Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Mười Bảy - Ghec-man Mat-ve-ep

Lũ học trò cấp 3 quậy như quỉ. Giáo viên nào cũng phải chào thua. Ai nấy bước vào lớp trong phiền muộn và thường kết thúc giờ học bằng chuyến thăm viếng văn phòng cô hiệu trưởng trong cơn giận bừng bừng. Và một ngày kia, bọn con gái lớp 10 hay tin có thầy mới về làm chủ nhiệm. Thầy Côn-xtan-chin Xê-mi-ô-nô-vích. Dạy văn. Và một mảnh đạn còn găm trong đùi thầy... "Mê say môn mình giảng. Côn-xtan-chin Xê-mi-ô-nô-vích đã suy nghĩ về nó trong những hầm đất đầy khói, trong những chiến hào ẩm ướt, trong những ngày lạnh buốt và những đêm nóng bức. Trong lúc hành quân, những lúc nghỉ ngơi và ngay cả lúc chiến đấu, anh luôn luôn mơ ước sẽ có ngày quay về mái trường thân yêu và như trước kia sẽ bắt gặp những ánh mắt ham hiểu biết của lớp trẻ. Năm năm chiến tranh, anh đã chiến đấu để giành quyền được giảng dạy." "Còn cách nào khác nữa? Không có lòng tin ở các em làm sao giáo dục cho các em những phẩm chất tốt đẹp được." "Những bài thuyết giáo dài dòng và chán ngấy về đạo đức thường chỉ giáo dục các em thành những đứa giả dối, những kẻ lừa phỉnh." Đó là thầy Côn-xtan-chin Xê-mi-ô-nô-vích. Truyện Tuổi mười bảy của nhà văn Ghéc-man Mát-vê-ép đưa chúng ta trở lại thời kỳ "dở dở ương ương" của tuổi mười bảy dưới mái trường, cùng thầy cô và bao sự tình ngổn ngang vỡ nát trong hồn người vừa choàng tỉnh sau cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc... Cuốn tiểu thuyết còn chỉ ra diện mạo nền giáo dục Xô viết còn nhiều khiếm khuyết trong triết lí giáo dục, trong đó Côn-xtan-chin Xê-mi-ô-nô-vích đã từng là người chiến sĩ trong chiến trận thì nay vẫn tiếp tục là người chiến sĩ trong cuộc chiến cải tạo tư tưởng, vốn nhiều chông gai phiền não, cho cả thầy cô, học trò và cả cô hiệu trưởng. *** DẤU VẾT CỦA CHIẾN TRANH Trường học im lặng. Giờ học đã bắt đầu. Bà hiệu trưởng đang làm việc ở văn phòng bỗng có tiếng gõ cửa. - Xin mời vào! - Bà mời mà vẫn không ngẩng lên nhìn khách. Trên bàn là thời khóa biểu giờ giảng của toàn năm học 1947 - 1948. Natalia  Dakharốpna tay trái đưa chiếc kính cũ lên trước mắt, tay phải đưa bút chì lần theo thời khóa biểu: bà đang lập kế hoạch thăm lớp. Đưa mắt thoáng nhìn người đàn ông mới bước vào, bà chỉ chiếc ghế, mời: - Mời đồng chí ngồi. Tôi sắp xong bây giờ. Người đàn ông mới vào tay chống gậy, chậm rãi ngồi xuống ghế, lấy trong túi ra một tờ giấy đã được gập lại ngay ngắn, mở tờ giấy ra đặt xuống bàn và trong khi chờ đợi nói chuyện với bà hiệu trưởng, anh ngắm bức chân dung Lê-nin treo trên tường. Anh hiểu ngay rằng bức chân dung này do một bàn tay rất có tài nhưng còn chưa điêu luyện vẽ nên. Nhất là đôi mắt. Không biết có phải đó là một sự thành công bất ngờ hay là kết quả của một quá trình lao động miệt mài, nhưng đôi mắt ấy được vẽ rất đạt, rất sống: hơi nheo lại hiền từ và ánh lên một niềm vui sảng khoái. - Đó là tác phẩm của Vôrônhin... Khi cậu ấy học lớp bảy - Bà hiệu trưởng giải thích và đặt bút chì xuống bàn. - Vôrônhin - họa sĩ trang trí nhà hát - anh ấy học ở trường này ạ? - Vâng... Có phải đồng chí là phụ huynh học sinh không? - Không, tôi không phải là phụ huynh học sinh đâu chị Natalia Dakharốpna ạ! Tôi đến để trao đổi... Tuy rằng trước chiến tranh chúng ta đã có dịp gặp nhau. Bà hiệu trưởng chăm chú nhìn khách. Trước mắt bà là một khuôn mặt gầy gầy, nước da tái nhợt với những đường nét thanh tú, vầng trán rộng, cái nhìn chăm chú, tóc hai bên thái dương đã bạc. Đúng rồi, hình như mình đã gặp người này ở đâu rồi. Nhưng ở đâu? - Chúng ta đã gặp nhau ở hội nghị giáo viên. - Người đàn ông mỉm cười nhắc bà. Cũng lạ thật, có khi cái cười làm thay đổi vẻ mặt con người, cứ như thể người ta vừa bỏ chiếc mặt nạ ra khỏi mặt vậy. - Hình như... tôi nhớ ra rồi! Có phải anh Cônstantin Xêmiônôvich không? - Bà ngạc nhiên hỏi. - Thế là chị đã nhận ra. - Vừa nói Cônstantin vừa đứng dậy bắt tay bà. - Dĩ nhiên là tôi nhận ra rồi, tuy anh thay đổi khá nhiều. - Vâng... cũng không gặp may mắn lắm. Tôi bị thương vào ngày cuối cùng của chiến tranh và đã nằm trên giường bệnh khá lâu. Còn chị, hầu như không thay đổi tí gì, vẫn trẻ như xưa. Tóc bà Natalia Dakharốpna đã có nhiều sợi bạc nhưng rõ ràng là trông bà vẫn còn trẻ so với cái tuổi ngoài sáu mươi của bà. Với khuôn mặt kiên nghị và sinh động, lúc nào cũng gọn gàng trong chiếc áo dài sẫm màu hoặc trong bộ com-lê với mái tóc được chải rất cẩn thận, bà luôn được mọi người nhớ mặt và để ý, kể cả trong những hội nghị giáo viên đông đúc. - Hồi còn chiến tranh chị vẫn ở lại Lêningrát à? - Cônstantin Xêmiônôvich hỏi. - Vâng suốt thời gian chiến tranh. - Và vẫn dạy học? - Vẫn dạy học! Kể cả năm đầu tiên, trong mùa đông đáng sợ ấy, khi thành phố bị phong tỏa chúng tôi vẫn không bỏ học. Đại đa số học sinh sống với giáo viên. Mẹ các em phải trực chiến ở nơi làm việc, còn bọn trẻ thì ở đây... Thế còn anh? Anh bị thương có nặng lắm không? - Nói thế nào với chị nhỉ?...Mảnh đạn vẫn còn nằm trong đùi. Bây giờ thì không sao. Tôi đến gặp chị để xin việc đây! - Anh nói và chìa giấy giấy thiệu ra: Sở Giáo dục gửi đến đây. Bà Natalia Dakharốpna đọc mảnh giấy xong, ngồi tựa lưng vào ghế. - Thế anh định đến đây làm việc... luôn đấy à? - Vâng. Nếu được chị đồng ý. - Thế thì còn gì bằng! Tôi rất mừng! - Bà nói và nở một nụ cười hài lòng - Ở những lớp trên không có giáo viên văn học. Hôm qua Sở có gọi điện về nhưng tôi đi vắng. Chắc là người ta gọi điện về việc của anh. Thế thì anh đi lấy quyết định đi và ta bắt tay vào việc luôn thôi... Còn trường của anh hiện nay ra sao? - Là đống gạch vụn, chẳng còn gì chị ạ - Anh trả lời với vẻ buồn thoáng hiện lên mặt. - Thế nghĩa là anh đã đến làm việc với chúng tôi... Rất tốt, tốt lắm... - bà hiệu trưởng nhắc đi nhắc lại, tay đặt quyển sổ công tác hết chỗ này đến chỗ khác. Bà ngập ngừng một lúc rồi nhanh nhẹn đeo kính vào và nói: - Giáo viên văn học ở lớp mười vừa chuyển đi nơi khác và lớp hiện đang thiếu thầy dạy văn. Anh nghĩ sao nếu tôi định xếp anh thay vào đó? - Được thôi chị ạ. - Tôi có nhiệm vụ phải báo trước cho anh biết đó là một lớp rất ít học sinh, ít lắm, nhưng lại khó điều khiển. Các em được thả lỏng lâu rồi. Cô giáo chủ nhiệm cũ đã ba năm làm chủ nhiệm nhưng các em không gắn bó mấy. Trước mắt sẽ có sự chống đối ngầm với anh đấy, có thể có cả những điều bất ngờ không lấy gì làm thú vị lắm sẽ xảy ra nữa. Người giáo viên mới ngạc nhiên nhìn bà hiệu trưởng, nhưng anh không nói gì. - Chúng tôi đã quan tâm rất nhiều đến lớp này, - bà Natalia Dakharốpna tiếp tục - Nói chung thì bọn trẻ thông minh, không đến nỗi nào, nhưng tính tình hay thất thường và còn hay tự phụ nữa. Những lỗi ấy là do cô Dinaiđa Đmitriépna. Cô ấy nuông chiều bọn trẻ quá. Cô thường hay che chở, khen ngợi các em quá mức và cũng bỏ qua nhiều điều thiếu sót, sai lầm của các em. Trong lớp, các em được bao che. Hầu hết các em đều sống ở đây trong khi thành phố bị phong tỏa... Nhưng không sao, hình như tôi hơi quá lời. Những cái đó có lẽ không đáng lo đến thế đâu. ... Mời các bạn đón đọc Tuổi Mười Bảy của tác giả Ghec-man Mat-ve-ep.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sống Chung Với Mẹ Chồng - Phù Thủy Dưới Đáy Biển
Diệp Hy Lôi, cô con dâu 8X, xinh đẹp, thông minh nhưng lại lười biếng và ham hư vinh, đối mặt với mẹ chồng, cô không thể nào hoàn thành tốt vai trò một người con dâu của mình. Phương Xảo Trân, mẹ chồng 5X, hiền hậu, đảm đang, có tài nấu các món ăn rất phong phú, có thể nhận ra mẹ Hứa Bân đã làm người phụ nữ của gia đình nhiều năm, tay nghề nấu ăn rất giỏi, mùi vị và hình thức đều rất tuyệt. Bà chăm chỉ nhưng cũng vô cùng cổ quái, là mẹ chồng, bà không thể xử lý tốt mối quan hệ với con dâu. Hứa Vũ, cậu con trai 8X, đứng giữa người vợ thương yêu và người mẹ nuôi mình khôn lớn, đứng giữa tình yêu và tình thân, cuối cùng anh đã đánh mất đi tình yêu, chính tay hủy hoại cuộc hôn nhân của mình. Về nhà chồng, Hy Lôi phải làm quen dần với việc: “tối rửa bát xong, lúc tìm đồ lót, Hy Lôi phát hiện ra quần áo của mình ở trong tủ đã bị sắp xếp lại, nó không có vẻ bừa bộn như trước mà được sắp xếp rất gọn gàng. Quyển sách mình đã đọc xong tiện tay để ở đầu giường cũng được đặt lên giá sách. Những điều này đều là mẹ chồng cô làm lúc dọn dẹp phòng sau khi họ đã đi làm”. Dần dần, mọi thói quen và cuộc sống riêng tư của hai vợ chồng cô đều bị đảo lộn tất thảy, và nó thực sự trở thành một “địa ngục” đối với những đôi vợ chồng trẻ như cô. Một bà mẹ chồng kỹ tính và hay soi mói, một ông chồng thô lỗ và chưa trưởng thành, cùng với một bản thân nông nổi và bướng bỉnh, mâu thuẫn của ba người khi đã lên đến đỉnh điểm thì liệu có còn níu giữ được? Đây là một trận chiến giữa mẹ chồng và nàng dâu, một sự lựa chọn khó khăn giữa tình yêu và tình thân, ở đó có sự bất lực vô cùng, có niềm vui vô tận. Những bà mẹ chồng tương lai, hãy đọc cuốn sách này, nó sẽ giúp bạn có cái nhìn cởi mở hơn; những nàng dâu mới, hãy đọc cuốn sách này, nó sẽ cho bạn nhiều kinh nghiệm quý giá; những người đàn ông phải đứng giữa mẹ và vợ, cũng nên đọc cuốn sách này, nó giúp bạn biết rằng, trong hôn nhân, tình yêu đứng sau, trí tuệ đi trước. *** Phù thủy dưới đáy biển, tên thật là Giả Hiểu, thường dùng bút danh là Thanh Dương Uyển Hề, là một cô gái thuộc thế hệ 8X, thích đọc Hồng Lâu Mộng, tính tình giản dị, nhạy cảm, thích văn chương. Rất tin vào tình yêu sét đánh, vào những mối tình lãng mạn. Đầu năm 09 từng có truyện ngắn tình yêu được đăng trên các báo và tạp chí nổi tiếng như “Người tình”, “Thế giới phụ nữ”, “Thế giới người tình”… Mời các bạn đón đọc Sống Chung Với Mẹ Chồng của tác giả Phù Thủy Dưới Đáy Biển.
Người Chưa Bao Giờ Thấy Biển - Jean-Marie Gustave Le Clézio
Daniel hầu như ko nói chuyện với ai và cũng ko có bạn bè. Người ta thấy nó thường mơ mộng với đôi mắt mở to. Nó có dáng vẻ như đến từ nơi khác. Đáng lẽ nên gọi nó là thuyền trưởng Sinbad, bởi nó đọc nhiều những chuyện phiêu lưu ấy, và đó là cuốn sách duy nhất nó thuộc nằm lòng: mắt nó sáng rỡ chỉ khi nói chuyện về biển cả và việc du hành. Nhưng, nó chưa bao giờ nhìn thấy biển. Rồi một ngày tháng mười một, chẳng bảo ai, nó ra đi và không bao giờ trở lại… *** Jean-Marie Gustave Le Clézio, một trong những nhà văn lọt vào danh sách để xét giải Nobel văn học năm 1999, đã thành danh từ khá sớm. Những năm 60 của văn học Pháp là những năm khó khăn với các cuộc tìm tòi thí nghiệm, những quan niệm mới và những khuynh hướng mới. Chính vào thời kỳ ấy, cụ thể là vào năm 1963, “một chàng trai trẻ, cao lớn, đẹp trai, có mái tóc vàng”, ít nói, đã "trình làng" với cuốn tiểu thuyết Biên bản (Le Procès - verbal), in tại Gallimard, một nhà xuất bản lớn hàng đầu, có uy tín ở Pháp. Cuốn tiểu thuyết lập tức thu hút sự chú ý của bạn đọc cũng như giới phê bình không những vì nó đoạt giải thưởng Renaudot, mà chủ yếu vì nó đã đặt ra nhiều vấn đề lý thú cho thể loại tiểu thuyết dường như đang ngắc ngoải. Thế là, mặc dầu anh còn quá trẻ (23 tuổi) để thành tên tuổi, người ta vẫn cứ “xếp hạng” và anh “có chỗ” trong làng văn Pháp đương đại đang khá là nhốn nháo. Tính đến nay, cầm bút được hơn 30 năm, Le Clézio đã có 47 đầu sách gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận và dịch thuật, trong đó có 4 cuốn viết chung. Ðó là chưa kể đến rất nhiều bài viết ông đăng trên các tạp chí, các báo... và hoạt động giảng dạy của ông ở các trường đại học tại Pháp, Mỹ, Mexique, Thái Lan.   Bảo vệ xuất sắc khoá luận cao học về H.Michaux vào năm 1964, sau đó Le Clézio bảo vệ luận án tiến sĩ về Lautréamont. Le Clézio và những tác phẩm của ông đã là đề tài nghiên cứu của 21 cuốn sách và 29 luận án cao học và tiến sĩ (riêng ở Nice, thành phố quê hương ông có 7 luận án). Năm ông 49 tuổi (1989) tạp chí Sud đã ra số chuyên san về sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1994, tạp chí Lire mở cuộc điều tra xã hội học với câu hỏi “Ai là nhà văn Pháp ngữ lớn nhất trong số hiện đang còn sống?” đã có 13% độc giả trả lời đó là Le Clézio.   Cùng một số nhà văn khác, Le Clézio đã làm cho bức tranh toàn cảnh của văn học Pháp thế kỷ XX đỡ màu ảm đạm: “Suốt cả thế kỷ, người ta nói đến “cái chết của văn học”, bị giết bởi báo chí, điện ảnh, truyền hình, những trò giải trí đại chúng v.v… Vậy mà, nó không chết. Người ta viết và công bố nhiều hơn. Thành công của những tác phẩm cách tân, những tác phẩm hay và có giá trị (chúng đa dạng biết bao) của Claude Simon hay Marguerite Duras, của Jean-Marie Gustave Le Clézio hay Georges Perec đã làm cho chúng ta trở nên lạc quan”.   Thói quen của các ngòi bút phê bình nghiên cứu hay dẫn chúng ta đến việc “xếp loại” “sắp đặt” các nhà văn ngồi chỗ này, chỗ kia... hoặc thuộc trường phái này, khuynh hướng nọ... Đối với Le Clézio và các sáng tác của ông, việc này quả là không dễ dàng (có thể nói là không thể). Bởi vì, hình như ông thuộc về nhiều trường phái và hình như cũng chẳng thuộc về khuynh hướng nào cả.   Cuốn tiếu thuyết đầu tay xuất hiện khi ông còn rất trẻ đã khiến người ta xếp ông vào “chủ nghĩa hiện thực mới”. Có lẽ đó là một cách nói để làm rõ vấn đề và để đối sánh với các khuynh hướng “Tiểu thuyết Mới” “Phê bình mới” đang rất rầm rộ lúc đương thời. Vậy thì “Chủ nghĩa hiện thực mới” của Le Clézio không phải như chủ nghĩa hiện thực thời Balzac. Muốn hiểu cho rõ ngọn ngành vấn đề này, ta không thể nói trong phạm vi một hoặc vài trang giấy. Để tham khảo, chúng tôi chỉ xin nêu ở đây ý kiến của các tác giả trong cuốn Văn học Pháp từ 1945 đến 1968. Khi viết về Le Clézio họ đã dùng một cái tít lạ thường “Cách viết địa chấn học” (Une écriture sismographique). Đó là cách viết tuân theo quy luật tự nhiên, ghi theo kiểu máy đo độ rung của trái đất, ghi lại “những độ rung nhỏ nhất của những điều nhạy cảm, đem lại sự sống náo nhiệt của thế giới”. Bởi vì theo Le Clézio, thế giới vô cũng sống động. Trong tiểu luận Thế giới sống động ông đã viết: “Đây chính là điều cần phải làm: đi về nông thôn, như một họa sĩ đi vào ngày chủ nhật, cùng với một tờ giấy lớn và bút chì. Hãy chọn một nơi thanh vắng, một thung lũng xung quanh là đồi núi, ngồi trên mỏm đá và ngắm nhìn thật lâu xung quanh mình. Và rồi, khi đã nhìn thật kỹ, cầm lấy giấy, và miêu tả bằng chữ những gì ta đã thấy”. Đó là đoạn mở đầu tác phẩm. Đọc tiếp những câu cuối, ta có cảm giác như là “nghệ thuật thơ ca” của Le Clézio, một quan niệm thật giản dị: “Đó. Thế giới sống động như thế, trong những tiếng động nhỏ xíu, những cú trượt, tiếng rả rích của dòng nước. Trong những lùm cây, trong hang động, trong đám cây cối chằng chịt, rối rắm, thế giới hát ca, cùng ánh sáng hoặc bóng tối, nó sống một cuộc sống nổ tung, không ngừng nghỉ, đầy tai biến và chết chóc. Cần phải sống cùng nó, như thế, hàng ngày, nằm áp má xuống đất, tai nghe ngóng, sẵn sàng lắng nghe tất cả những tiếng ồn ào và tất cả những tiếng thì thầm. Dây thần kinh cắm sâu vào đất như rễ cây và tự nuôi dưỡng bằng sức mạnh quật khởi khó mà hiểu nổi; cần phải uống thật lâu ở suối nguồn của sự sống và cái chết, rồi sẽ trở thành vô địch không ai thắng nổi”.   Xét về mặt nội dung các tiểu thuyết của Le Clézio đều có thể kể được, có nhân vật, cùng với các “phụ tùng” của nó: Adam Polo trong cuốn Biên bản (1963), Franois Besson trong Cơn hồng thủy (Le déluge, 1966), cô gái Lalla trong tiểu thuyết Sa mạc (Désert, 1980), tác phẩm đoạt Giải Lớn Paul Morand, Alexis trong Người tìm vàng (Le chercheur d'or, 1997) v.v... Có vẻ như những lời tuyên ngôn hùng hồn của N. Sarraute trong tác phẩm nổi tiếng Thời đại hoài nghi cùng các quan điểm cách tân táo bạo của Tiểu thuyết Mới hầu như chẳng thấy có khúc xạ nào qua sáng tác của Le Clézio.   Chính bản thân ông từng kể lại: “Khi tôi đưa bản thảo tiểu thuyết đầu tay của tôi đến Nhà xuất bản Gallimard, tôi đã nói rõ rằng tôi không có quan hệ gì với Tiểu thuyết Mới”. Thế nhưng, không phải hoàn toàn không có những điểm tương đồng nào đó giữa ông và các nhà Tiểu thuyết Mới. Thậm chí người ta còn tìm thấy sự tiếp nhận những tư tưởng từ Roland Barthes trong Lời tựa cho cuốn sách thứ hai của ông có tên là Cơn Sốt.   Trong một cuộc phỏng vấn P.Lhoste có nói với Le Clézio về những từ được lặp đi lặp lại trong các tác phẩm của ông. Nhà văn đồng ý với nhận định đó và cho rằng đó “là những điểm mốc” để có thể khẳng định là mỗi người đều có một “huyền thoại cá nhân” (mythologie personelle). Ðề cập đến vấn đề này có thể Le Clézio có liên hệ gì đó với khái “huyền thoại cá nhân” (mythe personnel) của Ch.Mauron, nhà phê bình phân tâm học đã nhấn mạnh đến việc nghiên cứu quá trình vô thức trong sáng tạo của nhà văn.   Cũng trong cuộc nói chuyện ấy, Le Clézio đã gợi lên sự hàn gắn giữa nhà văn và thầy phù thủy. Cả hai đều có một “thao tác ma thuật”, có một “mã” (code) và những ký hiệu để “hành nghề”, tất nhiên là những ký hiệu khác nhau, thầy phù thuỷ với những ký hiệu của cây lá, của rắn... nhà văn với “những ký hiệu chính xác của từ ngữ gắn bó với các hình ảnh đặc biệt sẽ cho phép độc giả thực hiện thao tác có tính chuyển đổi thành một hiện thực khác, cao hơn”. Nghe đến những “ký hiệu”, đến “mã”, chúng ta có cảm giác như lại sắp bước sang một lĩnh vực khác…   Là một người đọc rất nhiều, ngay từ đầu Le Clézio đã quan tâm đến những vấn đề thuộc lý luận văn học. Ở Lời tựa với hình thức như một bức thư nho nhỏ gửi đến bạn đọc trong tiểu thuyết Biên bản, nhà văn đã dành nhiều dòng cho độc giả, một nhân tố tạo thành quan trọng được chú ý đặc biệt ở văn học thế kỷ XX với tư cách là người tiếp nhận. Ngay cách viết Lời tựa với hình thức hoàn toàn như một bức thư gửi đến bạn đọc có lẽ cũng là một cách để nói rõ thêm quan điểm này của nhà văn.   Như vậy có thể thấy một quan niệm mở của Le Clézio, chấp nhận cùng lúc mọi lối biểu hiện của thực tiễn sáng tác văn học đa dạng và phong phú. Đó là xét về mặt lý luận, còn trong sáng tác, nhà văn đã thể hiện điều đó, trước hết trong tiểu thuyết. Về mặt hình thức được trình bày trên trang giấy, bản thân các tiểu thuyết của ông không phải toàn các con chữ bình thường theo lối viết xưa nay. Văn bản được gài xen vào đủ thứ: từ các bức họa, các công thức toán, lý, hoá, các con số, các đoạn thơ, nhật ký, các mẩu quảng cáo, các mẩu báo chí (có khi được in ở giữa những trang đầu hoặc cuối), có cả những đoạn chữ bị xóa vẫn còn nguyên dấu gạch chéo X… Với cách đó, dường như ông đã thu hẹp lại khoảng cách giữa hư cấu và hiện thực. Hiện thực tràn vào trang giấy bằng của bản thân nó, chứ không phải bởi uy quyền tối cao và độc đoán của nhà văn. Các sáng tác của Clézio vào những năm đầu thể hiện rõ điều này; Biên bản (1963), Cơn hồng thủy (1966), Những người khổng lồ (Les géants, 1973)... Thậm chí có những đoạn tác giả còn để nguyên tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc xen lẫn giữa toàn bộ văn bản bằng tiếng Pháp. Những tiếng vọng đến từ xa được thể hiện thành nhiều con chữ trên mặt giấy: i i i i i i i i i i i…, woou woou woou…, hom! hom!, hom!, hom!, hom!, v.v…   Ðọc tiểu thuyết của Le Clézio chúng ta thấy ông một mặt vẫn ràng buộc với tiểu thuyết truyền thống qua những đặc điểm cơ bản nhất, mặt khác, ông đã tạo ra một lối của riêng mình. Điều đó được thể hiện không chỉ ở việc làm “vỡ tung" văn bản, thay đổi hình thức trình bày của nó, mà chủ yếu là “việc xâm nhập các thể loại trong tác phẩm” của ông, Trong tiểu thuyết của ông có cả thơ, có tiểu luận, có sử thi, huyền thoại cả cổ tích. ... Mời các bạn đón đọc Người Chưa Bao Giờ Thấy Biển của tác giả Jean-Marie Gustave Le Clézio.
Người Thầy Thuốc - Thanh Châu
Thanh Châu (1912-2007), tên thật là Ngô Hoan, là nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Ông là tác giả truyện ngắn "Hoa ti gôn" (1937), là truyện đã làm "khơi dậy men thơ cho T.T.Kh sáng tác bài thơ nổi tiếng: Hai sắc hoa ti gôn". Người thầy thuốc là tập truyện ngắn của ông được đăng trên Phổ thông bán nguỵệt san xuất bản năm 1938. Mời các bạn đón đọc Người Thầy Thuốc của tác giả Thanh Châu.
Cuộc Sống Trêu Chó Chọc Mèo Của Nhị Nữu - Tử Ngưng Yêu
AudioBook Cuộc Sống Trêu Chó Chọc Mèo Của Nhị Nữu   Bản giới thiệu vắn tắt của Thiên Lôi Lôi thần: “Làm đại tỷ có sảng khoái lắm không?” Sói ta: “Sảng khoái” Lôi thần: “Trêu chọc trai đẹp có thích không?” Sói ta: “Thích ~” Lôi thần: “Trêu chọc con ta có thích không?” Sói ta: “Đương nhiên thích ~~” Lôi thần: “……… Ta đánh chết ngươi!!!!!!!!” Sói ta hấp hối: “Ngươi… Cho dù ngươi có đánh ta thành ngốc, lão nương cũng sẽ không buông tha con của ngươi!” Lôi thần cười gằn: “Ta đây sẽ thỏa nguyện cho ngươi!” Đoạn này giải thích nguyên nhân vì sao nhân vật nữ bất hạnh biến thành kẻ ngốc nên mới phải chịu áp bức. Sau khi chết đi sống lại, cô khôi phục trí nhớ, cảm thấy vô cùng xấu hổ và đau đớn. Đấm ngực dậm chân – – Làm một nữ nhân xuyên không – – lại bị biến thành như vậy – – cũng quá dọa người!!! Do đó cô bắt đầu hăng hái tiến lên phía trước, tuyệt địa phản công trả thù! *** Bản giới thiệu vắn tắt của Động vật: Lúc trước, ta là một con sói uy phong lẫm lẫm! Có một ngày, bất hạnh … mất trí nhớ! Sau đó, có người nói cho ta biết …. Ngươi chỉ là một con cún con # Vì thế, ta cũng rất happy trải qua cuộc sống của một con chó nhỏ = = Mãi cho đến một ngày kia! Ta đột nhiên nhớ lại tất cả mọi chuyện!!!!!!! Ta vô cùng phẫn nộ, nhiệt huyết cứ tuôn trào trong thân thể, chạy rần rần đến mức không thể ức chế nổi. Ta ngửa đầu rống giận: “Ta là sói!!! Sói!!! Sói!!!” Lại phát hiện…. Mẹ ơi ~~~~~ Chung quanh vì sao lại xuất hiện áp khí của dã thú mạnh mẽ cỡ đó a. Được rồi, ta là cún, ta là cún, ta là cún……. T=T Mời các bạn đón đọc Cuộc Sống Trêu Chó Chọc Mèo Của Nhị Nữu của tác giả Tử Ngưng Yêu.