báng, những ‘Đứa Con của Ác Quỷ’ sẽ bị sát hại và quăng xuống hang sâu vực thẳm, và bị quên lãng trong chốn chợ đời tấp nập". Cũng chiều hôm ấy, Gottlieb ngồi im một mình không nhúc-nhích, trong một căn buồng tối tăm bé nhỏ trên lầu cao một ngôi nhà trong con đường ồn-ào nhộn-nhịp. Chỉ có đôi mắt của Ông là còn linh-động. Cũng chiều hôm ấy, một làn gió nóng miền nhiệt-đới thổi vật-vờ trong kẽ lá của dặng cây gồi nơi mà di-hài của Gustaf Sondelius đã tan ra cùng than bụi, và một quãng đất lún xuống trong một mảnh vườn ghi dấu mộ phần của Leora. Cũng chiều hôm ấy, sau một bữa cơm chiều vui vẻ khác thường với Latham Ireland, Joyce thú-nhận, "Vâng, nếu em ly-dị hẳn với anh ấy rồi, có lẽ em sẽ lấy anh. Em biết! Chẳng bao giờ anh ấy nhận thấy anh ấy có tính tự- tôn tự- đại kinh-khủng, tự cho mình là con người duy nhất ở đời bao giờ cũng có lý, không bao giờ lầm-lẫn cả!" Cũng chiều hôm đó, Martin Arrowsmith và Terry Wickett nằm dài trên một con thuyền xấu xí, một con thuyền bất tiện hết chỗ nói, trôi xa-xa ra giữa hồ. Martin nói, “Tôi cảm thấy như bây giờ tôi mới thật sự bắt tay vào làm việc. Cái thuốc ký-ninh mới này có lẽ khá lắm. Chúng mình còn phải vất-vả vài ba năm nữa may ra mới chế được thứ thuốc hoàn hảo – mà cũng rất có thể chúng mình sẽ thất bại!”   Mời các bạn đón đọc Cuộc Đời Bác Sĩ Arrowsmith của tác giả Sinclair Lewis & Bảo Sơn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khởi Đầu
Sherrilyn Kenyon là tác giả có sách bán chạy nhất trên bảng xếp hạng của tờ New York Times, Sherrilyn Kenyon rất tự hảo với nguồn gốc Cherokee (người bản địa châu Mỹ) pha trộn của mình và cuộc sống với những cuộc phiêu lưu đầy cảm hứng. Hiện bà sống cùng chồng và ba con trai, một đàn thú cưng và một bộ sưu tập kiếm. Trong những lúc rảnh rỗi, bà thường ngồi lì trước máy tính để chơi cùng những người bạn tưởng tượng của mình. Với hơn ba mươi triệu bản sách in đã bán tại hơn một trăm quốc gia, Sherrilyn chắc chắn có rất nhiều bạn bè khắp năm châu. Sách của bà thường chiếm vị trí số một các bảng xếp hạng. Tác giả đặc biệt ăn khách này tiếp tục thống trị các thể loại tiểu thuyết. Hiện tại bà đang theo đuổi các sê-ri: Thợ săn đêm, The League, Chronicles of Nick và Beladors. Từ năm 2004, bà đã đưa hơn 80 đầu tiểu thuyết lên vị trí top ten của tờ New York Times ở mọi thể loại, bao gồm cả truyện tranh. “Ngòi bút của Kenyon đầy sức sống, giàu sức châm biếm, gợi tả và khơi lên trí tưởng tượng đến bất tận.” - Trích tờ Boston Globe *** Trọn bộ series Thợ săn đêm (Dark Hunter): -  Sự Khởi Đầu (The Begining) -  Đêm khoái lạc (Night Pleasures) -  Gặp lại kiếp này (Night Embrace) -  Điệu múa với tử thần (Dance with the Devil) -  Nụ Hôn Tử Thần (Kiss of the night) -  Đêm Khoái Lạc (Night Play) ***   Ngươi là ai?” kẻ cao nhất hỏi ngay khi hắn thấy anh. Người đàn ông này không nghi ngờ gì là người Dorian với mái tóc dài màu đen. Cơ thể hắn cao ráo, cường tráng, được trùm trong bộ áo giáp chiến đấu đang rất cần ai đó chăm sóc và sửa chữa. Hai người đàn ông cùng với hắn là những người Hi Lạp tóc vàng. Áo giáp của họ cũng không khá hơn gì so với người đầu tiên. Người trẻ nhất trong số họ áo giáp chắn trước ngực còn có một lỗ nơi anh ta đã bị mũi giáo xuyên thủng. Những người đàn ông này không thể bước ra ngoài và trà trộn với những kẻ còn sống khi đang ăn mặc như thế này. Mỗi người họ cần được chăm sóc. Nghỉ ngơi. Hướng dẫn. Acheron hạ chiếc mũ trùm đầu của chiếc áo himation màu đen xuống, rồi nhìn họ từng người từng người một. Lúc họ chú ý đến sắc màu bạc đang cuộn sóng trong đôi mắt anh, mặt ba người đàn ông trắng bệch đi. “Ngài có phải là một vị thần?” người cao nhất hỏi. “Có người bảo chúng tôi những vị thần sẽ giết chúng tôi nếu chúng tôi xuất hiện trước mặt họ.” “Ta là Acheron Parthenopaeus,” anh khẽ nói. “Artemis gửi ta đến để huấn luyện các ngươi.” “Tôi là Callabrax ở vùng Likonos,” người cao nhất nói. Anh ta chỉ về người bên phải. “Kyros ở vùng Seklos.” Rồi người trẻ nhất trong nhóm bọn họ, “và Ias ở vùng Groesia.” Ias đứng tách biệt, đôi mắt đen của anh ta trống rỗng. Acheron có thể lắng nghe suy nghĩ của người đàn ông này rõ như thể chúng nằm chính trong tâm trí anh vậy. Sự đau đớn của anh ta chạm đến anh, khiến chính ruột gan anh quặn thắt trong đồng cảm. “Các ngươi được tạo ra đã bao lâu rồi?” Acheron hỏi họ. “Tôi được vài tuần rồi,” Kyros nói. Callabrax gật đầu. “Tôi cũng được tạo ra trong khoảng đó.” ... Mời các bạn đón đọc The Beginning của tác giả Sherrilyn Kenyon.
Anh em Nhà Karamazov - Fyodor Mikhailovich Dostoevsky
Anh em nhà Karamazov (tiếng Nga: Братья Карамазовы) là tác phẩm cuối cùng của Fyodor Dostoyevsky (Fyodor Mikhaylovich Dostoyevsky). Fyodor Dostoyevsky thuộc loại thiên tài hiếm hoi mà càng về cuối đời thì sự nghiệp sáng tác càng lên tới đỉnh cao hơn. Anh em nhà Karamazov là tác phẩm vĩ đại nhất của ông. Trước khi bắt tay vào viết tác phẩm mà thật ra ông đã ấp ủ ý đồ từ nhiều năm trước, Dostoyevsky đã linh cảm thấy mình nắm bắt được một đề tài xứng đáng với tầm vóc của mình. Ông viết: "Ít khi tôi gặp trường hợp nói lên được những điều mới mẻ, đầy đủ, độc đáo như thế này". Tiếp đó là quá trình làm việc hết sức căng thẳng. Trong một lá thư đề ngày 23 tháng 7 năm 1879, ông viết: "Cuốn tiểu thuyết tôi đang viết (Anh em nhà Karamazov) hiện thời nuốt hết mọi sức lực và thời giờ của tôi… Tôi viết không hối hả, không vội làm cho xong việc, sửa đi sửa lại, gọt tỉa, tôi muốn tận tâm hoàn tất tác phẩm, bởi vì chưa hề có tác phẩm nào mà tôi nhìn nhận một cách nghiêm túc hơn tác phẩm này" *** Fyodor Mikhailovich Dostoevsky (1821- 1881), sinh ngày 11.11.1821, là nhà văn nổi tiếng người Nga. Cùng với Gogol, L. Toystol, ông được xem là một trong ba văn hào vĩ đại của Nga thế kỉ 19. Dostoevsky sinh tại thành phố Moscow, là con trai thứ hai trong 7 người con của ông Mikhail, một bác sĩ quân y được biệt phái qua phục vụ tại Bệnh Viện Maryinski chuyên chữa trị các người nghèo. Ông Mikhail là một con người cứng rắn, thẳng thắn trong khi bà mẹ lại có bản tính trái ngược, bà ta rất thụ động, tử tế và rộng lượng. Các sự kiện của gia đình quý tộc xa xưa này với cha mẹ có một vùng đất và hơn một trăm nông nô, đã là hình ảnh của các nhân vật với các bản tính thái cực trong các cuốn tiểu thuyết của Dostoevsky sau này. Trong thời gian Fyodor đi học xa nhà, ông Mikhail đã bị giết chết do các nông nô trong vùng nổi loạn và hình ảnh giết người bất ngờ và tàn bạo này luôn luôn ám ảnh Fyodor Dostoevsky khiến cho các tác phẩm của ông thường dùng đề tài là các tội ác. Và vào cuối cuộc đời, cái chết của người cha đã là căn bản cho tác phẩm danh tiếng Anh Em Nhà Karamazov. Fyodor Dostoevsky rất yêu thích văn chương. Vào tuổi 25, Fyodor đã cầm bút, sáng tác ra cuốn tiểu thuyết đầu tiên với tên là Những kẻ bần hàn xuất bản vào năm 1846. Đây là một câu chuyện tình cảm mô tả một cách bóng bẩy các cảnh tàn phá của kiếp nghèo. Cuốn truyện này đã được các nhà phê bình khen ngợi, đặc biệt là Vissarion Belinsky, và nhà văn trẻ tuổi Dostoevsky được gọi là một "Gogol mới", tác phẩm của ông trở nên bán chạy nhất, bởi vì từ xưa tới nay chưa có một nhà văn người Nga nào cứu xét một cách kỹ càng sự phức tạp tâm lý của các cảm xúc bên trong tâm hồn con người. Fyodor Dostoevsky đã dùng tới phương pháp phân tích tâm lý để tìm hiểu các hoạt động rất tinh tế của tâm lý mọi người. Sau tác phẩm Những kẻ bần hàn , Fyodor Dostoevsky sáng tác ra cuốn Con người kép đề cập tới sự phân đôi cá tính và đây là căn bản dùng cho nhân vật Raskolnikov của đại tác phẩm Tội Ác và Trừng Phạt. Qua tác phẩm này, Fyodor Dostoevsky được toàn thế giới công nhận là một trong các Đại Văn Hào của nước Nga, được xem là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20. Tác phẩm tiêu biểu: Những kẻ bần hàn (1846) Con người kép (1846) Đêm trắng (1848) Ghi chép từ Ngôi nhà chết (1862) Những kẻ tủi nhục (1861) Con bạc (1867) Hồi Ký Viết Dưới Hầm (1864) Tội ác và trừng phạt (1866) Gã Khờ (1868) Lũ người quỷ ám (1872) Anh em nhà Karamazov (1880) Là Bóng Hay Là Hình *** Alecxei Fedorovich Karamazov là con thứ ba một địa chủ hạt chúng tôi tên là Fedor Pavlovich Karamazov, người đã có thời làm xôn xao dư luận (mà đến tận bây giờ cũng còn được nhắc đến ở vùng chúng tôi) do cái chết bi thảm và mờ ám của ông ta xảy ra đúng mười ba năm trước, rồi đến một lúc nào đó tôi sẽ kể chuyện này. Còn bây giờ, về ông “địa chủ” đó, người ta gọi ông ta như vậy, tuy suốt đời ông ta hầu như không cư ngụ tại điền địa của mình, tôi chỉ nói rằng đấy là một kẻ thuộc loại người lạ lùng tuy là khá thường gặp, chính là loại người chẳng những đồi bại và trác táng mà còn vô lối biết lo liệu rất khôn khéo mọi việc lắt léo liên quan đến tài sản của mình. Chẳng hạn Fedor Pavlovich bước vào đời gần như là tay trắng, vốn điền sản của ông ta rất nhỏ nhoi, ông ta chuyên đi chực bữa nhà người, khét tiếng là kẻ ăn boóng, vậy mà lúc chết ông ta còn có đến một trăm ngàn rúp tiền mặt. Tuy thế suốt đời ông ta cứ là kẻ ngông cuồng nhất trong hạt chúng tôi. Tôi xin nhắc lại lần nữa: đây không phải là ngu xuẩn; phần lớn những kẻ ngông cuồng ấy khá tinh khôn và ranh mãnh, mà đây là vô lối nhưng là cái vô lối khá đặc biệt, mang màu sắc dân tộc. Ông ta đã hai đời vợ và có ba con trai: con cả, Dmitri Fedorovich, là con người vợ thứ nhất, hai đứa còn lại Ivan và Alecxei, là con người vợ sau. Người vợ đầu của Fedor Pavlovich là con một gia đình khá giàu có và danh tiếng thuộc dòng họ quý tộc Miuxov, cũng là địa chủ vùng chúng tôi. Làm sao một cô gái có của hồi môn, lại xinh đẹp, thêm nữa lại thuộc loại thông minh lanh lợi - loại thiếu nữ không lấy gì làm hiếm trong thế hệ hiện nay, nhưng thời trước cũng vẫn có - mà chịu lấy một gã “còm nhom” (như mọi người hồi ấy vẫn gọi gã) và hèn mọn như thế, điều này tôi sẽ không giải thích rườm rà. Tôi biết một cô gái thuộc thế hệ “lãng mạn” thời trước, sau mấy năm đeo đuổi mối tình bí ẩn với một người danh giá mà cô ta bao giờ cũng có thể rất yên tâm về làm vợ ông ta, nhưng rốt cuộc cô ta lại tưởng tượng ra những trở ngại không thể vượt qua được và một đêm bão bùng, từ mé bờ cao giống như một ghềnh đá cheo leo, cô ta gieo mình xuống dòng sông khá sâu chảy xiết: cô ta chết do tính đồng bóng của chính mình, chỉ cốt để được giống như Ophelia của Shakespeare, thậm chí nếu như bờ đá cheo leo ấy, mà cô đã để ý và ưa thích từ lâu, không được nên thơ như thế, nếu như thay vào đó chỉ là một bờ sông bằng phẳng tầm thường thì có lẽ không làm gì có chuyện tự vẫn. Đấy là việc có thực, và hẳn là trong đời sống Nga của chúng ta, hai hay ba thế hệ gần đây, những sự việc cùng loại đã xảy ra không ít. Cũng tương tự như vậy, hành động của Adelaida Ivanovna Miuxova chắc chắn là hồi âm của những luồng gió nước ngoài dội vào: đồng thời cũng là sự bực tức của tư tưởng bị cầm tù. Có lẽ nàng muốn biểu lộ ý chí độc lập của phụ nữ, đi ngược lại hoàn cảnh xã hội, chống lại sự chuyên chế của họ mạc và gia đình, và trí tưởng tượng hay chiều lòng người khiến nàng tin chắc, dù chỉ trong giây lát rằng Fedor Pavlovich tuy có tiếng là kẻ ăn chực, nhưng vẫn là một người can đảm nhất và tinh quái nhất trong cái thời đại đang chuyển mình theo chiều hướng tốt: nhưng thực ra gã chỉ là một thằng hề độc ác, không hơn không kém. Điều giật gân là sự việc xoay chuyển tới chỗ cô nàng bỏ nhà trốn theo gã và lấy thế làm khoái chí. Còn về phần Fedor Pavlovich thì thậm chí do địa vị xã hội của gã, gã hoàn toàn sẵn sàng thực hiện tất cả những trò vào loại đó, và gã háo hức muốn tiến thân bằng bất kì cách nào: chui luồn được vào một gia đình tử tế và kiếm được món hồi môn, là điều hết sức hấp dẫn. Còn về tình yêu đôi lứa thì hình như hoàn toàn không có, cả nàng cũng như chàng, mặc dù Adelaida Ivanovna rất xinh đẹp. Thành thử có lẽ đấy là trường hợp duy nhất thuộc loại này trong đời Fedor Pavlovich, một kẻ suốt đời háo sắc, sẵn sàng bám ngay lấy bất cứ cái váy nào vẫy gọi gã. Duy chỉ có người phụ nữ này không khơi gợi trong gã một hứng thú tình dục đặc biệt nào cả. ... Mời các bạn đón đọc Anh em Nhà Karamazov của tác giả Fyodor Mikhailovich Dostoevsky.
Du Hành Cùng Herodotus - Ryszard Kapuściński
Bạn có thể đọc vội, lướt qua, nhảy cóc hay bỏ đoạn một cuốn sách nào đó, nhưng xin đừng làm vậy với Du hành cùng Herodotus. Bởi như vậy, nghĩa là bạn đã tự khép lại trước mắt mình một cánh cửa độc đáo mở ra thế giới, đã rút ngắn một con đường mà kẻ ham hiểu biết cần đi, đã góp phần lãng quên một sử gia cần được hồi sinh, và nhất là, đã tự dập tắt khao khát bản năng và cháy bỏng trong mỗi con người: khao khát được xê dịch và khám phá! Nước Ba Lan xã hội chủ nghĩa những năm 1950, nghèo nàn và phong bế, phóng viên trẻ Kapuscinski chỉ có một ao ước duy nhất: được bước sang bên kia biên giới. Và khao khát ấy đột ngột trở thành hiện thực khi một năm sau, Kapuscinski được tổng biên tập cử đi công cán tại Ấn Độ, quà tặng lên đường không gì khác là tập Sử ký của Herodotus. Mang theo cuốn sách của người cha của lịch sử, niềm hứng khởi vô bờ trong tim và khuôn mặt ngơ ngác của kẻ lần đầu bước ra thế giới, Kapuscinski bắt đầu cuộc hành trình kép của mình. Một bên là những miền đất trải dài theo đường kinh độ và vĩ độ, sông ngòi và thác lũ, biển cả và núi non, còn bên kia là con đường qua từng trang sách để tìm lại dấu chân một trong những triết gia vĩ đại trong lịch sử nhân loại: Herodotus. Nếu bạn là người thích nối liền hai khoảng thời gian quá khứ và hiện tại, hãy theo con đường thứ hai, nơi Kapuscinski, bằng niềm ngưỡng vọng dành cho bậc triết nhân từ nhiều thế kỷ trước, đã nêu lên những câu hỏi, phỏng đoán và suy ngẫm về cuộc đời, thân thế, triết thuyết của Herodotus. Còn nếu bạn là người thích nối liền những khoảng cách không gian, hãy khoác ba lô lên và đồng hành cùng Kapuscinski trên con đường lầm bụi thứ nhất. Đó là Italy nhìn từ trên cao như một dòng sông ánh sáng, và duyên dáng với những piazza lúc lại gần, là Ấn Độ với đoàn người áo trắng lặng lẽ hành hương về sông Hằng thiêng, nơi những bè hỏa táng đang cháy rực trong đêm tối, là Bắc Kinh nghiêm cẩn xa lạ, khác với vẻ hào hoa cổ kính của đất Thượng Hải kề bên. Và cái nóng như tắm lửa buổi ban ngày và rét thấu xương của sa mạc đêm khiến bạn không thể quên Ai Cập. Có hai điểm nổi bật trong cách tiếp cận và khám phá một vùng đất mới của Kapuscinski, đó là: tiếp cận đối tượng từ góc độ thời sự và văn hóa. Bằng lối trần thuật tỉ mỉ, khách quan không khí, nếp sống, những bất ổn chính trị, Kapuscinski đã truyền cho người đọc hơi thở mỗi vùng đất ông qua. Algiers đang trong tâm bão của cuộc đảo chính những ngày Kapuscinski tới, im lặng và căng thẳng! Ngọn lửa nồng nhiệt của ông hoàng nhạc jazz Louis Amstrong không đủ làm loãng không khí nghi kỵ đặc quánh tại Ai Cập, và chế độ đẳng cấp tồn tại nghìn năm ở Ấn Độ, hiện lên sinh động hơn qua chân dung những người kéo xe, hầu phòng khách sạn hay đuổi ruồi đời con nối tiếp đời cha trong dinh thự lãnh chúa. Chuyển tải một cách trung thực những sự kiện trên trong hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm, Kapuscinski xứng đáng được tôn vinh trong vai trò của một thông tín viên quốc tế. Và giúp người đọc nhìn nhận mỗi vùng đất từ khía cạnh khác: khía cạnh văn hóa, Kaspuncinski xứng đáng được tôn vinh trong vai trò một nhà văn hóa. Hơn nửa thế kỷ trước, con người của xê dịch và du hành ấy đã nhìn thấy bên cạnh một Châu Phi bạo động bất ổn, là một Châu Phi của bản sắc văn hóa, với những diễn viên đường phố, những điệu nhảy cuồng nhiệt cùng hàng nghìn mặt nạ độc đáo góp phần tạo nên một thế giới bí ẩn và khác biệt. Những dòng so sánh sắc sảo, thú vị và hóm hỉnh giữa Ấn Độ và Trung Quốc cũng là điểm đáng dừng lại và đọc kỹ trong cuốn sách “Người Hindu là một cá thể thoải mái, người Trung Quốc- cứng nhắc và cảnh giác. Đám đông người Hindu là không định dạng, trôi nổi và chậm chạp, đám đông người Trung Quốc được xếp thành hàng, trật tự và bước đều bước. Tôi cảm thấy trên đám đông người Trung Quốc có một vị chỉ huy, một người có uy quyền, trái lại trên đám đông người Hindu là hội đồng tối cao các thánh thần không đếm xuể và có phần dễ dãi…”. Cuốn sách có tên là Du hành cùng Herodotus, và chuyến du hành ngược dòng thời gian cùng sử gia Hy Lạp là một trong hai mạch chủ đạo của tác phẩm. Song song với việc tái hiện những điểm chính trong cuốn sử ký của Herodotus, Kapuscinski góp phần làm sống lại một trong những sử gia vĩ đại nhất qua những suy đoán về cuộc đời, cá tính, hành trình chép sử của Herodotus cũng như nhận định về văn phong, cách xử lý tư liệu của sử gia cổ đại này. Ở cuối chuyến đi, Kapuscinski đã tới thăm quê nhà của Herodotus, như một cuộc gặp gỡ sau hơn hai mươi thế kỷ, nhưng mỗi người đọc đều phần nào nhận ra rằng, hai con người này, dường như đã gặp gỡ từ những trang đầu của cuốn sách, bởi những địa điểm họ cùng đặt chân tới, bởi khả năng đi, nhớ, ghi chép, kể lại, và đặc biệt, bởi niềm tin rằng: có thể miêu tả được thế giới này. Những lời sau đây Kapuscinski dành để nói về Horodotus cũng là những gì người đọc muốn dành để nói về Kapuscniski - phóng viên đã góp phần nối liền không chỉ một thế giới: “Cuốn sách của Herodotus hình thành chính là từ những chuyến đi, đó là thiên phóng sự vĩ đại đầu tiên trong nền văn học thế giới. Tác giả của nó có trực giác phóng viên, tai và mắt phóng viên. Ông không biết mệt mỏi, phải vượt biển, băng qua thảo nguyên, đi sâu vào sa mạc- chúng ta trân trọng điều này. Ông làm chúng ta khâm phục vì sự dẻo dai của mình, không bao giờ than vãn mệt mỏi, không gì làm ông ngã lòng, ông chưa một lần nào nói rằng mình sợ hãi điều gì đó. Điều gì đã thôi thúc ông, để ông không mệt mỏi và không sợ hãi dấn thân vào cuộc phiêu lưu vĩ đại của mình? Tôi nghĩ đó là niềm lạc quan mà chúng ta, những con người hiện đại đã đánh mất từ lâu: niềm tin rằng có thể miêu tả được thế giới”. *** Vài nét về Kapuscinski và Herodotus: - Kapuscinski Ryszard Kapuscinski (1932-2007) học lịch sử tại Warsaw rồi làm báo, trở thành phóng viên, chuyên viết về phóng sự nước ngoài, trong khoảng bốn mươi năm phụ trách các khu vực châu Á, châu Phi và Mỹ Latin. Ông rất thành công trong sự nghiệp phóng viên với các tác phẩm về chế độ Shah ở Iran hay các chế độ độc tài. Những cuốn sách nổi tiếng nhất của ông gồm Du hành cùng Herodotus, Imperium, Gỗ mun... - Herodotus Sử gia người Hy Lạp, sống ở thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, ông được coi là người cha của môn sử học trong văn hóa phương Tây. Herodotus là nhà sử học đầu tiên sưu tầm tài liệu một cách có hệ thống, tự kiểm chứng độ chính xác và sắp xếp thành những thể truyện sống động, hấp dẫn. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm Sử ký - một tài liệu ghi chép những tra cứu về nguồn gốc cuộc chiến tranh Ba Tư - Hy Lạp xảy ra vào giai đoạn 490 đến 479 trước công nguyên, cũng như phong tục của các sắc dân sinh sống tại Châu Á, Phi, Âu. *** Du ký là mảnh đất màu mỡ lúc xa xôi khi lạ lẫm vẫn là ấn tượng của con người vì thế giới rộng lớn bên ngoài. Tưởng chừng sự hoàn thành quá trình tìm hiểu cặn kẽ những miền đất lạ đã tước đi chỗ đứng của những nhà văn ưa phiêu lưu như Pierre Loti, Blaise Cendrars hay Rudyard Kipling, chấm dứt cái thời Paul Morand cảm khái mà thốt lên rằng: “Đi là chết một ít, nhưng ở lại là vỡ tan thành trăm mảnh” (Những cuộc du hành). Vậy nhưng, thế giới hiện đại của chúng ta vẫn còn những người như V.S. Naipaul và nhất là Ryszard Kapuscinski, một con người xê dịch, một thiên tài của quan sát và sự xâu chuỗi quá khứ với hiện tại. Nhà văn Ba Lan nhiều lần có tên trong danh sách ứng cử viên giải Nobel Văn học đã kể cho ta về châu Á, châu Phi trong một giọng văn đầy hứng khởi nhưng tỉnh táo và tỉ mỉ, mô tả con người ở khắp các ngóc ngách thế giới bằng một chủ nghĩa nhân văn được truyền lại theo con đường kỳ bí nào đó từ phần sáng chói của lịch sử nhân loại. Và không chỉ có vậy, ông còn mang trở lại cho chúng ta một sử gia Hy Lạp ít nhiều bị lãng quên: Herodotus. *** “Rất ít nhà văn viết được đẹp đến vậy về những điều không thể nói ra. Rất ít nhà văn có được sự can đảm của ông, gần như không ai sở hữu tài năng lớn như ông. Những cuốn sách của ông thay đổi cách thức mà nhiều người chúng ta thường nghĩ về phi hư cấu.” - The New York Times “Mỗi khi có biến cố nào xảy ra trên thế giới, ông lại muốn lẻn một chiếc máy bay để tới. Nếu nghe nói về một con đường không ai đi nổi mà sống sót, ông sẽ đi vào đó, chỉ để xem mình có vượt qua được hay không. Cách hiểu thế giới của ông là đi tới điểm nóng, nơi mọi thứ đang sôi sục lên. Và quả thực tôi nghĩ không ai tự đẩy mình vào vòng hiểm nguy nhiều như ông lại hoàn toàn bình thường cho được.” - Salman Rushdie “Dù thế nào đi nữa ông cũng vẫn là một thiên tài đặc biệt có một không hai ở thời hiện đại, có lẽ ngoai trừ Kafka.” - Jonathan Miller, Guardian   Mời các bạn đón đọc Du Hành Cùng Herodotus của tác giả Ryszard Kapuściński.