Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Chú Chim Chưa Bao Giờ Được Hót

Teddy là một chàng trai trẻ yêu thiên nhiên và thích làm thơ. Anh luôn mong muốn được sống một cuộc đời trọn vẹn và đầy ý nghĩa. Bỗng một ngày, Chiến tranh Thế giới thứ Hai nổ ra. Cuộc sống của anh hoàn toàn bị đảo lộn. Sự tàn khốc của chiến tranh đã làm thế giới quan và nhân sinh quan của anh thay đổi. Mỗi ngày với anh đều giống như ngày tận thế. Anh không tin mình còn có một tương lai. Thế rồi chiến tranh đột ngột kết thúc. Teddy bị mất phương hướng. Anh chưa chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống của một người bình thường. Sống sót sau chiến tranh không hẳn là điều may mắn mà đã trở thành một gánh nặng với anh. Liệu anh có thể đối mặt với những khó khăn, sóng gió liên tiếp ập tới cuộc đời mình? Và anh phải làm thế nào để xoay xở được trong cái tương lai mà anh chưa bao giờ nghĩ là mình sẽ có? --------- Đôi nét về tác giả Kate Atkinson: Kate Atkinson, sinh ngày 20 tháng 12 năm 1951, là nhà văn người Anh có các tác phẩm đạt khá nhiều giải thưởng. Bà là tác giả lập kỷ lục ba lần thắng giải Costa Book, với cuốn tiểu thuyết đầu tiên có tựa đề Behind the Scenes at Museum (năm 1995), Life after Life (Chuỗi đời bất tận - năm 2013) và A God in Ruins (Những chú chim chưa bao giờ được hót - năm 2015). Ngoài ra, bà còn viết bộ bốn cuốn tiểu thuyết bestselling về cựu thám tử Jackson Brodie được chuyển thể thành phim truyền hình ăn khách trên đài BBC. *** Review sách Những Chú Chim Chưa Bao Giờ Được Hót Nguyễn Linh đã review NHỮNG CHÚ CHIM CHƯA BAO GIỜ ĐƯỢC HÓT #review Các bạn đã nghe chim chiền chiện hót bao giờ chưa? Có bao giờ nghe tiếng hót con chim chiền chiện mà cảm thấy yêu cuộc sống này biết mấy chưa?  Có bao giờ nhìn thấy một chim chiền chiện bị bắt rồi không bao giờ hót được nữa và thấy luyến tiếc tiếng hót tuyệt diệu của nó không? Đọc xong "Những chú chim chưa bao giờ được hót" sẽ có cảm giác buồn và tiếc như thế đấy. Mình cực kỳ thích bộ sách trước "Chuỗi đời bất tận" của Kate Atkinson, nên khi bộ "Những chú chim chưa bao giờ được hót" mới ra là mình đã đặt mua ngay.  Cuốn sách xoay quanh chàng trai Teddy, em trai của Ursula Todd trong Chuỗi đời bất tận, một chàng trai yêu thơ ca, yêu thiên nhiên như yêu tiếng hót của chim chiền chiện vậy. Nhưng khi chiến tranh ập đến, anh nộp đơn gia nhập lực lượng không quân hoàng gia Anh, và trở thành một chú chim bay lượn trên bầu trời.  Anh không thể nhớ được bao nhiêu chuyến bay mình đã lái, bao nhiêu quả bom đã thả xuống, bao nhiêu người đồng đội đã hy sinh trên những chuyến bay cùng anh. Nhưng anh nhớ rất rõ về chuyến bay cuối cùng, khi tất cả mọi người, kể cả anh đã nghĩ mình sẽ chết, nhưng hóa ra lại sống, lại có tương lai, một tương lai không chuẩn bị trước.  Teddy trở về, kết hôn với cô bạn thời nhỏ Nancy, hai người có một đứa con - cô con gái bướng bỉnh và khó bảo Viola. Teddy thậm chí còn có hai đứa cháu ngoại Sun và Moon Bertie. Nhưng sống sót sau chiến tranh không hẳn là một điều may mắn, những ký ức đau thương trên bầu trời, cả dưới mặt đất lũ lượt ùa về xen lẫn với những sóng gió và khó khăn của thời bình khiến tương lai của Teddy cũng mờ mịt như chính màn khói của chiếc máy bay cháy rụi trong trận chiến cuối cùng của anh. Với những ai chưa đọc "Chuỗi đời bất tận", hoặc không thích cách kể chuyện của Kate Atkinson sẽ thấy cuốn sách kể dài dòng thừa thãi về cuộc đời của Teddy. Nhưng nên nhớ đây đâu phải là tiểu thuyết trinh thám, bạn đâu đi tìm hung thủ của vụ án hay động cơ gây án của hắn, khi bạn đọc tiểu thuyết, ấy là bạn đang đọc chuyện đời của một nhân vật, vui cùng niềm vui, buồn cùng nỗi buồn của anh ấy. Và chính vì đọc sách với một tâm thế không mong chờ cái kết sẽ diễn ra như thế nào, bạn sẽ vỡ òa ra khi đọc đến trang cuối cùng của cuốn sách.  Có một chi tiết có lẽ rất phù hợp với thời tiết này. Khi nghe tiếng chim chiền chiện hót, tức là hôm đó là một ngày nắng đẹp trời, còn những ngày âm u mưa gió sẽ không thể nghe thấy được tiếng chim. Bức ảnh chụp từ mùa mưa lần trước mà giờ mới được đem ra dùng. *** 15 tháng 9 năm 2001 Đã bốn ngày từ khi tòa tháp đôi sụp đổ, tôi tỉnh dậy vào buổi sáng và thấy một gã khổng lồ đứng đó, ngay cuối giường. Tôi gần như hét lên theo một cách ẻo lả nhất, nhưng tất cả những gì thoát khỏi lồng ngực là sự im lặng. Không có tiếng thét nào cả. Tốt. Bởi nếu có thì sẽ làm cho tên khổng lồ kia sợ hãi và trốn tịt xuống gầm giường. Chỉ mất một hai giây để tôi nhận ra đó là ai. Và tồi tệ hơn, là tôi đang ở đâu. Rồi tôi thực hiện thói quen mới được hình thành của mình từ sau sự kiện 11/9, thường là sau một giấc ngủ ngắn vạ vật trong xe của ai đó: liệt kê lại những việc đã xảy ra trong đầu. Những điều đã mất, những điều đã thay đổi. Chẳng còn New York, chẳng còn nghề ngỗng, chẳng còn người mẹ nào nữa, chẳng còn bạn bè nào khi mà tất cả bọn họ đều ra đi cùng hai tòa tháp, tất cả mọi thứ tôi làm để mãi mãi rời bỏ Kansas, cuối cùng đều là vô nghĩa. Tôi quay về nơi khỉ ho cò gáy này, nơi mà tôi đã thề sẽ không bao giờ trở lại. Và mắc kẹt ở nơi đây. Những cơn ác mộng cứ tiếp diễn nhau một cách “trơn tru”. Mọi thứ tốt đẹp đều biến mất. Tôi lại ngước nhìn gã khổng lồ gầy gò, là anh tôi, Ben. Tôi cũng đoán trước mình sẽ chạm mặt anh, có điều… Tối qua khi tôi về tới nhà thì đã muộn - tất nhiên, muộn theo tiêu chuẩn của Ben - và lúc đó anh đã đi ngủ rồi. Anh vẫn không nhìn thẳng vào mắt người khác. Nhưng cũng không giả vờ bằng cách nhìn vào điểm giữa hai chân mày như dân kinh doanh vẫn làm. Mọi hành động của Ben đều không được bình thường cho lắm. Anh quay hẳn đầu đi và nhìn xuống đất theo một góc bốn mươi độ, mắt dán vào sàn nhà. Đấy. Một điều chẳng hề thay đổi. “Chào anh,” tôi nói. “Em phải đưa anh đi làm. Dậy đi.” Đó là những lời đầu tiên chúng tôi nói với nhau sau sáu năm. Tôi ngồi dậy, vẫn mặc chiếc quần đùi ngắn, chớp mắt. Tôi không được ngủ đủ giấc. Hoàn toàn không. Mắt giống như đang có bụi vậy, và dạ dày tôi thì gầm gào. “Em có xe không?” Ben hỏi. Tôi biết anh đang lo lắng. “Em không.” “Thế làm sao em chở anh đi làm được?” “Cô Jespers nói rằng em có thể dùng xe của mẹ.” “À.” “Nhưng cô ấy không biết mẹ để khóa ở đâu. Anh có biết không?” “Có,” Ben đáp. “Anh biết.” “Thế chỉ cho em đi?” “Ừ.” “Luôn đi. Luôn và ngay chứ?” “Mẹ để chìa khóa ở cái móc chỗ cửa trước ấy.” “Tốt.” Tôi nói, Có tiến bộ. Câu này thì tôi không nói ra. “Thế… ờm… anh có nhận ra em là ai không?” “Có,” Ben đáp. “Anh nhớ được em à?” “Ừ.” “Em là ai?” “Em của anh.” “Đúng rồi. Tốt. Anh nhớ tên em chứ?” “Ừ.” “Thế sao anh không nói tên em ra?” “Vì em không bảo anh phải nói. Chỉ hỏi xem anh có nhớ không thôi mà.” “Thực ra, ý em là, sao anh không nói. Anh thử nói xem nào?” “Rusty*.” Cái biệt danh cũ, lâu rồi, cứa vào lòng tôi như một thanh sắt lởm chởm. Lởm chởm, và tất nhiên là… gỉ sét. “Giờ em được gọi là Russell.” “Vì sao?” “Vì em lớn rồi.” “Anh phải đi làm. Anh phải ở chỗ làm lúc 7 giờ kém 15 phút. Không thể muộn được. Ông McCaskill sẽ không thích anh đi muộn.” “Hẳn rồi. Được thôi. Thì đi làm. Thế anh ăn chưa?” “Rồi.” “Ăn gì?” “Ngũ cốc.” “Anh dậy lúc nào thế?” “Từ lúc năm giờ.” “Em có nghe thấy chuông báo thức đâu.” “Anh không đặt. Cũng không cần. Sáng nào anh cũng dậy lúc năm giờ.” “Sao anh chưa vào xe?” Tôi hỏi, lên giọng một chút để anh nghe thấy, nhưng cũng cố gắng ghìm xuống một chút, tránh làm phiền hàng xóm. Chiếc Buick cũ của mẹ tôi bắt đầu khởi động. Tôi có thể cảm thấy thứ rung động đặc thù dưới mông. Không nhẹ nhàng lắm. Tôi mở cửa phía lái xe, trườn người ra ngoài và nói với Ben, đang đứng cạnh cửa ga-ra, nhất quyết không vào xe. “Đây không phải loại cửa tự đóng được,” Ben nói, giọng rất to, không quan tâm đến việc hàng xóm có đang ngủ hay không. Giọng anh có vẻ mất kiên nhẫn. Như thể tôi phải biết rõ việc đó. Như thể tất cả mọi người đều phải hiểu chuyện theo cái cách mà Ben nghĩ vậy. “Anh đợi ở cửa ga-ra cho đến khi mẹ lái xe ra. Rồi anh đóng cửa. Sau đó anh mới vào xe.” Tôi thở dài, cẩn thận lùi xe ra khỏi ga-ra. Tôi không lái xe nhiều năm rồi. Và thực ra là bằng lái của tôi còn hết hạn từ lâu. Nhưng bây giờ không phải lúc để nói đến những việc như thế. Ben ngồi vào ghế bên cạnh, vắt dây an toàn qua vai. Tôi lùi chiếc Buick của mẹ lần nữa. “Em không được ra đường lớn,” anh nói. Và trước khi tôi kịp hỏi là vì sao, thì đã được nghe câu trả lời, “Em không được ra đường lớn cho đến khi thắt dây an toàn.” Tôi gật lia lịa, rồi thắt dây an toàn vào. Đó là cách nhanh chóng nhất, đỡ căng thẳng nhất để giải quyết vấn đề. Tôi vừa lái vừa ghé mắt nhìn Ben. Cố gắng quan sát xem sau sáu năm, anh đã thay đổi bao nhiêu. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, thứ tôi có thể thấy chỉ là anh trông già hơn thôi. Anh cao gần hai mét, tất nhiên tôi không trông đợi sẽ có thay đổi gì về điều này. Vẫn lêu nghêu, vẫn gầy gò, vẫn dài ngoằng, vẫn các cử động vụng về, tựa như một thứ ví dụ kỳ lạ nhất trên thế giới về một chú ngựa non; mặc dù bản thân Ben trông không còn trẻ nữa. Mái tóc nâu của anh cũng dài hơn và bù xù. Có thể chỉ đơn giản là anh chẳng chăm chút, nhưng mái tóc đó trông như một phong cách có chủ ý. Một kiểu tóc để tạo vẻ bất cần, lạnh lùng. Các cô gái trẻ tuổi thường sẽ thấy Ben thật cuốn hút. Đặc biệt là khi anh không nói gì và chỉ đứng yên một chỗ. Họ nghĩ rằng anh là kiểu bí ẩn, kín đáo một cách hấp dẫn, cho đến khi anh mở miệng. Họ sẽ ngay lập tức nhanh nhanh chóng chóng tránh xa anh, để quay lại với những việc quan trọng của mình. “Rẽ ở đây,” Ben nói. “Anh có quên gì không thế?” “Không.” “Em nghĩ anh có quên đấy.” “Là gì vậy?” “Anh quên nói với em là rẽ bên nào.” “Bên này,” anh nói, chỉ về bên phải. Mỗi con đường, mỗi tòa nhà mà chúng tôi đi qua, đều gợi lại những cảnh tượng thường xuất hiện trong cơn ác mộng tồi tệ nhất của tôi: đột nhiên tỉnh dậy và thấy mình lại ở cái thị trấn nhỏ bé đến mức đáng sợ này, nơi mà tôi bị cầm tù trong mười tám năm đầu đời. Tôi cố gắng nghĩ theo hướng đó. Đây là một giấc mơ tồi tệ. Sẽ dễ dàng và đỡ khó chịu hơn là chấp nhận việc trước mắt chính là thực tại. Giọng của Ben làm tôi giật mình. “Em muốn biết… à?” “Hả?” “Em muốn biết… điều gì đó đúng không?” “Ồ. Anh muốn nói gì hả. OK*. Nói đi.” “Có một thành phố lớn này. Có những tòa nhà rất to. Và ai đó đã lái máy bay. Đâm thẳng vào mấy cái tòa nhà đó. Ý anh là, hai cái máy bay. Và thế là chúng cháy. Chúng ở đây là mấy tòa nhà, không phải máy bay. Mà thực ra là cả hai.” “Em biết, anh ạ. Em đã ở đấy mà.” “Thế á? Nhưng em có bị cháy đâu.” “Em đứng đủ gần để thấy thôi, chứ không gần đến mức để bị cháy.” “Ồ,” Ben nói. “Em muốn biết… gì khác nữa không?” “Có.” Tôi nói, mặc dù không thực sự nghĩ vậy. “Em đã đi đâu thế?” Tôi hít một hơi, dài và sâu, rồi chầm chậm thở ra. Tôi biết sớm muộn gì anh cũng sẽ hỏi. Nhưng tôi đã nghĩ câu hỏi đầu tiên sẽ là về Mẹ. “Em đi học đại học. Anh biết mà.” “Ồ. Thế là em đã… gì ấy nhỉ? Khi mà hoàn thành ấy? Ở trường ấy.” “Tốt nghiệp.” “Ừ. Thế em đã tốt nghiệp chưa?” “Rồi.” “Khi nào thế?” “Cách đây hai năm.” “À.” Im lặng, có chút gượng gạo, chúng tôi đi qua hai khu nhà nữa. “Rồi sau đó em đến New York.” “New York! Đó là tên của cái thành phố lớn với những ngôi nhà cao tầng…” “Đúng rồi, anh ạ. Em biết mà.” “Em có muốn biết một thứ khác nữa không?” Anh không quan tâm đến việc tôi trả lời là muốn hay không. “Anh biết rất nhiều về việc đóng gói tạp hóa đấy nhé. Không dễ như người ta nghĩ đâu. Có rất nhiều thứ em phải biết. Như là em không nên để quá nhiều chai lọ thủy tinh cùng nhau bởi vì chúng có thể đụng vào nhau và vỡ. Và không để trứng ở đáy túi. Bánh mì cũng không để ở đáy. Hoa quả ở đáy thì có thể được, nếu là hoa quả cứng như dừa, chứ không phải loại mềm như là đào. Và mọi thứ phải cân bằng, nếu không người ta sẽ khó xách đi được. Đồ đạc cũng không thể quá nặng, không là đáy túi sẽ bị thủng. Anh cá là em không biết rằng việc đó cần nhiều kiến thức như thế.” “Chắc vậy.” Tôi nói, đột nhiên thấy thèm thuốc quá thể. Tôi đã không hút thuốc trong hơn bốn năm. Mà thậm chí lúc chứng kiến hai tòa tháp đôi đổ xuống tôi cũng không cảm thấy thèm thuốc như bây giờ. “Anh cá là anh biết nhiều hơn em.” Tôi thậm chí không hiểu là anh đang giận dỗi hay tự hào nữa. Hoặc là cả hai. “Chắc chắn rồi.” “Anh cá em không nghĩ rằng có bất kỳ thứ gì anh lại biết nhiều hơn em.” “Trước đây việc gì anh cũng biết rõ hơn em.” “Thế à? Anh không nhớ.” “Anh đã từng như vậy.” “Nhưng anh không nhớ. Kia rồi. Ngay kia. Siêu thị Gerson. Ngay góc kia rồi.” Mời các bạn đón đọc Những Chú Chim Chưa Bao Giờ Được Hót của tác giả Kate Atkinson & Khánh Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sói Thảo Nguyên
Tên ebook: Sói thảo nguyên Tác giả: Hermann Hesse Thể loại: Tiểu thuyết, Tình cảm, Sách hay, Văn học phương Tây Dịch giả: Lê Chu Cầu Kích thước: 13 x 20.5 cm Số trang: 316 Ngày xuất bản: 09-08-2013 Giá bìa: 80.000 ₫ Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Văn Học Nguồn sách: Chào Buổi Sáng Chụp pic: kararoxbee Type: minhminhvan, haywenchongchan, Heidi, graywonder Beta: Tina Huỳnh Làm ebook: Dâu Lê Nguồn: luv-ebook.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Ebook Sói Thảo Nguyên  Giới thiệu: Sói Thảo Nguyên là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn  Hermann Hesse  - một nhà văn, nhà thơ và hoạ sĩ người Đức, đã từng đoạt giải Nobel văn học năm 1946. Sa chân lạc bước giữa hai thời đại, mang bản chất của sói hoang dã nguyên thủy và con người trí tuệ luôn xung đột cực độ trong dòng máu – Harry Haller thuộc những kẻ vướng nghiệp phải trải nghiệm mọi vấn nạn đời người bằng nỗi thống khổ của riêng mình ở địa ngục trần gian... Cuộc khủng hoảng tâm thần ấy không của cá biệt một người, mà là căn bệnh thời đại, là chứng loạn thần kinh của cả thế hệ trong đó có Haller, và dường như không chỉ những cá nhân yếu đuối, thấp kém mới mắc phải, mà chính ở những con người giàu thể lực, trí lực nhất, tài ba nhất… Video giới thiệu sách  Sói Thảo Nguyên của Mỗi ngày một cuốn sách (VTV1): Đặc biệt mang màu sắc tự truyện và là tác phẩm nổi tiếng nhất của  Hermann Hesse , Sói Thảo Nguyên (1927) hòa quyện tuyệt vời tư tưởng Á Đông huyền bí siêu linh với nền văn minh châu Âu. Trong khi khắc họa sâu sắc và xúc động hành trình của một tâm hồn đi đến giải thoát, Sói Thảo Nguyên đồng thời là bức tranh thấm đẫm hương vị tình yêu hoan lạc, thể hiện đầy ám ảnh cuộc xung đột tinh thần diễn ra giữa bản chất sói và người trong một tài năng xuất chúng bị mắc kẹt giữa hai thời đại đang nung nấu chiến tranh. Không kém Ulysses (James Joyce) và Bọn làm bạc giả (André Gide) về thử nghiệm viết táo bạo, Sói Thảo Nguyên cũng là cuốn tiểu thuyết đầy thách thức, gây xáo trộn tâm trí, là phần thưởng quý giá cho những độc giả đang nỗ lực tiếp cận một nước Đức tri thức thời cận đại. “‘Anh rất muốn nhảy với em lần nữa,’ tôi nói, ngất ngây vì hơi ấm của nàng, ‘nhảy với anh vài bước, Maria nhé, anh say mê cánh tay tuyệt mỹ của em, cho anh được nắm thêm một lát nữa! Nhưng mà này, Hermine đã kêu gọi anh. Nàng đang ở địa ngục.’ ‘Em đã đoán thế mà. Vĩnh biệt, Harry, em sẽ mãi nhớ anh.’ Nàng giã biệt. Bông hồng mùa hè ấy đã đến độ và ngào ngạt hương thơm của vĩnh biệt, mùa Thu và định mệnh.”  Thông tin tác giả:  Hermann Hesse Hermann Hesse  sinh ngày 2.7.1877 ở Calw vùng Wũrttemberg (Đức) và mất ngày 9.8.1962 ở Montagnola (Thụy Sĩ). Cha của ông đã sống ba năm ở Ấn Độ với tư cách là nhà truyền giáo, mẹ ông là con gái của nhà truyền giáo, nhà Ấn Độ học, tiến sĩ Hermann Gundert- một người có học vấn uyên thâm về Ấn Độ và có riêng một thư viện lớn.Năm 1890, Hermann Hesse học Trường Latinh. 1891, ông học thần học. Ông bỏ học do thấy mình không thích hợp với nghề làm giáo sĩ, rồi 1892 ông học nghề buôn bán sách. 1899-1904, ông sống ở Bael (Thụy Sĩ) và mở hiệu sách cũ. Từ 1904, ông sống ở Gaienhofen bên bờ hồ đẹp như mộng là Bodensee (bên này hồ thì thuộc về Đức, bên kia hồ thuộc Thụy Sĩ) và chuyển sang viết văn chuyên nghiệp. Cũng năm 1904 ông xuất hiện trên văn đàn với tác phẩm Peter Camenzind. Đây là một tiểu thuyết giáo dục (Bildungsroman) rất hấp dẫn bạn đọc đương thời. 1911, ngán cảnh náo nhiệt của thời cuộc nên năm 1912, Hermann Hesse sang Thụy Sĩ và nhập quốc tịch nước này. Hermann Hesse  là tác giả người Đức được đọc và dịch nhiều nhất – hơn 100 triệu quyển sách của ông đã được bán trên khắp thế giới. Ông sinh ra ở Đức, trong một gia đình truyện giáo Kitô giáo. Năm 1923 ông nhận quốc tịch Thụy Sĩ. Là một người Châu Âu chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng phương Đông huyền bí, ông đã viết nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tiểu luận chứa đựng sức mạnh tâm linh mãnh mẽ, chinh phục trí tưởng tượng và sự trung thành của nhiều thế hệ độc giả. Năm 1946, ông được trao giải Nobel Văn chương. Ông mất năm 1962. Các tác phẩm chính: - Unterm Rad (Bị chà đạp – 1906)  - Peter Camenzind (1904) - Siddhartha (1922) - Kurgast (Khách dưỡng bệnh – 1925) - Die Nümberger Reise (Chuyến đi Nurnberg – 1927) - Der Steppenwolf (Sói Thảo Nguyên – 1927) - Die Morgenlandfahrt (Hành trình về phương Đông – 1932) - Das Glasperlenspiel (Trò chơi hạt ngọc thủy tinh – 1943) Mời các bạn đón đọc Sói Thảo Nguyên của tác giả  Hermann Hesse.
Nàng không là góa phụ - Mary Balogh
Tên Ebook: Nàng không là Góa phụ (full prc, pdf, epub) Tác Giả: Mary Balogh Tên gốc : Unforgiven Thể Loại: Tiểu thuyết, Lãng mạn, Văn học phương Tây Dịch Giả: Không rõ Nguồn: vietlangdu.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Ebook Nàng không là góa phụ Trích đoạn: "Dấu hiệu đảm bảo nhất báo mùa xuân đang đến là việc Ngài Claude Adams khả kính và phu nhân trở về Bodley, một trang viên ở nông thôn vùng Derbyshire của họ . Dĩ nhiên còn có nhiều chỉ dấu khác báo hiệu mùa xuân đến . Như là hoa giọt tuyết, hoa anh thảo đua nhau nở, ngay cá một ít hoa nghệ tây trong rừng và dọc theo các hàng giậu hai bên đường cũng bắt đầu đơm hoa, và trong các khu vườn, cây cối đã bắt đầu đâm chồi nẩy lộc . Nếu chịu nhìn kỹ một chút, người ta sẽ thấy những chồi li ti bắt đầu ló dạng . Không khí ấm hơn, mặt trời có vẻ sáng sủa hơn. Khắp nơi, đừơng sá đã khô ráo sau những ngày tuyết phủ dày đặc .   Vâng, mùa xuân đang đến . Nhưng dấu hiệu rõ ràng nhất làm nức lòng dân chúng trong ngôi làng nhỏ ở Bodley-on-the-Water, là việc gia đìnhh lãnh chúa Adams quay về . Hầu như năm nào cũng thế, gia đình ông bà Adams đều rời khỏi làng vào dịp lễ Giáng sinh, thỉnh thoảng đi trước Giáng sinh để sống những tháng mùa đông lạnh lẽo với bạn bè ở thành phố " Mary Balogh là một trong những tác giả nhiều lần đứng trong danh sách tác giả có sách bán chạy nhất của New York Times. Bà cũng nhận được nhiều giải thưởng văn chương khác. Một số tác phẩm của  Mary Balogh từng được giới thiệu ở Việt Nam gồm: - Thiên Thần Bóng Tối ( Dark Angel), - Lời hẹn ước mùa giáng sinh ( A Christmas Promise), - Hạt ngọc ẩn mình (The Secret Pearl),  - Trái tim anh ở đó (Slightly Dangerous), - Tin em và yêu em (More than a Mistress), - Sự trả thù ngọt ngào (The Temporary Wife), - Nàng không là góa phụ  (Unforgiven) Mời các bạn đón đọc Nàng không là góa phụ của tác giả  Mary Balogh.
Đại Chiến Thế Giới Z - Max Brooks
Tên ebook: Đại Chiến Thế Giới Z (full prc, pdf, epub) Tên gốc: Worl War Z Tác giả: Max Brooks Thể loại: Best seller, Giả tưởng, Sách hay, Tiểu thuyết, Zombie, Văn học phương Tây Tạo prc & Nguồn: BookismVietNam Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Ebook Đại Chiến Thế Giới Z - Max Brooks Giới thiệu: Thời kì ấy có nhiều tên gọi: “Cuộc Khủng Hoảng,” “Những Năm Tăm Tối,” “Đại Dịch Biết Đi,” và cả một số tựa mới, “hợp thời” hơn chẳng hạn như “Thế Chiến Z” hay “Đại Chiến Z Thứ I.” Cá nhân tôi thấy không thể chấp nhận được cái biệt danh cuối cùng bởi nó ám chỉ rằng một cuộc “Đại Chiến Z Thứ II” sẽ là điều tất yếu. Trong mắt tôi nó sẽ luôn là “Đại Chiến Zombie.” Mặc dù có nhiều ý kiến trái chiều về độ chính xác khoa học của từ zombie, sẽ khó có thể tìm ra một thuật ngữ nào phổ thông hơn dành cho đám sinh vật suýt chút nữa đã tận diệt tất cả chúng ta. Zombie hiện vẫn là một thuật ngữ vô cùng đáng sợ. Cho tới nay, không có lấy một từ nào khác đủ khả năng khơi gợi lên biết bao cảm xúc và kí ức kinh hoàng đến vậy. Chính những kí ức đó, những xúc cảm đó đã trở thành đề tài cho cuốn sách này. Bản ghi chép cuộc tranh đấu lớn nhất trong lịch sử nhân loại này ra đời nhờ một cuộc chiến vụn vặt và cá nhân hơn giữa tôi và chủ tịch Ủy ban Báo cáo Hậu chiến trực thuộc Liên Hiệp Quốc. Công việc mới đầu tôi làm cho Ủy ban này rất được đầu tư chăm chút. Từ chi phí đi lại, quyền truy cập thông tin mật, đội quân phiên dịch riêng (cả người lẫn máy) cho đến “anh bạn chí cốt” bé nhỏ nhưng gần như vô giá: chiếc máy ghi âm kích hoạt bằng giọng nói (món quà không gì có thể quí hơn đối với một đánh máy viên chậm nhất quả đất), tất cả đều cho thấy tầm quan trọng của công việc tôi đảm nhiệm đối với dự án này. Vậy nên khỏi nói cũng biết tôi gần như ngã ngửa khi phát hiện ra phân nửa thành quả của mình đã bị lược bỏ trong bản báo cáo cuối cùng. “Nó cá nhân quá,” bà chủ tịch nói trong một buổi tranh luận vô cùng “sinh động” giữa chúng tôi. “Quá nhiều ý kiến, quá nhiều cảm xúc. Đây không phải mục đích của bản báo cáo này. Chúng ta cần số liệu rõ ràng, rành mạch, không bị nhân tố con người tác động vào.” Tất nhiên bà ấy nói đúng. Báo cáo chính thức là một bản tổng hợp những dữ liệu chính xác, một bản “báo cáo hậu chiến đấu” với cái nhìn khách quan, cho phép các thế hệ sau nghiên cứu các sự kiện đã diễn ra trong cái thập niên chết chóc ấy mà không bị ảnh hưởng bởi “nhân tố con người.” Nhưng chẳng phải trong quá khứ, chính nhân tố con người ấy đã giúp chúng ta đoàn kết lại thành một khối vững chắc? Liệu các thế hệ tương lai có quan tâm đến các mốc niên đại và số liệu thương vong không, hay cái họ quan tâm hơn lại là từng câu chuyện của những con người không khác họ là bao? Khi loại đi cái nhân tố con người, phải chăng chúng ta đang liều lĩnh vứt bỏ sợi dây tình cảm giữa chúng ta và quá khứ, trở nên lãnh đạm với lịch sử để, lạy Chúa nhân từ, một ngày kia chính chúng ta sẽ đi vào vết xe đổ? Và cuối cùng, chẳng phải đó điều khác biệt duy nhất giữa chúng ta và những kẻ tử thù ta vẫn quen gọi là “thây ma”? Tôi trình bày luận điểm của mình theo một cách có lẽ là hơi thiếu chuyên nghiệp với “sếp” tôi. Ngay sau tôi vừa buông một câu chốt hạ “chúng ta không thể để những câu chuyện này trôi vào quên lãng như thế được,” bà ta đáp lời ngay, “Thế thì đừng. Viết sách đi. Cậu vẫn còn có các ghi chép của mình và quyền lợi được tự do sử dụng chúng. Có ai ngăn cấm cậu lưu lại những câu chuyện đó trong mấy trang sách của riêng mình đâu?”Dù rằng cuốn sách này chủ yếu ghi chép lại kí ức người trong cuộc, nó vẫn bao gồm nhiều thông tin về khoa học công nghệ, xã hội, kinh tế,… có trong bản Báo cáo Ủy ban bởi chúng có dính dáng đến câu chuyện của các nhân vật góp mặt trong những trang giấy này. Cuốn sách này là của họ chứ không phải tôi, và tôi đã hết sức cố gắng xóa bỏ sự hiện diện của mình. Những câu hỏi được đưa vào trong sách chỉ nhằm mục đích thay thế cho những câu độc giả có thể sẽ hỏi. Tôi đã gắng hết sức lược đi tất cả các phán xét hay bình phẩm của bản thân, và nếu có bất kì một nhân tố con người nào cần phải loại bỏ, hãy để nhân tố ấy là của tôi. Tác phẩm  Đại Chiến Thế Giới Z này đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên của đạo diễn Marc Forster do Brad Pitt thủ vai Video trailer  Đại Chiến Thế Giới Z : Mời các bạn đón đọc Đại Chiến Thế Giới Z của tác giả Max Brooks.
Kiêu Sủng - Đinh Mặc
Tên ebook: Kiêu Sủng Tác giả: Đinh Mặc Thể loại: Ngôn tình, Hiện đại, Giả tưởng, Văn học phương Đông Chuyển ngữ: Loyal Pang, Chjcbjbj Beta: Myumyu,Tiểu Đông Tà, Huyền Trang Làm ebook: Phương ♥ Heo + Myu Myu Nguồn: thanhthoigian.wordpress.com   Giới thiệu: Trong ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn đường, người đàn ông quay mặt lại, còn lạnh lùng kiên nghị hơn cả bóng đêm.  “Trước giờ tôi không giúp người khác.” Người đàn ông nhìn bàn tay cô níu trên quần dài của mình, bẩn thỉu loang lổ.  Vài chiến binh tiến lên, chuẩn bị kéo cô đi. Cô đã không còn sức lực để giãy dụa, mềm rũ người trong cánh tay bọn họ.  Vào lúc này, anh ta lại cất giọng lạnh tanh : ” Tôi chỉ thích trao đổi lợi ích, cô sẽ dùng cái gì, để đổi mạng của cô đây?” Tác giả:  Đinh Mặc - Quê ở Vũ Hán, Hồ Bắc, hiện đang sống ở Bắc Kinh. - Một trong những tác giả được yêu thích nhất trên mạng Tấn Giang với thể loại truyện rất đa dạng: cổ trang, viễn tưởng, tội phạm, thương trường... “Độc quyền chiếm hữu” là tác phẩm mới nhất của cô, đánh dấu sự trở lại với thể loại viễn tưởng, thể loại giúp Đinh Mặc trở thành tác giả được yêu thích hàng đầu trên trang Tấn Giang. Các tác phẩm của Đinh Mặc đã được dịch: - Anh Hùng Thời Loạn - Độc Quyền Chiếm Hữu - Hãy nhắm mắt khi anh đến. - Kiêu sủng - Dục vọng của người chinh phục - Nếu Ốc sên có tình yêu Mời các bạn đón đọc  Kiêu sủng  của tác giả Đinh Mặc.