Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trong Khi Chờ Bojangles

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Trong Khi Chờ Bojangles của tác giả Olivier Bourdeaut & Trần Thị Khánh Vân (dịch). “Một câu chuyện cổ tích kỳ lạ.” – The New York Times Trước ánh mắt ngạc nhiên đầy ngưỡng mộ của cậu con trai, họ khiêu vũ trên nền nhạc lãng mạn của Nina Simone, Mr. Bojangles. Tình yêu của họ giống như một phép mầu, một bữa tiệc vui kéo dài mãi không dứt. Nơi họ chỉ có chỗ cho niềm vui, sự phóng túng, cuồng ngông và bạn bè. Trong những điều đẹp đẽ và ngay cả trong những biến cố bất hạnh xảy ra, chỉ có tình yêu là điều lớn lao hơn cả. Và, “tình điên” chưa bao giờ đúng với tên gọi của nó đến thế. Gặt hái thành công lớn ngay từ những tuần đầu tiên sau khi phát hành (tháng Một năm 2016), Trong khi chờ Bojangles tiếp tục giành được nhiều giải thưởng văn chương, trong đó có giải Tiểu thuyết France Télévisions, Giải thưởng lớn của RTL-Lire, giải Emmanuel-Roblès, giải tiểu thuyết dành cho sinh viên của France Culture-Télérama và giải thưởng của Viện Hàn lâm Văn học vùng Bretagne và Pays de la Loire. Năm 2019, Trong khi chờ Bojangles được đạo diễn sân khấu Victoire Berger-Perrin dàn dựng thành vở kịch cùng tên, giành được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình và báo chí. Trước đó, năm 2017, tác phẩm của Olivier Bourdeaut cũng đã được hai tác giả Ingrid Chabbert và Carole Maurel chuyển thể thành truyện tranh. ĐÔI ĐIỀU VỀ TÁC GIẢ: Olivier Bourdeaut sinh năm 1980 tại Nantes, Pháp. Từ một nhân viên môi giới bất động sản, ở tuổi 30 anh quyết định rẽ hướng sang lĩnh vực văn chương. Anh dành ra hai năm để viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên song không tìm được sự đồng ý từ bất cứ nhà xuất bản nào. Sau đó anh tới sống ở nhà bố mẹ mình tại Tây Ban Nha, tập trung viết tiểu thuyết thứ hai, Trong khi chờ Bojangles, và hoàn thành nó trong vòng bảy tuần lễ. Lần này, câu chuyện nhẹ nhàng và điên rồ mà Olivier Bourdeaut kể lập tức gặt hái được thành công vang dội ngay sau khi được phát hành. *** Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Trong Khi Chờ Bojangles của tác giả Olivier Bourdeaut & Trần Thị Khánh Vân (dịch) Tóm tắt: Cuốn sách xoay quanh câu chuyện tình yêu kỳ lạ và đầy màu sắc của cặp vợ chồng Georges và Camille. Họ sống trong thế giới tưởng tượng của riêng mình, nơi tràn ngập niềm vui, sự phóng túng và tình bạn. Cậu con trai của họ, Gary, chứng kiến ​​tình yêu đặc biệt của cha mẹ và dần bị cuốn vào thế giới tưởng tượng ấy. Tuy nhiên, cuộc sống của họ gặp biến động khi Camille mắc bệnh Alzheimer. Georges phải đối mặt với thử thách lớn khi chăm sóc vợ và giữ gìn thế giới tưởng tượng của họ. Review: Ưu điểm: Câu chuyện tình yêu độc đáo và đầy cảm xúc: Cuốn sách mang đến một góc nhìn mới về tình yêu, không chỉ là sự lãng mạn mà còn là sự đồng hành và hy sinh. Lối viết nhẹ nhàng, tinh tế và đầy ẩn dụ: Tác giả sử dụng những hình ảnh ẩn dụ để miêu tả thế giới tưởng tượng của các nhân vật, khiến cho câu chuyện thêm phần huyền ảo và lãng mạn. Khắc họa chân thực những khó khăn khi đối mặt với bệnh Alzheimer: Cuốn sách giúp người đọc hiểu rõ hơn về những ảnh hưởng của bệnh Alzheimer đối với người bệnh và gia đình họ. Nhược điểm: Cái kết gây tranh cãi: Cái kết của câu chuyện có thể khiến một số người đọc cảm thấy hụt hẫng hoặc khó hiểu. Một số chi tiết trong câu chuyện có thể khó hiểu: Cuốn sách sử dụng nhiều ẩn dụ và biểu tượng, có thể khiến người đọc khó nắm bắt được ý nghĩa của câu chuyện. Đánh giá chung: Trong Khi Chờ Bojangles là một cuốn sách đẹp và buồn về tình yêu, mất mát và trí nhớ. Cuốn sách là lời nhắc nhở quý giá về việc trân trọng những khoảnh khắc hiện tại và yêu thương những người xung quanh. Điểm đánh giá: 4/5 Đối tượng phù hợp: Người yêu thích tiểu thuyết lãng mạn. Người quan tâm đến những câu chuyện về tình yêu và mất mát. Người muốn tìm hiểu về bệnh Alzheimer. Lời khuyên: Nên đọc sách với tâm hồn cởi mở và sẵn sàng đón nhận những cảm xúc khác nhau. Nên tìm hiểu thêm về bệnh Alzheimer để hiểu rõ hơn về những khó khăn mà người bệnh và gia đình họ phải đối mặt. Trích dẫn: "Tình yêu là thứ duy nhất còn lại khi chúng ta đã mất tất cả." - Olivier Bourdeaut "Trí nhớ là một thứ mỏng manh, nó có thể tan biến bất cứ lúc nào." - Olivier Bourdeaut "Cuộc sống là một hành trình đầy những điều bất ngờ, hãy trân trọng từng khoảnh khắc hiện tại." - Olivier Bourdeaut *** Trong khi chờ Bojangles: Một vùng La La Land Sự thật thường rẻ mạt, trừ phi nó nực cười như một lời nói dối, tôi chua xót nhận ra. Những cuốn sách Pháp luôn gợi một cảm giác nào đó vô cùng lạ lùng, như thể những nhát cắn trên chiếc bánh gato nhiều tầng mà mỗi tầng lại chứa những cảm xúc khác nhau. Nhưng điểm chung là chúng hài hòa, đầy đủ hương vị, không cô đọng hay duy ý chí. Những nụ hôn điện ảnh từng mang đến cái đẹp của góc nhìn phía sau màn trập trong những gì hối tiếc đã qua; Hẹn gặp lại trên kia xuyên suốt là nỗi buồn thương, nhưng song song cũng là cái bất cần đời, là cái ngạo nghễ ngao du theo mọi phương hướng. Và Trong khi chờ Bojangles cũng không ngoại lệ. Nhẹ nhàng như một lời thủ thỉ, Olivier Bourdeaut xắn tay áo pha trộn cho độc giả một ly cocktail với đầy đủ hương vị thoang thoảng: một nỗi buồn vui, kích động, trầm lắng, xót xa trong một bút pháp tinh tế đến mức điêu tàn; và còn gì khác ngoài chờ người đọc đến thưởng? Lý do đầu tiên chọn đọc Trong khi chờ Bojangles không gì hơn ấn tượng ban đầu với bìa sách theo chủ nghĩa tối giản mô tả cặp đôi đang khiêu vũ, phía sau là máy quay đĩa than thời đệ nhị Thế chiến và những khuôn nhạc lẻ tẻ tách dòng. Hơn thế nữa, tựa đề cuốn sách nhắc nhớ đến một bài ca của Nina Simone, Mr. Bojangles trong đĩa Here Comes The Sun. Quay lại quá khứ vào năm 1965, khi bị tống vào nhà tù bang New Orleans vì một vụ ám sát trên đường phố, ca sĩ nhạc đồng quê Jeff Walker đã làm quen với một người đàn ông vô gia cư cùng ngồi trong khám. Ở đó, khi người ta kể lại câu chuyện cuộc đời cho nhau nghe, người đàn ông này đã làm bầu không khí trầm xuống khi kể về chú chó đã chết của mình. Lập tức một ai đó muốn mọi thứ vui tươi trở lại, thế là họ nài nỉ người đàn ông nọ, Mr. Bojangles – đứng lên và nhảy một điệu tap dance. Sau này Bojangles trở thành một danh từ chung ý chỉ những nghệ sĩ đường phố nhảy tap dance thường thấy trong văn hóa Mỹ, bước chân vào Hollywood và phủ rộng các làn sóng văn hóa. Điều cuốn hút hơn nữa còn là màu sắc mà bìa sách sử dụng. Như một cuốn phim âm bản giữa hai màu đen trắng được giản lược đến mức tối đa, cuốn sách như một mồi nhử khiêu khích người đọc – không cần màu mè hoa lá nhưng vẫn cuốn lấy người khác bằng vẻ huyễn hoặc. Và với Trong khi chờ Bojangles, người đọc phần nào cũng có thể phân định nó theo ba màu cơ bản: giữa trắng ngông cuồng, vui tươi; đen trầm uất, xót xa và đỏ của những vết thù hằn lại khi đến tận cùng cuốn sách. Sau khi trang cuối khép lại, chắc hẳn sẽ có ai đó nói đây là một nồi lẩu của tả pí lù mọi chuyện trên đời; nhưng chắc hẳn cũng có những người lật mở được điều gì đó giữa những tầng lớp ấy, để thấy được một tia sáng dù nhỏ mọn soi chiếu nội tâm nhẹ nhàng và thoảng hoặc như một cơn gió. * Cuốn sách kể về câu chuyện của một gia đình Pháp điển hình trong hai ngôi kể đan xen giữa bố và cậu con trai nhưng cùng hướng chung về nhân vật người mẹ. Nếu độc giả dễ dàng nhận ra tình cảm trìu mến trong những phân đoạn của bố, về những trò đùa tuổi trẻ, về tình yêu ngông cuồng; thì cậu con trai là góc nhìn vô cùng hồn nhiên, của những hờn giận, ghen tuông, của những thứ rất dễ chấp nhận khi bi kịch xảy đến. Nút thắt xoay chuyển mọi thứ có lẽ là vào ngày viên thanh tra thuế đến, và mọi thứ sụp đổ, kéo theo cơn điên của người mẹ như cơn bão chạm bờ. Tiếp sau đó là những tháng ngày chống chọi với buồn thương, của kiềm hãm cảm xúc, của tuyệt vọng đôi khi vô vọng. Như đã nói trên, Trong khi chờ Bojangles là cuốn sách tổng hòa của những hương vị, nên dẫu là ai, cuốn sách cũng khép mình đứng đó như chúng ta tự soi chiếu mình. TRẮNG Ngay câu mở đầu cuốn sách, Olivier Bourdeaut đã rào đón người đọc bước vào mảnh đất hài hước của mình bằng cách lựa chọn nhân vật độc đáo, giữa những cá nhân đầy rực rỡ tình yêu tuổi trẻ. Nếu người bố tự nhận mình như một tên hề tràn ngập hạnh phúc, với lối sống phóng túng và bất cần đời của những trò đùa với giới tư bản giàu có, dễ gợi nhắc đến Jack của Titanic; thì vợ anh, người mẹ luôn luôn chuyển động và không có một cái tên chính thức nào, sinh ra như để dành cho nhau. Gặp nhau trong một bữa tiệc vô tình, họ choáng ngợp bởi cái nhìn chếnh choáng say rượu, và ngay sau đó trở thành tình nhân sau chuyến chạy thoát thực tại trong ánh đèn đường. Mối quan hệ không đầu không đuôi ấy mang cho người đọc những tràng cười mê mải, với những chi tiết khôi hài những tưởng chỉ David Williams mới nghĩ ra được, về việc mỗi ngày đặt một cái tên, và sử dụng cái tên ấy không quá hai ngày cho người mẹ; về việc nuôi con sếu mà sau này được gán biệt danh “Quý cô thừa thãi”, về những trận cãi nhau chí chóe giữa bà mẹ và cô giáo cậu con trai… Tất cả làm nên một bầu không khí dễ chịu, vui tươi của những nhân vật kỳ lạ, đôi lúc lạ lẫm đến phi logic. Nhưng người đọc có nề hà gì. Với họ, niềm vui đọng lại đằng sau các nhân vật này mới là trên hết. Sự lãng mạn đậm chất Pháp cũng được Olivier mang vào cuốn sách này với nhạc jazz tụ hội tiệc tùng, với Nina Simone, với slow dance chậm rãi. Ở đó, vào những tối trong ngày, hai vợ chồng họ tổ chức tiệc cocktail cho đầy đủ mọi người, từ người quen thân cho đến chỉ mới gặp lần đầu. Không khí đậm chất hoài cổ mà vương giả ấy cho người đọc một sự ấm cúng giữa những cái chạm, ánh mắt, bờ môi; những cái lắc hông, chạm má tình tứ. Ngoài những nhân vật vui vẻ tràn ngập niềm vui ấy, Trong khi chờ Bojangles cũng đồng thời chứa đựng cái tinh tế mà đẹp đẽ của sự lãng mạn, rất Pháp, rất Âu châu. Nhưng gia đình nhỏ hạnh phúc ấy, những tiệc tùng nhảy múa đến đêm ấy, những chuyến đi đến thiên đường – pháo đài Tây Ban Nha ấy kéo dài không lâu, mà hồi chuông cảnh tỉnh là thời khắc cái bấm chuông của ông thanh tra thuế vang lên. Hàng tá thư dồn đống trong góc mà họ chẳng buồn mở ra, hóa ra là nguồn cơn cho sự sụp đổ manh nha này. Người bố bất ngờ trước tài sản vật chất từng thứ trôi tuột qua tay, trong khi người mẹ suy sụp đến mức cơn điên tìm đến. Cốt truyện từ khoảnh khắc này trở đi hóa thành một màu đen nhẻm, của tuyệt vọng bi thiết. Olivier như một họa sĩ lành nghề của lĩnh vực sắc độ. Ông chuyển mạch truyện êm ả như cú cua gấp trong màn đêm chuyển màu ombre đầy thời trang. Và cũng từ đây, một mùi hương khác lại được thêm vào, nghe chừng ra mùi kết thúc. ĐEN Từ bi kịch ấy, chứng rối loạn lưỡng cực như đến xâm chiếm người mẹ. Bà bị phân thân giữa những tràng cười điên dại bất tận và những trò lố của người mất trí. Bà quên sạch mọi bước khiêu vũ, cứ thể khỏa thân đi mua thức ăn, cố gắng viết sách, sơn phủ lại nhà, rồi cuối cùng đốt chính ngôi đền Pantheon thiêng liêng của cuộc hôn nhân mình. Em đã đốt tất cả các kỷ niệm của chúng ta, chỉ có cách đó họ mới không tìm ra chúng, như câu nói một hôm khi căn hộ của họ bốc cháy, còn bà mụ mị thiếp đi khi tay vẫn ôm chiếc máy quay đĩa phát bài Mr. Bojangles và con sếu mang danh “Quý cô thừa thãi”. Kể từ đó, người bố sống trong việc nhận thức rõ người mình yêu thương nhất đã không hoàn toàn như trước. Anh bình tâm an ủi cậu con trai bằng những câu sáo rỗng, rằng mọi thứ rồi sẽ ổn, rằng cả sự điên rồ này cũng thuộc về bố con ạ, rằng giờ thì đã qua hết rồi. Anh khóc ngay cả bữa sáng hay những bữa xem phim, khóc khi nhìn tấm hình cả gia đình nhỏ bé còn sót lại, khóc vào ban ngày thực sự khác lắm, vì đó là một mức độ đau buồn khác. Anh bất lực đứng nhìn người đàn bà mình yêu bị chuyển vào viện, ở tầng ba dành cho người chưa mất hẳn trí nhớ nhưng được chỉ định là không bình thường. Kể từ nay, ngày nào chúng tôi cũng phải chứng kiến cảnh mẹ nó mê sảng tại một phòng bệnh, rằng mẹ nó là một bệnh nhân tâm thần và nó phải ngoan ngoãn chờ mẹ khuất dần.  Nhưng cặp vợ chồng hoàn hảo ấy dĩ nhiên không dừng chân tại đó. Họ nuôi một kế hoạch khác để làm phong phú cuộc đời như họ vốn đã từng. Bằng cách nào? Cướp ngục bắt cóc bệnh nhân ra khỏi bệnh viện bằng lối cửa chính. Hẳn nhiên bạn không nghe nhầm, thế mới nói, Olivier là một tác gia kì lạ, ông thách thức mọi thứ logic chặt chẽ nhất, dễ thấy nhất; nhưng lạ thay, độc giả dễ dàng chấp nhận cho chính điều này. Tưởng như Catharina Ingelman-Sundberg của bộ Bà già phá luật, hai bố con họ đến giải cứu người mẹ trong viện tâm thần như cuốn phim Ba chàng ngốc. Họ rời khỏi đó, đến tòa lâu đài thiên đường của họ và sống cuộc đời như bao người muốn. Nhưng cơn điên không vì thế mà tha thứ cho họ. Người mẹ và những cơn bùng phát nhất thời, giận dữ và đập phá liên tục sau đó, dẫn đến yêu cầu tối hậu được nhốt riêng trên căn áp mái của tòa pháo đài. Người bố vì tình yêu vô bờ bến cam chịu đồng ý. Ông xoa dịu bà mỗi khi cơn điên ập đến, rồi đến một lúc, ông bế bà lên những bậc thang, lên chốn ẩn nấp dành cho cơn điên quần tụ. Cậu bé thì bịt chặt tai, chạy ra hồ nước tránh xa tiếng hét. Cơn điên như loài gặm nhấm, ăn mòn ăn dần từ trong gốc rễ, từ trong gia đình. Không ai đứng đủ gần để quan sát, mà chỉ còn đó cây thông u linh đứng riêng một mình. ĐỎ Có hai chi tiết ẩn mình khiến người đọc trăn trở mãi trong câu chuyện của Olivier. Dẹp sang đằng sau những hài hước bề ngoài, những phi logic của cuộc giải cứu; thì hình ảnh người mẹ và nước mắt lăn dài khi pháo hoa rơi mang đến một chút gì đó như nhận thức về vẻ đẹp tự hủy. Khi sự sung túc vẫn còn mới chớm, những ngày sinh nhật của bà luôn được đánh dấu bằng những tối liên hoan âm nhạc, với cocktail, rượu vang, với slow dance, đầy đủ mọi thứ. Thế nhưng khi pháo hoa tàn, bà vẫn rơi nước mắt. Có thể là bởi vẻ đẹp tàn lụi nhanh chóng hay có thể đó là khi bà đã nhận ra điều sẽ đến? Không ai biết được. Chỉ biết cũng hình ảnh ấy, trong buổi tiệc địa phương của người Tây Ban Nha khi mọi thứ lụn bại, cuộc sống sắp kết thúc; câu hát của Nina Simone lại cất lên vang vọng, giữa những đỉnh cực trị lên xuống hình sin, của ảo ảnh chòng chành, của khoảnh khắc kết thúc quá sớm. Thời khắc ấy được kéo dãn ra như thời gian nhảy lên hẫng xuống của điệu tap dance, như thời khắc tan biến của tia lửa, như cuộc đời đã đến hồi kết. He jumps so high and then he lightly touches down. Hình tượng thứ hai, cây thông ở trước hồ nước. Đối với người mẹ, trong những tháng ngày ảo ảnh vần chuyển của cơn điên loạn, đây là một trong những thứ khiến bà điên tiết đến mức đòi chặt nó đi. Không ai hiểu rõ được nguyên nhân hơn người trong cơn cuồng nộ ấy, nhưng liệu có phải vì nó đứng đơn độc trơ trụi một mình, thân phận của bà và nó như gần giống nhau? Bà muốn giải thoát nó, muốn nó phiêu diêu trên những con thuyền xuôi ngược đại dương, làm thứ có ích hơn là chỉ đứng yên đó. Còn với người bố đâm mình chán nản vào rượu mỗi tối, việc tưới rượu xuống cây thông ấy như đang mời rượu hay còn dụng ý nào khác? Liệu có âm mưu muốn phá hủy nó, biến nó thành chứng nhân cho tình yêu của ông với bà, chứng nhân cho sự hy sinh đến một đỉnh điểm vô bờ bến? Và cuối cùng khi mọi chuyện đã soi tỏ, rừng thông cũng là nơi ông trở lại, sống với bà, mặc kệ thế thái sau khi mọi thứ đã được nói rõ, mọi câu chuyện đã được kể xong. Cây thông đứng đó như sợi dây liên kết, như nỗi cô độc, như chứng nhân, như sự tan biến. * Trong khi chờ Bojangles không thiếu những điều vô lý, nhưng nếu hỏi độc giả có thể tha thứ cho nó không, e rằng câu trả lời là có. Olivier dựng lên một chuyện tình đẹp đẽ đến siêu thực, và những thứ vô lý ấy, nếu có thêm vào, chẳng qua cũng để sống trong giấc mơ tuyệt vời. Cuộc tình điên dại đầy hoang vu này đôi lúc gợi nhớ đến Mia và Sebastian trong La La Land và vẻ đẹp của sự tự hủy. Có chăng mối tương quan giữa những cuộc tình đẹp và sự kết thúc đầy trái ngoe? Không ai biết được. Nhưng với Trong khi chờ Bojangles, giọng văn kể cả của những trò đùa vỡ bụng và nỗi đau thầm kín đã hòa trộn vào nhau, làm nên tình yêu đẹp đến nghẹt thở. Với giọng văn nhẹ nhàng và sự thấu hiểu nhiều lớp cảm xúc, Olivier Bourdeaut đã viết nên một câu chuyện vô cùng đẹp đẽ, câu chuyện từ rất lâu rồi, từ sau La La Land, từ sau Bọt tháng ngày, từ sau Những nụ hôn điện ảnh độc giả mới một lần nữa lại được trải nghiệm, đắm chìm và dành một phút nhìn lại mọi thứ xung quanh.  Hết. Ngô Thuận Phát Mời các bạn mượn đọc sách Trong Khi Chờ Bojangles của tác giả Olivier Bourdeaut & Trần Thị Khánh Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Thiên Đường Tiền Xu Tập 4
Cuộc đấu đã chính thức bắt đầu! Hoa quả đóng hộp linh tính và Bánh giầy rán lươn lẹo, Hộp tiết kiệm giấc ngủ và Bánh gạo mất ngủ… Liệu bánh kẹo ở một cửa tiệm thử vận may người mua như Thiên đường tiền xu có thể níu chân khách hàng trước đám bánh kẹo đầy cám dỗ chết người từ Cửa hiệu tai ương? Ham muốn rồi ân hận, mừng vui rồi phẫn nộ, ganh ghét rồi đồng cảm… Cuộc phiêu lưu vào thế giới ma thuật với mọi cung bậc cảm xúc vẫn vô cùng gay cấn và đầy bất ngờ ở phía trước. *** Hiroshima Reiko, sinh tại tỉnh Kanagawa, Nhật Bản và là một tác giả sách thiếu nhi lừng danh. Năm 2005, bà đoạt giải Juniorboukenshousetsu với tác phẩm Suiyou no mori. Bà cũng là tác giả của vô số các tác phẩm văn học thiếu nhi, kỳ ảo nổi tiếng khác. jyajya, sinh tại Fukuoka, từng làm nhân viên cho một công ty phát triển các ứng dụng trên điện thoại. Năm 2011, jyajya bắt đầu ra làm thiết kế tự do và hiện đã lấn sân sang cả lĩnh vực vẽ minh họa. *** HOA QUẢ ĐÓNG HỘP LINH TÍNH VÀ BÁNH GIẦY RÁN LƯƠN LẸO Được rồi! Tuyệt quá! Cuối cùng cũng được! Yuuta rảo bước trong hẻm, lòng thầm reo lên sung sướng. Bước chân cậu bé nhẹ bẫng như thể đang đi trên mây, cứ ngỡ bay lên được đến nơi. Yuuta vội vàng trở về nhà, vừa đi cậu bé vừa ngắm nghía món đồ đang nắm chặt trong lòng bàn tay. Và thứ cậu bé đang giữ khư khư kia là một món đồ hộp cỡ lớn. Nhìn thì như đào đóng hộp nhưng bên ngoài lại dán tem ngôi sao màu bạc, và in hình một loại trái cây cậu bé chưa thấy bao giờ. Trên đó còn ghi dòng chữ to màu đỏ “Hoa quả đóng hộp linh tính”. Yuuta nhìn hoài, nhìn mãi mà vẫn không thể tin vào mắt mình. Thế nào mà cậu lại có được một thứ tuyệt diệu như này chứ. Số mình... cứ phải nói là đỏ như son! Chỉ vừa mới đây thôi, tâm trạng chán chường tột độ chẳng mấy khi gặp kia còn bủa vây lấy cậu bé. Chả là điểm kiểm tra lần này của cậu thấp thậm tệ. Yuuta vốn học hành dở tệ. Cậu bé mù tịt mọi thứ, chẳng biết nên học cái gì, học như thế nào, chỗ nào mới quan trọng, rồi chỗ nào sẽ có trong bài kiểm tra. Yuuta thấy chương trình lớp năm có quá nhiều thứ phải học. Cậu bé chán ngấy, “Nhiều thế này làm sao mà nhớ hết được.” Thành ra cậu bỏ bê hết cả, để rồi cuối cùng nhận điểm kém như thế đấy. Bố mẹ Yuuta cũng phát điên lên được với thành tích học tập của cậu bé. Nếu kết quả kiểm tra lần này bị phát giác, có khi bố mẹ sẽ tống cậu đi học thêm mất. Gì chứ chuyện này là cậu ghét cay ghét đắng. Học ở trường thôi đã đủ mệt lắm rồi, sau đấy lại còn phải chúi mũi ở lớp học thêm nữa có mà phát khiếp. Kết quả là, trên đường đi học về, Yuuta giật phắt lấy ba lô của cậu bạn Yousuke cùng lớp, trút sạch mọi thứ bên trong xuống lòng đường hòng giải tỏa cơn bực tức. Yousuke thì mít ướt, yếu đuối thành ra luôn là đối tượng trêu ghẹo hàng đầu của Yuuta. Hôm nào cũng vậy, cứ hễ tan học, Yuuta lại gọi Yousuke “Đi chơi thôi”, sau đó bắt bạn mình mua nào bánh kẹo, truyện tranh, rồi còn đấm liên hồi vào Yousuke và biện minh ấy là để luyện đấm bốc. Thế nhưng, nếu phải đi học thêm thật, Yuuta sẽ không thể trêu chọc Yousuke được nữa. Nghĩ vậy cảng khiến cậu nhóc ủ ê hơn. “Điểm kém đâu phải lỗi tại mình. Nếu biết bài kiểm tra ra chỗ nào thì mình đã học hành tử tế. Giá mà có bí quyết để học giỏi nhỉ.” Chẳng rõ có phải do cậu nhóc vừa đi vừa nghĩ miên man như thế không mà lúc nhận ra, Yuuta đã dừng chân trong một con hẻm lờ mờ tối lạ hoắc. Trước mặt cậu nhóc còn có một tiệm bánh kẹo nhỏ. Cả tiệm kẹo toát lên vẻ kỳ lạ hiếm có. Bánh kẹo bày trước tiệm thì rặt những loại Yuuta lần đầu nhìn thấy. Nào là Pudding nhảy cao, Bi đại bàng, Castatella tạp dề, Mạch nha cầu vồng, rồi Bánh bao sói, Bánh quy mạo hiểm, Cà phê bạn bè, Thạch xấu tính, Socola trứng yêu tinh... “Tuyệt thật. Mấy thứ này ngầu quá đi!” Trong lúc Yuuta còn đang mải mê ngắm nghía, một người phụ nữ bước ra từ trong tiệm. Đó là một bà bác tướng tá cao lơn đẫy đà. Mái tóc trắng phơ nhưng gương mặt trẻ trung, nhìn thế này chắc không phải bà bác rồi. Người phụ nữ ăn vận khá cầu kỳ, bộ kimono màu đỏ tím họa tiết đồng xu cổ, trâm cài đầu gắn vô số những viên thủy tinh sặc sỡ sắc màu. Yuuta bàng hoàng, cứ đứng đực ra đó. Người này không chỉ to lơn khác thường, mà khí chất còn vô cùng lấn át. Thế rồi người phụ nữ ấy nhoẻn miệng cười. “Vị khách may mắn của ngày hôm nay đây rồi, chào mừng đến với Thiên đường tiền xu. Nào, mời quý khách vào trong xem cho kỹ. Chắc chắn quý khách sẽ tìm thấy loại bánh kẹo mà mình mong muốn đấy.” Yuuta cứ thế bước vào cửa hàng theo lời mời của người phụ nữ. Bên trong bánh kẹo hóa ra còn đa dạng hơn nhiều. Loại nào loại nấy đều vô cùng thu hút. Nhưng chẳng hiểu sao Yuuta chưa thấy thích thứ nào cả. Lẽ ra như bình thường, cậu nhóc đã muốn mua cả cửa hàng rồi. Thấy Yuuta nghiêng đầu ra chiều ngẫm nghĩ, người phụ nữ lên tiếng. “Nếu không phiền quý khách có thể cho Beniko này biết thứ mình muốn. Ta sẽ tìm giúp. Mà quý khách đang mong muốn điều gì vậy?” Giọng nói ngọt ngào của bà chủ tiệm từ từ len lỏi vào tận tâm can Yuuta. Chẳng biết từ lúc nào, cậu nhóc đã buột miệng trả lời: “Cháu muốn biết bài kiểm tra sẽ ra vào chỗ nào, phần nào quan trọng, rồi phải nhớ đoạn nào. Nhưng làm gì có thứ...” “Có đấy.” Bà chủ tiệm gật đầu quả quyết, lấy ra một món đồ hộp. “Đây là Hoa quả đóng hộp linh tính. Trong này toàn những loại quả mang lại vô vàn sáng kiến tuyệt vời. Ăn vào, tự nhiên quý khách sẽ đoán ra mọi câu hỏi trong bài kiểm tra. Cứ học theo đó chắc chắn không chệch đi đâu được. Chẳng cần phí công học những thứ không cần thiết. Đây đúng là món đồ quý khách muốn rồi còn gì?” Yuuta không thốt nên lời. Cậu nhóc không tài nào rời mắt khỏi món đồ hộp trên tay người phụ nữ. Chính là thứ này! Đúng như bà chủ tiệm nói, đây chính là thứ dành cho mình! Giá nào mình cũng phải có được nó! “Cái này bao... bao nhiêu tiền vậy ạ?” “Năm trăm yên thôi. Nhưng quý khách hãy trả bằng đúng đồng năm trăm yên nhé.” Yuuta lập tức nhòm vào ví. Vừa hay có đồng năm trăm yên trong đó, cậu nhóc liền đưa đồng xu cho người phụ nữ. Bà chủ tiệm nhoẻn miệng cười. “Vâng. Đúng là đồng năm trăm yên năm Chiêu Hòa thứ năm mươi chín, đồng xu của ngày hôm nay đây rồi. Còn đây là Hoa quả đóng hộp linh tính của quý khách.” Vậy là Hoa quả đóng hộp linh tính đã thuộc về Yuuta. Cậu nhóc ra khỏi cửa hàng, sải bước về nhà. Trống ngực cậu vẫn đập thình thịch. Cậu nhóc thầm nghĩ, phải mau mau về nhà ăn thử mới được. Yuuta bước đi vô cùng hào hứng, định bụng rẽ phải ở đầu con hẻm. Vậy mà chẳng hiểu sao, chân cậu đột ngột tự ý di chuyển, lái Yuuta sang bên trái. Phía trước tối đen như mực, thế rồi một cửa tiệm từ đâu thình lình xuất hiện. Trông nơi này vừa giống quán cà phê kiểu Nhật, lại vừa giống một quán rượu hơi kiểu cách. Tường được làm từ vữa và tre đen, tấm rèm che màu xanh lam đậm trước cửa đề dòng chữ “Cửa hiệu tai ương”. Đột nhiên Yuuta thấy lạnh hết sống lưng. Như kiểu cậu vừa nhìn một thứ không nên nhìn. Yuuta bụng bảo dạ, phải chuồn lẹ thôi. Cậu toan quay đi thì thấy một bàn tay thò ra từ sau tấm rèm. Bàn tay ấy nhỏ nhắn, trắng nõn nà, rồi bàn tay bỗng làm động tác vẫy vẫy, ra chiều gọi cậu nhóc lại. Ngay lập tức, Yuuta đưa chân bước về phía đó như bị hút bởi một thế lực vô hình. Cậu nhóc đi thẳng tới tiệm “Cửa hiệu tai ương”. Yuuta chui qua tấm rèm bước vào tiệm, bên trong rộng khoảng ba chiếu[*]. Góc trong cùng đặt tủ quầy màu đen, và chỉ có duy nhất một chiếc ghế cao. Đổi diện quầy là cánh cửa đang đóng im ỉm. [*] Một chiếu tương đương 1,653m2 Rốt cuộc đây là cửa tiệm gì vậy nhỉ? “Tiệm của ta có tên là Cửa hiệu tai ương, nó sẽ biến mọi tham vọng của cậu thành sự thật.” Một giọng nói khàn khàn bất ngờ cất lên khiến Yuuta giật nẩy mình. Ngay cạnh Yuuta lúc này đây là một cô bé tầm bảy tuổi. Cô mặc bộ kimono đen điểm xuyết hoa đỏ độc đáo. Cô bé trông xinh xắn trắng trẻo là thế, nhưng lại tỏa ra khí chất đáng sợ lấn át đối phương. “Mời cậu xem hàng,” cô bé mỉm cười tự mãn. Giọng nói khàn đặc ban nãy vang lên từ khóe miệng đỏ chót của cô bé, chẳng ai nghĩ đó lại là giọng trẻ con. Thế nhưng, thanh âm ấy dễ chịu đến lạ lùng, khiến người khác cứ muốn nghe mãi. Thấy Yuuta có vẻ cảnh giác, cô bé liền nói “Cậu cứ ngồi xuống đi đã,” rồi mời cậu nhóc ngồi xuống chiếc ghế duy nhất trong phòng. Yuuta sợ hãi ngồi lên ghế, cô bé vòng ra sau quầy, đứng đối diện cậu, mắt vẫn nhìn Yuuta chằm chằm. “Cậu vừa mua bánh kẹo ở Thiên đường tiền xu phải không?” “À...” Yuuta cuống cuồng giấu Hoa quả đóng hộp linh tính ra sau lưng, cô bé thấy vậy liền nhếch mép cười khẩy. “Tưởng gì, ra là Hoa quả đóng hộp linh tính à? Ừm, tốt thì cũng tốt thật đấy. Nhưng chỉ là thứ nửa mùa thôi, cậu bé ạ. Đồ rởm đó.” “Rởm... rởm á?” “Thì đấy, chẳng phải cậu ăn thứ đó rồi nhưng vẫn phải học hay sao? Cậu vẫn sẽ phải cần mẫn đọc sách giáo khoa, nhồi nhét kiến thức vào đầu. Cậu không thấy phiền phức à? Không phải điều cậu thật sự muốn là không cần học mà vẫn được điểm cao hả?” “…” “Cậu mà ăn bánh của tiệm ta thì sẽ có được năng lực ấy. Tóm lại, ta có cách để cậu nhàn nhã hơn rất nhiều.” “Nhàn hơn thế nào cơ?” Thấy Yuuta bất giác rướn người về phía trước, cô bé cười khúc khích. Cô đặt lên mặt quầy một cái bát nhỏ đầy ắp bánh giầy rán màu nâu nhạt. “Đây là Bánh giầy rán lươn lẹo. Cậu càng lươn lẹo, càng lười biếng thì điểm bài kiểm tra của cậu sẽ càng cao. Ăn bánh này rồi, cậu sẽ chẳng cần phải học hành gì nữa. Thế nào? Hay hơn cái thứ Hoa quả đóng hộp linh tính kia chứ?” Nghe cô bé tiếp tục mời mọc “Thế nào, cậu cũng muốn có nó đúng không?”, Yuuta suýt chút nữa thì gật đầu. Đúng lúc ấy, cậu nhóc chợt tỉnh ra. Muốn thì cũng muốn thật đấy, nhưng cậu hết tiền rồi còn đâu. Cậu đã tiêu hết tiền vào Hoa quả đóng hộp linh tính mất rồi. Chết tiệt. Làm thế nào bây giờ nhỉ? À, khoan đã. Còn có Yousuke mà. Giờ mình sẽ gọi điện cho Yousuke, bắt nó mang tiền đến. Yuuta vừa rút điện thoại từ trong túi ra vừa nói với có bé. “Anh lại đang không có tiền ở đây, nhưng anh sẽ bảo bạn mang tiền đến ngay. Bao nhiêu thế?” Thế nhưng cô bé lại bảo không cần. “Bánh kẹo ở tiệm ta không phải trả bằng tiền. Hơn nữa cậu trả sau cũng được. Vì tà ý phải về sau mới có mà.” “Tà ý?” “Ừ, đúng thế đấy.” Cô bé gật gù, mắt sáng lên. “Cậu càng dễ dàng được nhiều điểm tuyệt đối thì càng nhiều người xung quanh đố kỵ với cậu. Thứ cảm xúc đố kỵ, ghen ghét mà bọn họ dành cho cậu chính là tiền thanh toán cho ta.” Cô bé cười thích thú. Một điệu cười hiểm ác, làm dấy lên trong cậu dự cảm chẳng lành. “Mình ghét con bé này,” Yuuta thầm nghĩ. Vậy nhưng lời đề nghị của nó lại vô cùng hấp dẫn. Đúng thế, Yuuta chẳng tài nào cưỡng lại sức hút của Bánh giầy rán lươn lẹo. Hoa quả đóng hộp linh tính giờ chẳng là gì trong mắt cậu. Mình muốn nó. Mình muốn có thứ này. “Sao hả? Cậu có lấy không đây?” “Có.” “Thế quyết định vậy nhé. Để ta giúp cậu vứt món đồ hộp rẻ tiền kia đi nào.” Cô bé đưa cái bát nhỏ về phía Yuuta với khuôn mặt rạng rỡ. Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Tiền Xu Tập 4 của tác giả Hiroshima Reiko.
Kho Đựng Nỗi Đau
“Chỉ cần có thể truy ngược dòng dõi lên được bốn đời, ít gia đình nào không cho rằng mình có các quyền đối với một tước hiệu mơ ngủ nào đó, hoặc đối với lâu đài hay khu đất nào đó, những quyền chắc hẳn khó lòng đứng vững trước một phiên tòa nhưng chúng ve vuốt trí tưởng tượng và làm ngắn lại các giờ khắc vô công rồi nghề. Các quyền của một con người đối với quá khứ chính anh ta còn chập chờn hơn nhiều.”   R. L. Stevenson, Một chương về những giấc mơ *** Patrick Modiano là Nhà văn Pháp với hơn 30 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, kịch bản phim,... các tác phẩm của ông đã được dịch 36 thứ tiếng trên thế giới, đạt nhiều giải thưởng danh tiếng, phải kể đến giải Nobel Văn học năm 2014. "Lối viết văn của Modiano rất dễ đọc. Các tác phẩm của ông trông có vẻ đơn giản bởi vì nó tinh tế, thẳng thắn, đơn giản và rõ ràng. Bạn mở sách đọc một trang, và sẽ nhận ra ngay là sách của ông ta, rất thẳng thắn, câu văn ngắn gọn, không cầu kỳ - nhưng nó rất là tinh vi trong cách đơn giản của nó."_ Bí thư thường trực của học viện Nobel Peter Englund Để từ đó người đọc có thể thấy được văn chương của Patick Modiano là văn chương của ký ức, bất định tương lai. *** Kho đựng nỗi đau (tựa gốc: Remise de peine, viết năm 1988), Hoa của phế tích (tựa gốc: Fleurs de ruine, 1991), Con chó mùa xuân (tựa gốc: Chien de printemps, 1993) được nhà văn Patrick Modiano (giải Nobel Văn học, 2014) hoàn thành trong ba mốc thời gian khác nhau, nhưng mang đầy đủ những nét đặc thù của không khí, phong cách văn chương ông. Kho đựng nỗi đau lần đầu tiên bức chân dung thời thơ ấu của chú bé Patrick cùng em trai sống trong căn hộ của những diễn viên xiếc ở vùng ngoại vi Paris. Hoa của phế tích là cuộc lần theo manh mối về một vụ tự sát với lý do bí hiểm của đôi vợ chồng kỹ sư trẻ tuổi vào một ngày tháng 3 năm 1933. Còn Con chó mùa xuân là cuộc dò tìm của một người viết tiểu thuyết trẻ tuổi với nỗ lực phục dựng bản tiểu sử của Jasen - một nhiếp ảnh gia sống và ghi chép về Paris nhưng căn cước cá nhân lại nhiều điểm mù bởi dư chấn của thời Đức tạm chiếm… Ba cuốn tiểu thuyết này là dẫn chứng xuất sắc, thuyết phục cho điều mà Patrick Modiano viết trong diễn từ nhận giải Nobel Văn học vào năm 2014: “Người ta có thể lạc lối hoặc biến mất trong một đô thị. Người ta thậm chí có thể thay đổi căn cước và sống một đời khác. Người ta có thể lao mình vào một cuộc điều tra rất dài lâu để tìm lại những dấu vết của một ai đó, và lúc khởi đầu chỉ có một hoặc hai địa chỉ trong một khu phố đã mất biệt. Chỉ dấu ngắn ngủi đôi khi hiện lên trên những phiếu tra cứu luôn luôn tìm được một âm hưởng trong tôi: Nơi cư trú cuối cùng được biết.” Trong lần ấn hành ba tiểu thuyết này, Phanbook cũng phát hành hộp giấy đựng sách Patrick Modiano với thiết kế đẹp, trang nhã dành cho độc giả sưu tầm đủ ba tác phẩm. *** VỀ NHÀ VĂN PATRICK MODIANO Patrick Modiano là nhà văn người Pháp, sinh năm 1945. Ông đạt giải Nobel văn học năm 2014. Nhiều tác phẩm của Modiano đã được in tại Việt Nam. Ba tác phẩm của Patrick Modiano do Phanbook ấn hành: Kho đựng nỗi đau, Hoa của phế tích, Con chó mùa xuân, đều do Hoàng Lam Vân dịch. *** LỜI GIỚI THIỆU Tôi chưa hai mươi khi đọc Remise de peine lần đầu. Việc đọc này cũng ít nhiều xảy ra cùng thời điểm của phần đầu câu chuyện kết nối tôi với những cuốn sách của Modiano. Tôi không nhớ cuốn đầu tiên là cuốn nào. Có thể là Voyage de noces, Quartier Perdu, Fleurs de ruines, Les boulevards de Ceinture. Tôi không nhớ nữa. Nhưng tôi nhớ đó là một trong mấy cuốn này. Và cũng nhớ anh tôi, người đã mua một cuốn sách bỏ túi gần như tình cờ, một buổi sáng, trong quán Hachette của nhà ga Juvisy, vì anh đã quên ở nhà cái cuốn mà anh định đọc trong lúc ngồi tàu đến trường Đại học Paris, nơi anh theo ngành Luật. Tôi nhớ là anh đã ào vào phòng tôi, tôi nhớ những bức tường màu vàng nhạt treo một tấm poster mà hình dung lại tôi thấy đẫm chất Modiano đến kỳ lạ, mặt tiền bí hiểm bị các bụi gai cào xước và các dây thường xuân bám chặt của một biệt thự trùng với những gì người ta thường tưởng tượng về các biệt thự ngoại ô Paris với một cửa sổ sáng đèn, cổng cao và thấp thoáng một khu vườn, những bóng người đây đó, những dấu vết, những mảnh đời bí hiểm, một hình ảnh như vừa bước thẳng từ chính cuốn sách đó, nơi mà sự phân bố địa lý ít chất của một Paris bấp bênh rất đặc trưng cho tác giả, nhưng nhiều chất của những ngoại ô xa, “chưa phải là ngoại ô như bây giờ”, những thị trấn nhỏ yên tĩnh và giàu có lạc lõng sát cạnh nông thôn mà tôi thoáng thấy vào những dịp đi thi dương cầm ở rìa hạt Essonne. Tôi nhớ anh tôi chia cho tôi cuốn sách và nói “Đọc cái này đi, em sẽ thích đấy” và tôi nghe lời, để ngay lập tức bị hút vào đó và tiếp theo chỉ còn biết thán phục. Đương nhiên, tất cả những gì của Modiano đều có hết ở đây: các tên phố, danh bạ, địa tầng thời gian chồng chất, những hình bóng mờ ám, những vụ mất tích, quá khứ xấu xa, gợi nhớ thời hợp tác và phố Lauriston, những cuộc điều tra mà tưởng như đi lang thang, những mối giao du khả nghi, nỗi cô đơn, sự bỏ bê, một ông bố lâu lâu xuất hiện sau các hoạt động và các chuyến công tác đáng ngờ, người mẹ diễn viên thấp thoáng đâu đó sau các buổi diễn, sự thiếu vắng của phả hệ, cách viết kín đáo và thanh lịch, nỗi sợ và niềm đau giữ lại trong lòng, những vùng chưa tỏ và những hố đen, tóm lại là tất cả cái huyền thoại quý báu và duy nhất đó, trong một văn phong có âm điệu đặc sắc, buồn bã và dịu nhẹ, nhưng lại giản dị, không mang tính cách rõ ràng, không gây ấn tượng, không có vẻ phong phú. Những ngày tiếp theo, tôi đến thư viện và ngấu nghiến tất cả tiểu thuyết ghi tên Modiano. Rồi mùa hạ giá trong khu Saint-Michel và tiền tiết kiệm có được từ nhiều tháng nhịn ăn đã cho phép tôi bổ sung và bằng cách ấy mà tự cập nhật: ngồi rình những đầu sách mới, hầu như hàng năm, những dịp mà từ đấy tôi không bao giờ để lỡ, không bao giờ khiến tôi thất vọng, ngược lại, còn khiến tôi có cảm giác là cứ cuốn sách này ra thì nỗi bồn chồn đợi cuốn tiếp theo còn tăng hơn nữa, giống như khao khát nhấc lên tấm màn tưởng đã nhấc được ở từng cuốn, nhưng cuối cùng để lộ ra những tấm màn khác, và lại phải lao vào nhấc lên mà không chắc mọi sự có rõ ra hay lớp sương mù kia còn dày thêm. Tôi nhớ những tháng ngày đọc sách đó như một thời kỳ của kinh ngạc, như thể được ban phép màu. Đó là quãng thời gian đầu tiên của tôi ở Paris, tôi học không xa rừng Boulogne, thường lai vãng các hiệu sách, các rạp chiếu phim nghệ thuật và thử nghiệm trong khu La-tinh và Saint-Germain-des-Pres, thỉnh thoảng cũng đến nhà bạn nằm trong những con phố yên tĩnh của ngoại ô có nhiều biệt thự và sang trọng hơn khu phố có căn nhà của gia đình tôi mà cứ cuối tuần tôi lại ngồi tàu D để trở về. Tôi lớn lên cùng với những cuốn sách đó, tôi bước đi trong bối cảnh của chúng, tôi là một trong những nhân vật của chúng, hoặc ít ra cũng là một người anh em hay cháu chắt của các nhân vật. Tất cả trộn với nhau, xuyên vào nhau, cuộc đời của chính tôi và những cuốn sách bao trùm nó, tái tạo nó, uốn cong nó, trong một kiểu lẫn lộn giữa thực và ảo. Tất cả đều hòa hợp: nơi chốn, cảm giác đang sống cùng một lúc hai cuộc đời, những chuyến đi dạo bên dưới những tòa nhà cao tầng có cửa sổ sáng đèn, những cái tên ghi trong sảnh chính, tất cả được chiếu bởi một thứ ánh sáng rất đặc biệt, của một hiện tại đầy ứ quá khứ và bị đẩy vào tương lai, của một hiện diện bấp bênh, mờ ảo. Sự phân chia địa lý trong tâm tư tôi vận động, biến đổi, chồng chất lên nhau những lãnh thổ gốc, hoàn toàn ngoại biên, nằm ở ngoại ô, và những lãnh thổ nơi con người tôi lớn lên, những lãnh thổ được các tiểu thuyết của Modiano vẽ lại, chỉnh sửa và sáng tác thêm. Tôi rình rập khắp nơi cái dáng thanh cao của ông, tôi - kẻ chỉ chú ý đến tác phẩm chứ không đến tác giả, tôi - kẻ thường không quan tâm đến những ai đứng đằng sau hay bên trong những cuốn sách mà tôi yêu, ở nơi nào tôi cũng tưởng tượng ông sẽ hiện ra, quanh vườn Luxembourg, trên đại lộ Victor Hugo, dọc theo những hồ nước của rừng Boulogne, nhưng điều ấy không bao giờ xảy ra, chỉ mới cách đây vài hôm, khi vừa bắt đầu viết những dòng này, tôi bắt gặp ông giữa những kệ sách của cửa hàng Bon Marché, vừa rõ ràng, vừa xa xôi, mặc áo mưa màu be, giống như một cái nháy mắt, một sự ra hiệu, một trùng hợp kỳ lạ, “kỳ cục”, có lẽ ông sẽ nói như thế. Đương nhiên tôi không lại gần ông, không dám. Nhưng dù tôi có dám hay không thì huyễn tưởng cũng cho tôi biết đủ về tầm quan trọng của ông trong mắt tôi, sự hâm mộ mà tôi dành cho ông và tôn ông ngang hàng với những huyền thoại của cá nhân tôi. Lùi lại một chút, tôi ước tính bao nhiêu những kỷ niệm có thật về thời kỳ đầu ở Paris đã bị thế chỗ bởi những cuốn sách mà tôi ngấu nghiến lúc đó, hai “câu chuyện” đó, một thì xa xôi nhưng thuộc về tôi trọn vẹn, một thì nằm trong những trang sách mà tôi không phải là tác giả và chẳng thực sự kể gì về tôi, cả hai từ lâu đã lẫn lộn với nhau. Đó chính là sức mạnh của những tác phẩm đã luồn lách vào bên trong bạn. Chúng quyện lấy đời bạn đến mức không sao gỡ ra nổi. Những ngày này đọc lại Remise de peine, hiện ra trước mắt tôi tất cả những thứ đã rèn nên tính cách con người tôi, và từ đó tác động đến cả quang cảnh, nội dung, chất liệu của những gì tôi viết, dù rằng điều này chỉ hiển nhiên với tôi, dù rằng những dấu vết về sự ảnh hưởng đó hầu như là vô hình, hoặc ngầm đến mức không ai nhìn thấy. Ấy thế mà nó mang tính nền tảng, và bên cạnh Annie Arnaux, Raymond Carver hay Henri Calet (vì những lý do và dưới những biểu hiện khác) các cuốn sách của Modiano được xếp một vị trí đặc biệt, giữa những tác phẩm có tầm quan trọng với tôi: các tác giả đã làm tôi chao đảo, chỉnh sửa tôi, chuyển biến tôi vừa trong tư cách nhà văn lẫn con người. Đọc lại Remise de peine hai mươi năm sau ngày phát hiện ra nó, thế là bởi mối bận tâm phải đuổi kịp sự chậm trễ không tài nào đuổi kịp (ai?, cái gì?, để chống lại cảm giác nào về sự bịp bợm?, ấn tượng gì về tính bất hợp pháp?) tôi không bao giờ mất thời gian đọc lại những tác phẩm và những tác giả đã tạo nên tôi, dù ký ức tôi ngắn ngủi và lỗ chỗ, đến độ mà tôi thường xuyên có cảm giác rằng nó càng xóa đi những gì đã có trước đó thì tôi càng tiến về phía trước mà vẫn không ngừng bị ám ảnh bởi những gì đã mất, cái hố đen vĩnh viễn đó cứ sâu thêm mãi, tác động tới tôi, bao nhiêu dấu vết mà cuốn sách này từng để lại, những dấu vết vừa rõ ràng vừa mờ ảo, như nó phải thế mỗi khi người ta nhắc tới Modiano: ngôi nhà nơi mà ông và em trai bị cha mẹ bỏ mặc, mặt tiền phủ đầy dây thường xuân, và cả những con phố cạnh đó, những người phụ nữ đi đi về về, băng bạn cùng trường, lâu đài bỏ hoang của hầu tước Caussade, gánh xiếc và tai nạn đu bay, một chiếc xe hơi của Mỹ và một áo vét kiểu cao bồi, tên của một hộp đêm, những lần ông bố xuất hiện, những xưởng chữa xe ở Paris, đám người lớn mà cuộc sống và hoạt động chỉ được nhìn thấy qua những thông số, những giấy tờ rời rạc, những dấu hiệu không đầy đủ và thường không thể nào đoán được. Nhưng trên hết, tất cả cảm giác bơ vơ sờ sợ, nỗi bồn chồn âm ỉ, thậm chí không thực, mà tôi cho là đồng nghĩa với thời thơ ấu như tôi cảm nhận, được xây trên cát, thường xuyên tuột qua các kẽ tay, không rõ ràng, không có đường viền và trọng tâm, bề mặt bấp bênh, người ta bước đi như bị mù, chỉ giữ được những mảnh vụn, trong sự lẫn lộn giữa có và không, để mặc bạn bước ra tuổi thiếu niên trong sự chông chênh lơ mơ, không căn cước chẳng cội nguồn, như con chó lạc mà không có vòng đeo cổ. Cảm giác này còn được Modiano xác định trong một tác phẩm khác nữa và có vẻ hoàn toàn thích hợp với Remise de peine, tạo cho nó phạm vi và quá trình “Những sự kiện mà tôi sẽ gợi lại cho đến năm hai mươi mốt tuổi, tôi đã sống một cách không che đậy, cách thức này bao gồm việc cho di chuyển các bối cảnh nền, còn các diễn viên đứng im trên sân khấu trường quay. Tôi muốn giải thích cái cảm giác mà nhiều người khác từng có trước tôi: mọi thứ nối tiếp nhau chuyển động không che đậy và tôi chưa thể sống đời mình”. Cũng chính dưới ánh sáng của những tác phẩm tiếp theo, đặc biệt là Un pedigree (đang mời chúng ta làm sáng tỏ), mà Remise de peine lại mang một sắc vẻ đặc biệt giữa các tác phẩm của Modiano, một gam màu độc nhất vô nhị. Đầu tiên bởi vì đó là một trong những tiểu thuyết hiếm hoi đã thẳng thừng tự nhận là tự truyện, hay cho ảo tưởng như thế, Modiano có vẻ tự đặt mình lên sân khấu với tên thật, (mỗi khi có dịp lại biến thành “Patoche” cho thân mật, gần gũi hơn), để vẽ lại một cách vừa chính xác vừa đáng ngờ, rất đặc trưng cho hình thức kỷ niệm, một giai đoạn thơ ấu mà chúng ta đã biết là của ông, di chuyển giữa ký túc xá và ngôi nhà ở nhờ, trong những thời gian biểu kỳ bí và một dĩ vãng mờ ám, bà mẹ diễn viên và ông bố có các hoạt động, quá khứ và các mối giao du tất cả đều dính dáng tới vũng bùn thời Đức chiếm đóng, chờ đợi được các vị phụ huynh liên lạc và đón về nhà vài ngày, vài tuần hay vài tháng để rồi lại gửi đến chỗ khác, cho những người khác. Tóm lại, tất cả những chuyện này có xác thực hay không, điều gây xúc động ở đây chính là hiệu quả của việc chiếu sáng, câu chuyện đã được tháo chốt, lột trần, đập ngay vào mắt, đã khiến ta rung động. Và cùng một lúc với mạch tự truyện vẫn được dệt lên bởi một sự lộn xộn kinh hoàng, biết bao ngờ vực và các câu hỏi. Như để đào sâu hơn điều bí mật mà tác giả đang ra vẻ giải tỏa. Như thể là, tận sâu trong cuộc tìm kiếm của mình, Modiano cho thấy sự vắng bóng của một chuyển đổi mang tính hư cấu, hoặc vẻ ngoài của nó, sự trung thành, thật hay bịa, không là bằng chứng cho một cái gì cả, không bảo đảm một sự thật rõ ràng hay một lời giải cho những điều ngờ vực, nhập nhằng nước đôi. Sau đó chính nhờ bám chặt tuổi thơ cùng những cảm nhận và sự hoảng loạn đeo dính mà Modiano có vẻ đã thuật lại những kỷ niệm này. Những mảnh vụn: vừa là những mảnh vụn của một ký ức rách mướp, không đầy đủ, vừa là những mảnh vụn của thời thơ ấu giữa đám người lớn, nghe được ở khe cửa, khoảng cách giữa các tầng nơi mỗi phòng mở ra rồi đóng lại, chỉ cho phép cảm nhận sự việc qua những tiếng vọng đinh tai, những tiếng vỡ biến dạng, những tiếng nói chuyện thì thào và những tiếng động của thìa dĩa, những tiếng vang của xe hơi đang rời ra tít xa. Những mảnh vụn cuộc sống của đám người lớn chỉ được nhìn thấy qua vẻ ngoài những bí mật và những được thua, như là chúng ở trong một bộ phim vô tuyến bị mất tiếng và ta chỉ có thể đoán động tác của các nhân vật, mà không biết hoàn cảnh, đầu đuôi, và cả căn cước chính xác của họ. Trong trò chơi domino, thuyền buồm thú vị mà văn chương Modiano mời ta tham gia này, tôi luôn bám vào Un pedigree (Một phả hệ) ngay từ khi tác phẩm ra đời, để tiếp sức cho tác giả trong cuộc điều tra của chính ông, lồng giọng của tôi vào đó. Như kiểu điều tra một cuộc điều tra. Điều mà mỗi độc giả đều làm một cách bí mật thông qua những cuốn sách và trong nhiều năm trời, tôi tin là thế. Thời kỳ từng được nhắc đến ở Remise de peine chiếm khoảng một trang trong tiểu thuyết này. “Giữa Jouyuen Josas và Paris, bí ẩn của một vùng ngoại ô mà lúc đó chưa là ngoại ô. Lâu đài tàn phế, và trước mắt anh, đồng cỏ mọc cao nơi chúng tôi từng thả diều ngày nào. Rừng Metz. Và bánh xe khổng lồ của máy chuyển nước thị trấn Marly quay đều trong âm thanh và sự tươi mát như thác.” “Những di chuyển đi về của những người đàn bà kỳ lạ (…) trong số đó có Zina Rachewsky, Suzanne Baulé, hay còn gọi là Frede, giám đốc của Carroll’s, một hộp đêm phố Ponthieu, và một Rose-Marie Krawell nào đó, chủ một khách sạn phố Vieux-Colombier, và thường lái xe hơi Mỹ. Họ mặc áo vét và đi giày đàn ông, và Frede, còn đeo cả cà-vạt (…) Một tối (…) cha tôi (…) hỏi tôi sau này muốn làm nghề gì. Tôi không biết trả lời thế nào.” Sự nghiệp văn chương của Modiano là một work in progess vô cùng lôi cuốn đang tiến hành ngoài trời. Mỗi cuốn sách đều lấy được từ đó một nghĩa đúp. Mời ta ngắm nhìn nó trong sự tự chủ của một tác phẩm đã hoàn thiện, đã khép lại ở trang cuối, nhưng cùng lúc, giống như một phần mới của một puzzle mà không cái gì bị đóng lại hoàn toàn, một vài chỗ còn để “trống” trong khi những chỗ khác cũng dần dần xác định được phạm vi. Tương tự y như thế về nhân vật ông bố, nhân vật kỳ thú trong văn chương Modiano, mà ta tìm lại trong tác phẩm này một sự hiện diện mờ ảo và những tiếng vọng gián tiếp, qua việc tác giả nhắc lại “phố Lauriston”. Ngược lại, Rudy, em trai tác giả, có vẻ là một phái giữa vắng mặt, một sự im lặng hãi hùng. Thế nhưng, ở trang 44 của Một phả hệ, ta có thể đọc được đoạn này, mà Modiano sẽ không còn nhắc lại trong phần sau của cuốn sách: “Tháng Hai năm 1957, tôi mất em trai.(…) Ngoài em Rudy, cái chết của em, tôi tin là chẳng điều gì mà tôi sẽ thuật lại ở đây có liên quan sâu sắc đến tôi”. Nhưng điều khiến xúc động nghẹn ngào hơn nữa trong Remise de peine, điều khiến tim ta se lại khi đọc những dòng chữ này, chính là sự gợi nhắc, vừa thoáng qua lại vừa đều khắp, vừa kín đáo lại vừa tinh tế hé mở, không nói rõ, không bình luận, thận trọng, nhưng vì hiếm mà trở nên nổi bật, về cậu em út của “Patoche”. Ở phương diện này, Remise de peine còn khiến chao đảo hơn, tôi không có ý tán vớ vẩn về Modiano đâu, nhưng tôi có cảm giác tác phẩm này được viết ra vì cái đích ngầm sau đây: khắc lên trang sách những giây phút hai anh em bên nhau, những ký ức về một thời gian mà người ta còn có thể nhớ khi phát âm mấy từ “tôi và em trai tôi”. OLIVER ADAM *** Đó là thời các cuộc lưu diễn kịch nghệ không chỉ dọc ngang nước Pháp, Thụy Sĩ và Bỉ, mà cả Bắc Phi nữa. Tôi lên mười. Mẹ tôi đã lên đường lưu diễn một vở kịch và chúng tôi, em trai tôi và tôi, ở nhà những người bạn gái của bà, tại một ngôi làng ven Paris. Một ngôi nhà hai tầng, mặt tiền phủ dây thường xuân. Một trong số các cửa sổ lồi mà người Anh gọi là bow-window kéo phòng khách dài thêm ra. Đằng sau nhà, có một khu vườn giật nhiều cấp. Ở cuối tầng đầu tiên của vườn, núp dưới đám cây ông tiên, là mộ của bác sĩ Guillotin. Ông từng sống tại ngôi nhà này? Tại đó ông đã hoàn chỉnh cỗ máy chém đầu của mình? Tít trên cao khu vườn có hai cây táo cùng một cây lê. Những miếng nhỏ tráng men treo trên dây xích bạc thòng vào các lọ đựng rượu, trong phòng khách, mang những cái tên: Izarra, Sherry, Curaçao. Cây kim ngân xâm chiếm thành giếng, chính giữa cái sân ngay trước vườn. Máy điện thoại để trên một cái bàn guéridon, gần sát một trong những cửa sổ phòng khách. Rào lưới được chăng để bảo vệ mặt tiền nhà, hơi thụt vào so với phố Docteur-Dordaine. Một hôm, người ta đã sơn lại rào sau khi phủ lớp chống gỉ. Có phải đó là sơn chống gỉ, cái chất lỏng sệt màu cam vẫn còn hết sức sống động trong kỷ niệm của tôi? Phố Docteur-Dordaine có dáng dấp làng mạc, nhất là về cuối: một tòa nhà cho các xơ, rồi một trang trại nơi người ta đến để mua sữa và, xa hơn, lâu đài. Nếu đi xuôi phố, trên vỉa hè bên phải, ta sẽ đi qua trước bưu điện; cũng đoạn ấy, phía bên trái, ta nhìn thấy, sau một rào sắt, các nhà kính của ông chủ hàng hoa mà con trai là bạn ngồi cạnh tôi tại lớp học. Xa thêm một chút, cùng phía với bưu điện, là bức tường của trường Jeanne-d’Arc, vùi mình dưới những tán tiêu huyền. Đối diện nhà, một đại lộ dốc thoải. Bên lề của nó, phía tay phải, là nhà thờ Tin Lành và một khoảnh rừng nhỏ, giữa đám bụi cây ở đó chúng tôi từng tìm được một cái mũ sắt của lính Đức; bên trái, một ngôi nhà dài và sơn trắng nơi vòm tường nhô ra, với khu vườn lớn cùng một cây liễu rủ. Thấp hơn, chung tường với khu vườn ấy, là quán trọ Robin Lục lâm. Ở cuối dốc, và cắt vuông góc với nó, là đường bộ. Bên phải, quảng trường nhà ga, lúc nào cũng hoang vắng, trên đó chúng tôi đã tập đi xe đạp. Theo hướng ngược lại, ta đi dọc theo công viên. Trên vỉa hè bên trái, một tòa nhà với dãy hành lang làm bằng bê tông nơi nối tiếp nhau hiệu bán báo, rạp chiếu phim và hiệu thuốc. Con trai ông dược sĩ là bạn cùng lớp với tôi và, một đêm nọ, bố cậu ta đã tự sát bằng cách treo cổ lên một sợi dây buộc vào hiên của hành lang. Dường như người ta hay tự treo cổ vào mùa hè. Các mùa khác, họ thích tự sát bằng cách trầm mình xuống sông hơn. Chính ông thị trưởng của làng là người nói điều đó với ông chủ hiệu bán báo. Sau đó, đến một khu đất hoang được dùng làm chợ, thứ Sáu hằng tuần. Thảng hoặc ở đó dựng lên cái lều một gánh xiếc lưu động cùng đám nhà lán của một phiên chợ. Ta tới trước tòa thị chính và lối đi trên cao. Sau khi vượt qua đó, ta đi theo đường lớn của làng, nó lên cao mãi cho đến quảng trường nhà thờ và đài tưởng niệm liệt sĩ. Một dịp lễ mixa Giáng sinh, chúng tôi, em trai tôi và tôi, được hát trong dàn đồng ca tại nhà thờ ấy. Mời các bạn đón đọc Kho Đựng Nỗi Đau của tác giả Patrick Modiano & Hoàng Lam Vân (dịch).
Con Chó Nhỏ Mang Giỏ Hoa Hồng - Nguyễn Nhật Ánh
Sách Nói Con Chó Nhỏ Mang Giỏ Hoa Hồng   Con Chó Nhỏ Mang Giỏ Hoa Hồng là tác phẩm mới nhất của nhà văn chuyên viết cho thanh thiếu niên Nguyễn Nhật Ánh, nối tiếp sau Bảy bước tới mùa hè, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh… gây sóng gió thị trường sách năm 2015. 5 chương sách với 86 câu chuyện cực kỳ thú vị và hài hước về 5 con chó 5 loài 5 tính cách trong 1 gia đình có 3 người đều yêu chúng nhưng theo từng cách riêng của mình. Các câu chuyện về tình bạn giữa chúng với nhau, giữa chúng với chị Ni, ba mẹ, khách đến nhà… thực sự mang lại một thế giới trong trẻo, những đoạn đời dễ thương quyến rũ tuổi mới lớn. Một quyển sách lôi cuốn viết cho tất cả chúng ta: trẻ con và người lớn. Cuộc đời của 5 con chó nhỏ: Haili, Batô, Suku, Êmê và Pig  được tái hiện như đời sống của mỗi con người: tình bạn, tình yêu, đam mê, lòng dũng cảm, sự sợ hãi, và những ước mơ... *** Suku là một thằng cún nói chung ai nhìn cũng thích. Đôi mắt tròn, đen lay láy, ngây thơ ngơ ngác, mỗi khi nhin ai là khiến người ta phải động lòng. Cún là theo thói quen hồi bé, chứ thật ra chúng tôi đã sống bên nhau nhiều năm rồi, tóm lại đã qua tuổi vị thành niên từ lâu. Dù vậy, so với thời niên thiếu bộ dạng của thằng suku không thay đổi là mấy. Nó chỉ có béo lên vì ăn nhiều quá. Suku có đôi tai dài. Lông nó màu trắng, óng ánh và xoăn từng cụm, phủ dày từ chỏm đầu đến tận các ngón chân - trông nó giống hệt một con cừu. Khi nó nằm im, rất nhiều người tưởng nó là một con chó nhồi bông. Suku xinh đẹp như thế, tiên nhiên ai cũng muốn vuốt ve. Rất nhiều người bị bề ngoài của nó đánh lừa, nhưng chuyện đó tôi kể sau. Như đã nói, thằng suku bây giờ trông bảnh bao, nhưng đã bắt đầu ục ịch. Lý do thì ai trong nhà cũng có thể chỉ ra: Suku không những ăn nhiều mà khẩu vị của nó có thể dung nạp mọi thứ thức ăn, mọi loại mùi vị. Những con chó khác, như con Haili con Pig, con Êmê và cả tôi nữa chỉ ăn những thứ gì mình thích. Suku thì khác. Nó ăn cơm, ăn xương, ăn bánh, ăn kẹo, ăn mọi thứ trái cây, nói chung thứ gì dạ dày tiêu hóa được là nó không bao giờ từ chối. Có vẻ như nó có thể nói "không" với tình yêu chứ nhất định không bao giờ nói "không" với thức ăn. Chị Ni đặt cho nó biệt danh là "cỗ máy nghiền". ... Mời các bạn đón đọc Con Chó Nhỏ Mang Giỏ Hoa Hồng của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Điệu Valse Giã Từ - Milan Kundera
"Điệu valse giã từ" là tác phẩm thứ ba của nhà viết tiểu thuyết trứ danh người Czech Milan Kundera, người từng được độc giả VN hâm mộ qua "Sự bất tử", "Cuộc sống không ở đây"... Một câu hỏi đi suốt cuốn sách: Phần nhân tính trong con người còn được bao nhiêu? Có những nhân vật được dựng lên như một cái cớ để cuốn các nhân vật khác vào chính tâm điểm của đời họ. Ba nhân vật chính, thương gia người Mỹ Bertlef, tay trí thức Jakub và bác sĩ Skreta xoay mòng mòng quanh cái trục cám dỗ của ba người đàn bà: Nữ y tá Ruzena, cô sinh viên Olga và cựu ca sĩ Kamila. Khi bị cuốn vào cơn mê sảng vô thức này, mỗi nhân vật chính đều lần lượt tìm ra cách thức di chuyển, dời gót hay những nhịp điệu riêng cho điệu valse tâm trạng lạ lùng của họ, một điệu valse với ma quỷ nhưng đủ sức giúp họ nhìn thấy con người thực của mình. Mỗi người tự cho mình là một vị chúa của chính bản thân họ. Cuối cùng để làm gì?  Không ai thoát khỏi định mệnh, khỏi điệu valse khắc nghiệt của cuộc đời. Khi nhảy với ma quỷ, họ ngỡ mình là Thượng đế, nhưng khi điệu valse kết thúc, họ trở lại là những con người bất hạnh, hoài nghi, bất an hoặc không kiên định. Thứ âm nhạc phát ra từ điệu valse ấy chính là tinh thần cuộc sống, với tất cả mặt tích cực và tiêu cực của nó, có thể lột trái bản chất của từng con người ấy ra. Đó là thái độ thờ ơ trước cái chết của kẻ khác, những kẻ giết người trá hình, gián tiếp mà lương tâm không hề cắn rứt, là những trạng huống phi lý mà khi lạc vào đó, con người trở nên độc ác và không thoát khỏi mê lộ của sự sinh sát, huỷ diệt trong chính tâm hồn họ. Nhưng có một điều an ủi lớn lao là trước khi rời khỏi thành phố để ra nước ngoài, nhân vật nhiều chất suy tư Jakuk đã nhìn thấy cái đẹp cao quý, thánh thiện ẩn trong con người Kamila. Thế là đủ cho anh dấn bước vào một tương lai trước mặt. Có cảm giác chính Milan Kundera ưu ái chạm trổ nhân vật này, vì cuộc đời ông cũng tha hương đi tìm một chân trời khác. Tương tự như thế giới đàn ông, thế giới phụ nữ cũng có những mặt xấu, nhưng bản chất của họ dù là suối nguồn bị ô nhiễm nhưng có thể cứu vãn được. Họ vẫn còn những bản năng tốt đẹp để giúp người khác nhận ra những giá trị thực trên đời. Bản dịch của Cao Việt Dũng (cũng là người đã dịch "Cuộc sống không ở đây") khá nhuần nhuyễn, dễ hiểu, không rườm rà. Đây là giai đoạn đầu trong quá trình đổi mới cách thức viết tiểu thuyết, mang lại cho tiểu thuyết một sức sống mới trong bút pháp của Kundera, nên chưa đến nỗi phức tạp. Song chính bậc thầy tiểu thuyết hiện đại này đã nói: "Tinh thần tiểu thuyết là tinh thần của sự phức tạp. Mỗi tiểu thuyết nói với độc giả: Sự đời phức tạp hơn là anh tưởng". *** Bắt đầu mùa thu, cây cối khoác màu vàng, đỏ, nâu; trong thung lũng xinhđẹp, thành phố nước nóng dường như đang chịu một trận cháy. Dưới những mái vòm, nhiều phụ nữ đến và đi, tập trung bên những dòng suối. Đó là những người phụ nữ không thể có con, hy vọng nước nóng sẽ ban cho mình khả năng sinh đẻ. Trong số những người dưỡng bệnh tại đây có ít đàn ông hơn nhiều, nhưng dẫu sao vẫn có, vì hình như nước nóng ngoài công dụng phụ khoa còn tốt cho tim mạch. Dù thế, cứ chín phụ nữ một có một đàn ông, tỉ lệ này gây ra nỗi lo sợ lớn lao cho cổ gái trẻ độc thân làm y tá ở đây, những người trông coi bể bơi dành cho phụ nữa đến chữa bệnh hiếm muộn! Ruzena sinh ra ở đây, ở đây cô có bố mẹ. Liệu có bao giờ cô thoát khỏi được nơi đây, cái nơi nhung nhúc toàn phụ nữ này không? Đang là thứ hai và ngày làm việc sắp kết thúc. Chỉ còn lại vài bà béo quấn mình trong khăn tắm, duỗi dài trên giường trị liệu, công việc là lau mặt và mỉm cười với họ. - Thế nào, cô sẽ gọi điện chứ? – Các đồng nghiệp hỏi Ruzena, một trong số đó là một phụ nữ phì nhiêu tuổi trạc bốn mươi, người còn lại trẻ hơn và gầy gò. - Tại sao không nhỉ? – Ruzena đáp. - Thế thì gọi đi! – Người phụ nữ tứ tuần nói, và dẫn cô ra sau dãy phòng thay áo, tại đó các y tá có tủ, bàn và điện thoại. - Gọi thẳng đến nhà ông ta ấy – người gầy gò lưu ý một cách độc ác, và cả ba người phì cười. - Em chỉ biết số nhà hát thôi – Ruzena nói khi tiếng cười đã lắng xuống. Đó là một cuộc nói chuyện khủng khiếp. Ngay khi nghe giọng Ruzena trong máy, anh đã cảm thấy lo sợ. Phụ nữ thường xuyên làm anh sợ, tuy nhiên không cô nào chịu tin vào điều dó, nếu anh cứ khăng khăng thì họ sẽ coi đó là một sự giận hờn vớ vẩn. - Em thế nào? – anh hỏi. - Không khoẻ lắm – cô đáp. ... Mời các bạn đón đọc Điệu Valse Giã Từ của tác giả Milan Kundera.