Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trăng Huyết

Thư gửi bạn đọc Trăng Huyết Trong mùa hè năm 2004, một người bạn Việt Nam trẻ tuổi của tôi hiện học tại Anh đã đọc Trăng Huyết, bản phóng tác bằng tiếng Việt. Cô đối chiếu các phần của cuốn ấy với cuốn tiểu thuyết nguyên bản SAIGON của tôi, là cuốn hình thành cái lõi cốt yếu của tác phẩm khuếch đại và mới của người bạn đồng tác giả Nguyễn Ước. Vì tôi không biết và không đọc được tiếng Việt nên lúc ấy, tôi không có ý niệm về những gì Nguyễn Ước đã làm đối với bản văn của tôi. Trước khi thực hiện tác phẩm ấy, anh không tham khảo ý kiến tôi, cũng không tìm cách xin phép tôi cho tới khi anh đã hoàn tất. Thậm chí khi viết thư này, tôi vẫn không biết thật cặn kẽ những gì chứa đựng trong 400 trang mà anh thêm vào — ngoài việc biết rằng những thay đổi trong giai đoạn sau năm 1945 thì nhiều hơn trong phần đầu của cuốn truyện. Trước đây, tôi biết qua lời của chính Nguyễn Ước giải thích với tôi rằng anh nồng nhiệt tin tưởng cuốn tiểu thuyết của tôi với những đoạn thông tin và diễn dịch do anh thêm vào là “bộ tiểu thuyết Chiến tranh và Hoà bình mà người dân Việt Nam đang trông đợi”. Trong lần liên lạc thứ nhất, anh nói với tôi rằng anh cảm thấy nó có sức mạnh “hòa giải và giải phóng” người dân Việt Nam khỏi những xung khắc thời quá khứ. Nhận thấy mình xúc động bởi niềm xác tín đó, tôi bất giác quyết định không chống lại cũng như không phản đối tức thời việc Nguyễn Ước đã làm. Tuy thế, tôi cảm thấy nhẹ nhỏm khi người bạn sinh viên Việt Nam trẻ tuổi tại Anh ấy nói với tôi rằng cô rất xúc động qua những gì cô đã đọc. Cô nói, “Tôi xin cám ơn ông đã viết cuốn sách này. Tôi đã biết được rất nhiều về xứ sở và dân tộc của tôi mà trước đây tôi chưa hề biết. Tôi nghĩ rằng giá trị lớn lao nhất của cuốn truyện này là nó bảo tồn ký ức lịch sử cho những thế hệ mới của người Việt trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Tôi cho rằng đây là cuốn tiểu thuyết rất quan trọng cho dân tộc Việt Nam — và cũng cho mọi người khác nữa.” Vào năm 2005 này, ba mươi năm sau ngày Sàigòn thất thủ, dường như thế giới của chúng ta đang là chốn nguy hiểm hơn bao giờ hết. Cuộc chiến tranh cay đắng ở I-rắc do người Mỹ khởi động xâm lăng đầu năm 2003 đang ngày càng bị so sánh với cuộc chiến tranh Việt Nam trong hai thập niên 1960 và 1970. Dù sao, khủng bố và giết chóc vì lý do tôn giáo và chính trị đang lan rộng toàn cầu hơn bao giờ hết. Dường như toàn thể hành tinh của chúng ta hiện sống với trạng thái đề phòng hằng ngày sẽ có thêm một hành động “khủng bố” tập thể nữa. Trong tình huống ấy, điều quan yếu là những người mà số lượng ngày càng nhiều thêm trên thế giới, đang mãnh liệt khao khát chấm dứt vĩnh viễn toàn bộ chiến tranh và tàn sát, nên tin rằng có những lý do để cảm thấy mình được khích lệ. Đối với tất cả chúng ta, điều quan trọng là có những nền tảng để tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp hơn và để không bị ám ảnh bởi sợ hãi. Ở cấp độ cao nhất, mục đích tái bản cuốn trường thiên tiểu thuyết khuếch đại [Trăng Huyết] này về những cuộc chiến lâu dài và cay đắng tại Việt Nam trong hậu bán thế kỷ 20 là để nhắc nhở chúng ta thảm kịch kinh hoàng và vô ích của mọi cuộc chiến, cách riêng các cuộc chiến xuẩn động. Cả Việt Nam lẫn I-rắc đều rơi vào bản liệt kê buồn bã đó. Mọi người đều đau khổ trong các thời kỳ bi thảm như thế và chẳng một ai thật sự chiến thắng. Chiến tranh biến hết thảy chúng ta thành nạn nhân. Lúc này, điều quan yếu cho thế giới của chúng ta là tiến tới một trạng thái sinh tồn trong đó chúng ta có thể giải quyết mọi vấn đề giữa các dân tộc và các quốc gia mà chẳng cần tới bạo động và giết chóc. Cũng quan yếu không kém là việc chữa trị những vết thương khủng khiếp về tâm lý và thể lý của quá khứ, để giúp tạo dựng một tương lai hòa bình và tốt lành hơn cho tất cả chúng ta. Khi cuốn SAIGON được xuất bản lần đầu năm 1982, tôi ngạc nhiên và vui thích thấy nó trở thành sách bán chạy ở tầm quốc tế tại 15 nước, nói chín ngôn ngữ khác nhau. Thật rất hài lòng khi tại Việt Nam và Hoa Kỳ, nó được dùng trong lớp học để dạy dỗ các sinh viên sĩ quan trẻ tuổi của hải quân và quân đội — Đại học Quốc phòng của Quân đội Nhân dân tại Hà Nội và Học viện Hải quân Hoa Kỳ tại Anapolis. Nguyễn Ước đọc cuốn tiểu thuyết ấy lần đầu tiên bằng tiếng Anh lúc anh tới được trại tị nạn ở Indonesia sau khi trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền vào cuối thập niên 1980. Anh kể rằng anh đã khóc khi đọc nó hết phần này sang phần khác. Mãi về sau, anh quyết định dịch và tự chủ xướng việc khuếch đại vì anh cảm thấy cuốn truyện ấy, với sự thêm vào các sự kiện lịch sử cùng hư cấu nào đó của anh như một kẻ trong cuộc, sẽ khiến độc giả người Việt nhận ra rằng sự thật giải phóng chúng ta và hoà giải chúng ta. Như đã nêu rõ, tôi quyết định cứ tin vào sự bảo đảm mà Nguyễn Ước đã viết cho tôi, rằng anh không phản bội hình thức và dự phóng trong cuốn tiểu thuyết nguyên bản của tôi. Tôi phải bảo lưu quyền thẩm định đầy đủ và có cân nhắc cho tới một thời điểm tôi biết chính xác từng chữ những gì anh đã viết. Trong lúc này tôi đang đi theo con đường riêng của mình để SAIGON được dịch riêng biệt ra tiếng Việt, đúng chính xác những gì tôi viết mà không có bất cứ thêm thắt nào, và để cho nó được xuất bản công khai bởi một nhà xuất bản của người Việt tại Việt Nam. Như tôi đã viết vào tháng Chạp năm 2004, hiện ở Hà Nội đang có những thảo luận bước đầu về việc đó, nhân danh tôi, và chưa có kết quả rõ ràng. Tuy thế, tôi không biêt việc xuất bản ấy sẽ xảy ra sớm hay muộn — hoặc quả thật bao giờ. Rõ ràng Nguyễn Ước đã hết lòng với đam mê, lý tưởng và nghị lực để viết nên Trăng Huyết. Nếu anh ấy có lý và cuốn sách này có thể đóng góp đầy ý nghĩa để chữa trị và hòa giải các vết thương quá khứ, thì bằng những cách thức nhỏ bé, một tương lai hoà hợp hơn sẽ bắt đầu để làm nổi bật dân tộc Việt Nam — và việc đó chắc chắn dẫn tới kết quả là sẽ làm xúc động người dân của các quốc gia khác. Lúc ấy, mọi nỗ lực cần cù của Nguyễn Ước sẽ đáng giá. Dù xảy tới tình huống nào đi nữa, tôi vẫn ca ngợi hoài bảo, sự tự phát, những lao động tận tụy của anh và mong anh ấy gặp may mắn. Sự ngưỡng mộ và mến cảm của tôi đối với Việt Nam và dân tộc can trường cùng độc đáo ấy ngày càng tăng kể từ khi tôi bắt đầu nghiên cứu và viết cuốn SAIGON. Sự tái tục dính líu tới Việt Nam được gây ra bởi sự xuất hiện nổi bật của Trăng Huyết và việc tái bản tại Anh ấn bản mới cuốn SAIGON bằng tiếng Anh vì thế đang là nguồn khoái cảm lớn lao cho tôi. Vậy tôi xin cám ơn tất cả những ai quan tâm và chúc cho tất cả những ai đang đọc các trang này một hoà bình lâu dài và sự hòa hợp ngày càng tăng trong cuộc sống hằng ngày. Mời các bạn đón đọc Trăng Huyết của tác giả Anthony Grey & Nguyễn Ước.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

35 Ki Lô Hy Vọng - Anna Gavalda
Grégoire ghét trường học, ghét đến nỗi mới lớp sáu, nó đã phải ở lại lớp đến hai lần. Thế nhưng nó lại có một biệt tài: chế tạo và sửa chữa những đồ lặt vặt. Nơi duy nhất mà nó thực sự thích, góc trú ẩn của nó, đó là căn lều nhỏ ở góc vườn của ông Léon, bởi ông là người duy nhất lắng nghe nó, hiểu nó, và chia sẻ niềm đam mê với nó. Tuy vậy khi Grégoire bị đuổi khỏi trường, ông Léon đã vô cùng tức giận. Lần này, ông từ chối an ủi thằng cháu nhỏ và cũng chẳng còn che chở cho nó nữa. Tình yêu của người ông ẩn giấu sau thái độ lạnh nhạt ấy giúp Grégoire dần hiểu ra đã đến lúc nó phải lớn lên và tự đi tìm con đường cho chính mình bằng lòng dũng cảm và niềm hy vọng... 35 ki lô hy vọng là cuốn sách thứ tư của Anna Gavalda sau Giá đâu đó có người đợi tôi, Bố đã từng yêu vàChỉ cần có nhau được xuất bản tại Việt Nam. Đây cũng là cuốn sách đầu tiên của bà dành cho các bạn trẻ. Một cuốn sách tâm tình và xúc động, ở đó vấn đề được đặt ra là học cách sống và tìm thấy vị trí của mình. Một cuốn sách tràn ngập tinh thần lạc quan, tình yêu và hy vọng - có lẽ không chỉ 35 ki lô! *** Anna Gavalda sinh ngày 9-12-1970 tại Boulogne-Billancourt. Cô đã theo học và nhận bằng cử nhân văn chương tại Đại học Sorbonne. Hiện nay cô đang làm ở tạp chí Elle. Ngoài ra Gavalda còn viết thời luận cho tạp chí Paris-Ile-de-France của Journal du Dimanche và giảng dạy tiếng Pháp… Anna Gavalda là một giáo viên người Pháp và tiểu thuyết gia từng đoạt giải thưởng. Được tạp chí Voici gọi là "hậu duệ xa xôi của Dorothy Parker", Anna Gavalda sinh ra ở một vùng ngoại ô thượng lưu của Paris. Sau “Giá đâu đó có người đợi tôi”, “Bố đã từng yêu”, “Chỉ cần có nhau”, “35 kilô hy vọng"… Anna Gavalda đã trở thành cái tên quen thuộc trên văn đàn Pháp với hơn 4 triệu bản sách bán ra. Mời các bạn đón đọc 35 Ki Lô Hy Vọng của tác giả Anna Gavalda.
Chim Én Liệng Trời Cao - Ma Văn Kháng
Trên văn đàn Việt Nam, có lẽ hiếm tác giả có sức viết dẻo dai, bền bỉ như nhà văn Ma Văn Kháng. Sau gần ba mươi tác phẩm ở nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn…; mới đây, ở tuổi ngoài 80, nhà văn Ma Văn Kháng cho ra mắt tiểu thuyết Chim én liệng trời cao - tác phẩm gần 400 trang sách phát triển từ truyện ngắn Chim én do ông khởi bút gần nửa thế kỷ trước. Bút danh Ma Văn Kháng khiến nhiều độc giả tưởng rằng đây là nhà văn miền núi, người dân tộc thiểu số, chứ ít ai nghĩ ông là nhà văn Hà Nội gốc, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ra tại làng Kim Liên, quận Đống Đa, một ngôi làng cổ của Hà Nội. Ông từng là giáo viên dạy văn và hiệu trưởng một trường cấp ba tại tỉnh Lào Cai. Hơn 20 năm tuổi trẻ gắn bó với vùng đất này, dường như cuộc sống, văn hóa của người dân vùng núi rừng Tây Bắc đã trở nên máu thịt trong ông. Ông từng chia sẻ: “Linh giác đây là vùng đất, vùng thẩm mỹ đầy bí ẩn đã mê hoặc tôi ngay từ khi tôi vừa đặt chân lên mảnh đất Lào Cai, vùng địa đầu của Tổ quốc. Gọi linh giác có lẽ là chính xác vì lúc đó tôi 18 tuổi, vậy mà lại đinh ninh rằng ở vùng đất này, mình sẽ làm được cái gì đó để lập thân, lập nghiệp và có ích cho đời, thế có lạ không?”. Chim én liệng trời cao là khúc ca đẹp, hùng tráng về cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp của người dân vùng núi rừng Tây Bắc khoảng thời gian cuối những năm 40, đầu những năm 50 của thế kỷ trước. Bối cảnh câu chuyện diễn ra tại địa bàn Cam Đồng, một xã gồm bốn thôn người Tày và một thôn U Sung trên núi cao thuần người Dao. Cuộc chiến đấu đầy gian khổ, sự trưởng thành của người dân về tư tưởng và tinh thần đấu tranh cách mạng thể hiện xuyên suốt qua nhân vật Tiển. Từ một cậu bé ở bản quê Cam Đồng hằng ngày ngồi trên lưng trâu, ngắm “bầy chim én cất tiếng rộn vang trên bầu trời sớm mai”, thổi sáo trúc bài “Chim én liệng trời cao”, Tiển sớm gia nhập vào hàng ngũ những người làm cách mạng, trở thành chiến sĩ liên lạc và trưởng thành cùng sự phát triển của cách mạng trên mảnh đất quê hương. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Chim Én Liệng Trời Cao Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Chim Én Liệng Trời Cao của tác giả Ma Văn Kháng.
Ván Bài An Ủi - Anna Gavalda
Cuộc sống ở tuổi 47 của Charles, một nghề kiến trúc sư, tưởng chừng sẽ bình lặng trôi đi. Nhưng một ngày kia, anh gần như suy sụp và bơ vơ khi được tin mẹ một người bạn thời ấu thơ qua đời. Suốt một năm sống trong đau buồn, lên đường tìm kiếm, day dứt giữa quá khứ và hiện tại, anh đã mang lại cho chính mình đầy ắp những bất ngờ. Một tình bạn ngỡ như tan vỡ được hàn gắn, những đứa trẻ mồ côi được đoàn tụ, những người chết được trở về và một tình yêu lớn nảy nở. Tất cả thấm đẫm cảm xúc và mỗi câu chuyện, mỗi sự việc đều toát lên hơi ấm của tình yêu, bởi “chúng ta còn lại gì nếu chúng ta không nói với nhau về tình yêu hay về điều mà mình thích”? *** Lời khen tặng dành cho Ván bài an ủi “Một cuốn tiểu thuyết thật lạ, thật buồn.” - Le Figaro “Bạn mong văn chương mang đến cho bạn những cơn thác cảm xúc? Xóa nhòa đời sống thường nhật của bạn? Khiến bạn bất ngờ khóc òa? Bạn sẽ có tất cả trong Ván an ủi của Anna Gavalda.” - Tạp chí Psychologies “Một câu chuyện đẹp và cảm động về những con người luôn gắn bó với nhau bất chấp mọi thương tổn và phức tạp.” - critiqueslibres.com "Cuốn tiểu thuyết rườm rà, điên rồ và đầy ắp những khám phá.” - Le Monde “Anna Gavalda lại một lần nữa tạo ra những điều kỳ diệu.” - Tạp chí Lire *** Anna Gavalda sinh ngày 9-12-1970 tại Boulogne-Billancourt. Cô đã theo học và nhận bằng cử nhân văn chương tại Đại học Sorbonne. Hiện nay cô đang làm ở tạp chí Elle. Ngoài ra Gavalda còn viết thời luận cho tạp chí Paris-Ile-de-France của Journal du Dimanche và giảng dạy tiếng Pháp… Anna Gavalda là một giáo viên người Pháp và tiểu thuyết gia từng đoạt giải thưởng. Được tạp chí Voici gọi là "hậu duệ xa xôi của Dorothy Parker", Anna Gavalda sinh ra ở một vùng ngoại ô thượng lưu của Paris. Sau “Giá đâu đó có người đợi tôi”, “Bố đã từng yêu”, “Chỉ cần có nhau”, “35 kilô hy vọng"… Anna Gavalda đã trở thành cái tên quen thuộc trên văn đàn Pháp với hơn 4 triệu bản sách bán ra. Mời các bạn đón đọc Ván Bài An Ủi của tác giả Anna Gavalda.
Những Người Ở Khác Cung Đường - Hoàng Minh Tường
Cuốn truyện này, chính là tác phẩm của nhà văn Lữ Hành, người bạn vong niên của tôi, mà tôi chỉ là người sao chép lại. Cái ý định xây dựng một bộ tiểu thuyết về những con người làng Hạ quê anh, đã được anh ấp ủ từ lâu, mà cuốn truyện này mới là một phần trong bộ tiểu thuyết ấy. Nhưng buồn thay, vào đúng cái buổi chiều, sau khi đưa Tựu đến thăm Phát trở về, một tai nạn bất ngờ đã làm nhà văn làng Hạ suýt từ giã chúng ta. Lúc ấy mới vào quãng chập tối. Đưa Tựu trở lại xí nghiệp sản xuất thương binh rồi, Lữ Hành rong ruổi trên chiếc xe đạp tàng trở về nhà. Nhưng vừa kịp đến đầu dốc từ con đê quai Hồ Tây rẽ về làng Hạ, thì một chiếc xe máy từ phía sau lao thẳng vào người anh. Ba ngày sau hôm nhà văn Lữ Hành bị tai nạn, tôi mới biết tin, vào viện thăm anh. Rất may là người không bị sây sát gì lớn. Nhưng nghe bác sĩ nói, anh bị trấn thương sọ não nặng, một thương tật trùng lặp đến trớ trêu với trường hợp của Phú mà chúng ta đã biết! Trong thời gian thường xuyên lui tới thăm nhà văn Lữ Hành ở bệnh viện, tôi được biết công an đang điều tra vụ tai nạn này. Chủ nhân của chiếc xe máy gây ra tai nạn chưa biết là ai, vì ngay sau phút Lữ Hành bị ngã xe, thủ phạm đã nhanh chóng chạy trốn. Có tin nói rằng, vụ Lữ Hành bị tai nạn có liên quan đến bài báo của anh viết về những bê bối ở xí nghiệp sản xuất thương binh 27 tháng bảy. Sự thể thế nào, chắc chỉ một thời gian nữa, công luận sẽ làm sáng tỏ. Mặc dù sức khoẻ rất yếu, lại thường xuyên bị hôn mê, nhưng đôi khi nhà văn Lữ Hành vẫn có chút ít tỉnh táo. Vào một lúc tỉnh táo nhất khi tôi đến thăm, anh ra hiệu cho tôi lại gần và đưa cho tôi cuốn sổ tay mà lúc nào anh cũng giữ bên mình. Với tôi cuốn sổ tay ấy là một tài sản vô giá. Hiểu rõ ý định của anh, tôi vội vàng tập hợp lại các tư liệu, có thêm bớt chút ít để thành cuốn tiểu thuyết NHỮNG NGƯỜI Ở KHÁC CUNG ĐƯỜNG.​ *** Hoàng Minh Tường là một trong những nhà văn hiện đại của Việt Nam, tác giả cuốn Thời của thánh thần Hoàng Minh Tường từng trải qua các nghề dạy học, viết báo và viết văn. Mời các bạn đón đọc Những Người Ở Khác Cung Đường của tác giả Hoàng Minh Tường.