Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ống Nhòm Hổ Phách (Vật Chất Tối của Ngài #3)

Ống nhòm hổ phách là phần thứ ba và cũng là phần cuối của bộ truyện VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI, một câu chuyện ba tập khởi đầu ở Bắc Cực Quang rồi nối tiếp bằng Con dao kì ảo. Tập cuối di chuyển giữa vài vũ trụ khác nhau. *** “Ví như giấc mơ tuyệt vời nhất, luôn đầy thuyết phục và cũng rất phức tạp, ngập tràn những ngạc nhiên, lo sợ và thích thú. Sức sáng tạo của Pullman dành cho nhân vật, cốt truyện và logic khiến người ta phải ghen tị với chất xám của ông.” - Telegraph “Những mạch truyện viễn tưởng, kinh dị và sự điên rồ khủng khiếp hoà lẫn với tài năng hiếm có đầy mê hoặc.” - The Times “Pullman là bậc thầy trong việc kết hợp tạo hình nhân vật hoàn hảo và xây dựng cốt truyện mạch lạc, duy trì một nhịp độ nhanh khi tạo các cảnh chồng nối lên nhau với áp lực khó cưỡng. Viên ngọc lấp lánh này sẽ khiến độc giả thuộc mọi lứa tuổi phải ngóng đợi hồi tiếp theo về những cuộc phiêu lưu của Lyra.” - Publishers Weekly “Một câu chuyện viễn tưởng đầy kinh ngạc, một bộ trinh thám nảy lửa và một sự phản ánh đáng suy ngẫm về tình trạng của loài người. Đây là một cuốn sách có thể được thưởng thức ở nhiều cấp độ.” - Guardian *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (His Dark Materials), cũng giống như Chúa tể của những chiếc nhẫn - tải eBook, Biên niên sử Narnia - tải eBook và Harry Potter - tải eBook, là một trong những bộ truyện giả tưởng Anh ngữ dành cho trẻ em đã được đánh giá cao của thời đại. Hai tập sau của truyện lần lượt là Kỳ Ảo Đao hay Thanh Gươm Huyền Bí (The Subtle Knife) và Hổ Phách Kính (The Amber Spyglass). Ánh Sáng Phương Bắc đã được hãng phim Hollywood New Line Cinema chuyển thể thành phim "The Golden Compass", đã khởi chiếu vào ngày 5 tháng 12 năm 2007 tại Anh (7 tháng 12 tại Mỹ và 26 tháng 12 tại Úc). Phim là sản phẩm có kinh phí cao nhất của hãng này kể từ phim Chúa tể của những chiếc nhẫn. Ánh Sáng Phương Bắc miêu tả một vũ trụ giả tưởng, nơi mà có phù thủy bay, chiến binh gấu Bắc cực, linh hồn của con người trong dạng thú và một chế độ tăng lữ độc tài. Nhân vật chính của truyện là một bé gái mồ côi 11 tuổi tên Lyra Belacqua. Cô bé được nuôi nấng bởi một khoa học gia, Ngài Asriel. Ngài Asriel bị giáo hội bỏ tù vì nghiên cứu Bụi, một vật chất tối được cho là ẩn chứa đầy tội lỗi. Người bạn thân của Lyra là Roger bị bắt cóc bởi tổ chức Những Kẻ Nuốt Chửng (The Gobblers) và cô bé quyết định lên đường giải cứu bạn mình. Một người phụ nữ quyền lực tên Marisa Coulter đã đề nghị giúp Lyra. Trước khi đi, hiệu trưởng trường Jordan tặng cho cô bé Chân La Bàn (Alethiometer), một dụng cụ thần kỳ chỉ đến sự thật. Tuy nhiên, khi Lyra phát hiện ra bà Coulter là người xấu, cô bé chạy trốn, thoát khỏi sự truy đuổi và được một nhóm người Gypsy cưu mang. Họ tiết lộ Ngài Asriel và bà Coulter chính là cha mẹ ruột của cô bé. Lyra cùng họ vượt biển tiến về Bắc Cực, theo chỉ dẫn của Chân La Bàn. Trên đường, họ bị tấn công và Lyra bị bắt về Bolvangar, nơi giam giữ những đứa trẻ bị bắt cóc. Lyra dùng chiếc Chân La Bàn và trí thông minh của mình vượt ngục cùng những đứa trẻ khác. Chúng được phi hành gia Lee Scoresby, nữ hoàng ma thuật Serafina Pekkala và chiến binh gấu Iorek Byrnison cứu thoát. Sau đó, Lyra đi cứu Lord Asriel. Ông vừa thành công trong việc khám phá ra nguyên lý của Bụi và cầu nối với một vũ trụ song song. Truyện kết thúc khi linh thú của Roger bị té xuống vực, làm cậu bé chết theo. Lyra và Lord Asriel bước qua thế giới mới. *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (Philip Pullman) là series Fantasy kinh điển và đồ sộ đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có Huân chương Carnegie!! Tác phẩm kể về chuyến phiêu lưu giữa các thế giới song song của Lyra Belacqua và Will Parry – hai đứa trẻ tầm thường có số phận trói buộc với nhau bởi những thế lực vượt xa thế giới của chính mình. Chúng sẽ gặp các phù thuỷ và gấu mặc giáp, thiên thần sa ngã cùng loài quỷ ăn linh hồn. Và cuối cùng, số phận của tất cả những người đang sống - và những người đã chết - sẽ phụ thuộc vào chúng... *** Khi lũ thú săn mồi, Từ hang tối sâu thẳm, Nhìn cô hầu say giấc. William Blake Trong một thung lũng rợp bóng đỗ quyên, sát với đường băng vĩnh cửu, nơi dòng sông mang màu trắng đục do nước từ băng tan tung bọt và nơi bồ câu cùng khổng tước bay giữa những rặng thông bạt ngàn, lấp ló một hang động bị che khuất gần hết bởi vách núi cheo leo phía trên và đám lá cứng đờ nặng nề túm tụm bên dưới. Khu rừng tràn ngập âm thanh: dòng nước chảy giữa các khe đá, gió luồn qua đám lá kim trên những cành thông, côn trùng rả rích, thú có vú nhỏ sống trên cây gọi bạn, và chim chóc líu lo. Cứ chốc chốc, một đợt gió mạnh sẽ khiến các cành tuyết tùng hay linh sam cọ vào nhau rồi rền rĩ kêu như tiếng đàn cello. Đó là một nơi ánh nắng chan hòa , không bao giờ ngừng lung linh; những tia sáng màu vàng chanh chói lọi đâm xuyên xuống nền rừng giữa những vệt và mảng râm màu xanh nâu; ánh sáng đó cũng không bao giờ chịu đứng yên, không bao giờ ổn định, do sương mù trôi dạt thường xuyên lơ lửng giữa những ngọn cây, lọc toàn bộ ánh nắng thành bảy sắc cầu vồng long lanh như ngọc trai và quét lên mọi quả thông một lớp nước ẩm khiến chúng lấp lánh khi sương tan. Đôi khi, không khí ẩm trong những đám mây cô đọng lại thành các hạt bé tin hin nửa sương mù nửa mưa, chúng lơ lửng hạ xuống chứ không phải rơi, tạo ra tiếng lộp độp rất khẽ giữa hàng triệu chiếc lá nhọn. Bên cạnh dòng sông có một lối đi nhỏ dẫn từ một ngôi làng - chỉ đông hơn một tổ hợp nhà ở của những người chăn gia súc chút ít - dưới chân thung lũng, đến một ngôi đền hầu như đã hoang tàn gần phía đầu của dòng nước, một nơi có những ngọn cờ lụa bạc phếch tung bay trong luồng gió không ngừng thổi tới từ rặng núi cao, nơi bánh lúa mạch và trà khô được các dân làng ngoan đạo cúng tế. Một hiệu ứng kì lạ của ánh sáng, băng giá và hơi nước bao lấy đỉnh thung lũng bằng những dải cầu vồng không bao giờ tan. Hang động nằm phía trên lối đi một chút. Nhiều năm trước, một người sùng đạo đã sống ở đó, thiền định, nhịn ăn và cầu nguyện. Người ta tỏ lòng tôn kính với nơi này vì kí ức gắn với ông. Nó sâu khoảng mười mét, sàn khô: Hang ổ lí tưởng cho một con gấu hoặc một con sói, tuy vậy những sinh vật duy nhất sống trong đó nhiều năm trời lại là chim chóc và dơi. Nhưng hình hài đang co quắp bên trong lối vào, đôi mắt đen láo liên quan sát mọi hướng, đôi tai thính nhạy vểnh lên, lại chẳng phải là chim hay dơi. Ánh nắng phả mạnh xuống bộ lông vàng óng ả của nó, đôi tay khỉ xoay một quả thông hết hướng này lại sang hướng kia, bẻ gãy từng nhánh bằng những ngón tay thoăn thoắt rồi cào lấy quả hạch ngọt lịm bên trong. Đằng sau nó, ngay bên trong vạch nắng chiếu tới, Phu nhân Coulter đang đun nước trong một cái xoong nhỏ trên bếp dầu. Khi con linh thú khẽ rên lên cảnh báo, bà liền ngước nhìn. Bước theo lối mòn trong rừng là một cô gái nhỏ trong làng. Phu nhân Coulter biết cô là ai: Đã vài ngày rồi Ama luôn mang đồ ăn tới cho bà. Lúc mới đến, Phu nhân Coulter đã loan tin rộng rãi rằng bà là một người sùng đạo đang thực hiện thiền định và cầu nguyện, kèm theo lời thề không bao giờ nói chuyện với đàn ông. Ama là người duy nhất bà cho phép ghé qua. Tuy nhiên lần này cô bé không đi một mình. Cha cô đi cùng, đứng đợi cách đó không xa, trong lúc Ama trèo lên hang động. Ama tới cửa động rồi cúi chào. “Cha cử con đến cùng với lời cầu nguyện cho thiện chí của bà,” cô bé lên tiếng. “Chào cháu gái,” Phu nhân Coulter nói. Cô bé đặt cái bọc quấn trong vải cotton đã bạc màu mình đang ôm xuống chân của Phu nhân Coulter. Sau đó cô chìa ra một bó hoa nhỏ, khoảng một tá cỏ chân ngỗng được buộc lại bằng một dải cotton, rồi bắt đầu nói bằng giọng liến thoắng đầy căng thẳng. Phu nhân Coulter hiểu được chút ít thứ ngôn ngữ của những cư dân vùng núi này, nhưng không bao giờ để cho họ biết chút ít đó là ngần nào. Vì vậy bà mỉm cười ra hiệu cho cô mím môi lại, rồi quan sát linh thú của hai người. Con khỉ vàng đang chìa ra bàn tay đen đúa nhỏ xíu của mình, con linh thú bươm bướm của Ama liền rập rờn bay lại gần, gần nữa cho đến khi nó đậu lên ngón tay trỏ chai sạn. Con khỉ từ tốn nâng nó lên tai mình, Phu nhân Coulter lập tức cảm thấy một luồng thấu hiểu nhỏ xíu tuôn vào tâm trí mình, khiến cho những lời của cô bé trở nên rõ ràng. Dân làng lấy làm mừng khi một nữ sĩ sùng đạo như bà tìm chỗ ẩn trú trong hang động, nhưng người ta đồn thổi rằng bà có người đi cùng, một người về mặt nào đó rất nguy hiểm và hùng mạnh. Đó là điều khiến dân làng e sợ. Nhân vật còn lại này liệu là chủ nhân của Phu nhân Coulter, hay là bầy tôi của bà ta? Liệu bà ta có ác ý gì không? Bà ta đến đây với mục đích gì? Họ có định ở lâu không? Ama truyền tải những câu hỏi này cùng với vô vàn mối lo ngại. Một câu trả lời khác lạ nảy ra trong đầu Phu nhân Coulter khi sự thấu hiểu của con linh thú thấm vào bà. Bà có thể nói sự thật. Không phải tất cả, hẳn nhiên rồi, mà là một vài điều. Bà cảm thấy người khẽ run lên khoái trá trước ý tưởng đó, nhưng lại không để lộ ra trong giọng nói khi giải thích: “Phải, có một người đang ở cùng với ta. Nhưng không có gì phải sợ cả. Đó là con gái ta, nó đang chịu một lời nguyền khiến nó say ngủ. Chúng ta phải đến đây để trốn kẻ đã bỏ bùa con bé, trong lúc ta cố gắng chữa trị cho nó và bảo vệ nó khỏi nguy hiểm. Đến nhìn nó đi, nếu cháu muốn.” Ama đã dịu đi phần nào nhờ giọng nói nhẹ nhàng của Phu nhân Coulter, nhưng vẫn còn lo sợ một phần; nhắc đến kẻ bỏ bùa và lời nguyền lại càng khiến cô kinh hãi hơn. Nhưng con khỉ vàng lại đang ôm linh thú của cô hết mực dịu dàng, bên cạnh đó, bản thân cô cũng tò mò, vậy là cô theo chân Phu nhân Coulter vào trong động. Cha cô bé ở con đường bên dưới bước tới trước một bước, con linh thú quạ của ông vung cánh lên vài lần, nhưng ông vẫn giữ nguyên vị trí. Phu nhân Coulter thắp một ngọn nến vì ánh sáng đang yếu đi nhanh chóng, rồi dẫn Ama vào phía sau hang động. Đôi mắt của cô gái nhỏ long lanh trong bóng tối, hai bàn tay cô cùng cử động theo động tác lặp đi lặp lại của một ngón tay trên ngón cái, rồi lại một ngón tay trên ngón cái, để xua đi hiểm nguy hay khiến các linh hồn xấu xa bị rối loạn. “Cháu thấy không?” Phu nhân Coulter nói. “Con bé không làm hại được ai đâu. Không có gì phải sợ hãi cả.” Mời các bạn đón đọc Ống Nhòm Hổ Phách (Vật Chất Tối của Ngài #3) của tác giả Philip Pullman & Trang Rose (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tam Quốc Hài Hước: Giá Của Bít Tất Thối - Chu Nhuệ
Tam Quốc hài hước là một bộ sách gồm nhiều cuốn sách nhỏ khác nhau của tác giả Chu Nhuệ. Mới nghe qua, “Tam Quốc” và “hài hước” là hai khái niệm dường như chẳng có mối liên hệ gì với nhau. Tuy nhiên, Chu Nhuệ đã dùng ngòi bút hài hước và sinh động của mình để viết lại câu chuyện Tam Quốc nổi tiếng theo một cách mới mẻ, hài hước và vô cùng kỳ thú. Vẫn là những cái tên quen thuộc trong Tam quốc như Gia Cát Lượng, Chu Du, Tào Tháo, Trương Phi, Lỗ Túc, Tào Phi, Tào Hùng, Tào Thực, Tào Chương… nhưng Chu Nhuệ còn “sáng tạo” thêm những nhân vật mới vô cùng đặc sắc như: Vu Cát (pháp sư nước Ngô, vô cùng đẹp trai và có nhiều fan), Vũ Trụ Phong (fan ruột của Vu Cát, tìm mọi cách để truy đuổi tung tích của chàng), Hoa Loa (pháp sư chỉnh hình, em trai của Thần y Hoa Đà, vai vác túi thuốc đi khắp đó đây)…  Không chỉ vậy, Chu Nhuệ còn khéo léo lồng ghép, đan xen bối cảnh của xã hội hiện đại vào các câu chuyện của mình khiến độc giả không khỏi cười ngả nghiêng trước các tình tiết thú vị này. Ngoài ra, sự xuất hiện của các pháp sư (Vu Cát, Hoa Loa, Tả Tước Ban, Đinh Nghị, Tả Từ…) với các phép thuật vừa ảo diệu vừa thực tế (thuật hoán mộng kí, thuật chỉnh hình, thuật điều khiển đồng thời, độc tâm thuật, thuật “Thất Á”, thuật ghép thân…) giúp độc giả đi hết từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Đằng sau mỗi câu chuyện trong Tam Quốc hài hước không chỉ là những tiếng cười sảng khoái mà chắc chắn cuốn sách sẽ khiến độc giả còn đọng lại những suy nghĩ sâu sắc về về danh vọng, tiền tài, hạnh phúc gia đình… và cuộc sống muôn màu muôn vẻ này. *** CÁC NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN Quân sư nước Thục. Quá hoàn mỹ, quá tài năng, luôn sẵn sàng đối phó với những thủ đoạn đố kị của Chu Du, kẻ có lòng dạ hẹp hòi. Vốn là một nguyên soái rất thông minh, nhưng tính đố kị quá lớn, nên luôn luôn thất bại dưới tay Gia Cát Lượng. Có bốn người con trai. Ông ta đã truyền cái gen diễn thuyết cho Tào Phi, sở thích võ nghệ cho Tào Chương và khả năng chữ nghĩa cho Tào Thực. Một người tốt và vô cùng dễ thương, hễ nói dối là mặt lại đỏ ửng lên. Thường xuyên ở bên cạnh Gia Cát Lượng. Sự vũ dũng, cộc lốc, thô lỗ của anh ta cùng với sự mưu trí, thâm trầm và nho nhã của Gia Cát Lượng đã tạo nên những câu chuyện bi hài cười ra nước mắt. Pháp sư nước Ngô, một anh chàng bảnh trai. Để thoát khỏi sự phiền nhiễu của fan hâm mộ, anh này đã chế tạo một thiết bị chống tìm kiếm rất tinh vi. Pháp sư nước Ngụy, không theo đuổi sự hưởng thụ vật chất, nhưng rất chú ý đến đời sống tinh thần, anh này ngụ tại một căn hầm dưới lòng đất chất đầy bắp cải. Pháp sư chỉnh hình, em trai của Thần y Hoa Đà. Vai vác túi thuốc, đi khắp đó đây. Fan ruột của Vu Cát. Dường như tất cả mọi phép thuật của cô ta đều nhằm truy tìm tung tích của Vu Cát, mê hoặc Vu Cát. Tiểu Pháp sư. Cha Tả Từ và mẹ Hữu Lão Sư cũng đều là pháp sư. Là một cô bé mà người khác luôn sẵn sàng ra tay giúp đỡ. Chưa cần nhìn mà chỉ cần nghe giọng nói của cô bé thôi là đã muốn giúp rồi. Là một công chúa bạch mã có dung nhan thường thường bậc trung, bạn thân của Tư Mã Kiều Nhu. Dù cô bé rất muốn có cơ hội để ra tay bảo vệ chàng nam sinh dũng mãnh Tào Chương, nhưng Tào Chương không muốn cho cô bé cơ hội. Đô đốc phu nhân, người được tất cả mọi người công nhận là mỹ nữ. Tuy nhiên trong nhà, cô không có nhiều sự khác biệt so với những người vợ khác của Chu Du. Pháp sư kiêm nghệ thuật gia. Ngoài nghệ thuật ra, chẳng biết gì khác, còn ngây thơ hơn một đứa trẻ. Con trai trưởng của Tào Tháo, một nhà diễn thuyết, không từ mọi thủ đoạn để đạt được mục đích trở thành người thừa kế của cha mình. Con trai thứ hai của Tào Tháo, người có sở thích võ nghệ. Đối với cậu ta, dùng võ nghệ để bảo vệ người khác vui và hạnh phúc hơn nhiều so với việc đánh thắng đối phương. Con trai thứ ba của Tào Tháo, một thi nhân thứ thiệt. Tài thơ văn của anh chàng đã làm bao cô gái si mê, và cũng chính vì có nhiều cô gái theo đuổi nên chàng ta mới viết được nhiều bài thơ lãng mạn đến vậy. Con trai thứ tư của Tào Tháo, người bình thường nhất, yếu thế nhất trong bốn anh em, nhưng anh này lại rất tự tin, không hề tỏ ra hèn kém hơn các anh mình. Pháp sư kiêm người phát ngôn Bản tin pháp thuật, phụ trách sưu tầm và truyền bá mọi thông tin lớn nhỏ về pháp thuật, do vậy thường xuyên xảy ra xung đột với người trong cuộc. Vợ của Tả Từ, cũng là người phụ nữ có tiếng tăm trong giới pháp sư. *** Gia Cát Lượng đang đọc tài liệu, bỗng dưng “hắt hắt hắtttt … xì ơi!” Trương Phi tận tình hỏi thăm: “Tiên sinh bị cảm cúm à?” Gia Cát Lượng lắc đầu giải thích: “Nếu ta bị cảm cúm thì sẽ ‘hắt xì’ rất dứt khoát chứ không phải ‘hắt hắt hắtttt … xì ơi’ như thế.” Trương Phi: “Vậy tại sao tiên sinh lại ‘hắt hắt hắtttt … xì ơi’ như thế?” Gia Cát Lượng không trả lời, ánh mắt tối sầm xuống, hai mắt từ từ khép lại, đầu đập một cái ruỳnh xuống bàn. Trương Phi hốt hoảng lay gọi nhưng Gia Cát Lượng vẫn bất tỉnh nhân sự. Trương Phi định chạy đi tìm bác sĩ nhưng vừa bước qua khỏi cửa liền nghe thấy tiếng ngáy như sấm ở trong phòng. “Hóa ra tiên sinh ngủ”, Trương Phi thở phào nhẹ nhõm. Trương Phi lặng lẽ đứng chờ. Một lúc sau, Gia Cát Lượng từ từ tỉnh dậy. Trương Phi: “Tiên sinh ngủ đột ngột quá làm em giật mình!” Gia Cát Lượng đáp: “Không phải là ta ngủ, ta đang nhận ‘tín hiệu’ từ một người bạn.” “Nhận tín hiệu?” “Đương nhiên phải là một pháp sư mới có thể truyền tín hiệu kiểu này. Khi hắn đọc nhẩm mật mã của ta thì ta sẽ có phản ứng ngay lập tức.” “Phản ứng như thế nào?” “Chính là ‘hắt hắt hắtttt … xì ơi’.” “À, ra là thế”, Trương Phi chợt hiểu ra. “Sau đó ta sẽ chìm vào cõi mộng và đến gặp hắn.” “Tiên sinh gặp vị pháp sư nào vậy?” “Tên hắn là Quản Lộ.” Quản Lộ, người nước Ngụy, quen Gia Cát Lượng tại phòng tập pháp thuật. ... Mời các bạn đón đọc Tam Quốc Hài Hước: Giá Của Bít Tất Thối của tác giả Chu Nhuệ.
Chín Mươi Ba - Victor Hugo
"Chín mươi ba" lấy bối cảnh một cuộc chiến khốc liệt, tàn bạo song vẫn toát lên vẻ đẹp của sự lương thiện, lòng nhân ái.  Tác phẩm cuối cùng của Victor Hugo vừa được phát hành tại Việt Nam qua bản dịch của nhà văn Châu Diên. Đây không phải là lần đầu tiên Chín mươi ba đến với độc giả Việt. Tiểu thuyết lịch sử này từng được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 1983 qua bản dịch của Châu Diên, Lê Hiểu, Trần Huy Đông. Chuyện xảy ra vào năm 1793, năm cao trào của cuộc Cách mạng tư sản Pháp. Sau khi vua Louis XVI bị chính quyền cộng hòa chém đầu, châu Âu đã liên minh lại để chống nền cộng hòa non trẻ bằng cách gửi quân đội tới Pháp. Một nhóm bảo hoàng liên minh dưới sự chỉ huy của hầu tước sắt đá Lantenac đã vào bờ biển Pháp và bắt đầu tạo các hoạt động phản cách mạng uy hiếp nền cộng hòa. Từ Paris, chính quyền cộng hòa cử Cimourdain, một nhà cách mạng vốn từng là linh mục tới bắt Lantenac. Trong lúc này, ở Brittany, quân cộng hòa dưới sự chỉ huy của Gauvain, một người cách mạng trẻ đầy nhiệt huyết, vừa là cháu của Lantenac, vừa là học trò và gần như là con nuôi của Cimourdain đã dồn được Lantenac vào lâu đài. Lantenac mở đường máu thoát khỏi đây, nhưng vì tiếng khóc của một người mẹ, ông quay lại lâu đài cứu ba đứa trẻ. Vì thế Lantenac chạm mặt quân cách mạng. Cảm kích trước hành động của Lantenac, Gauvain tới thăm ông trong tù và thả ông đi. Cimourdain dù rất đau lòng với việc làm của người học trò yêu của mình, vẫn phải kết tội phản quốc, và thi hành án tử hình dành cho Gauvain.  Khi Cimourdain ra lệnh cho đao phủ chặt đầu Gauvain cũng là lúc người ta nghe thấy một tiếng nổ. Thì ra, Cimourdain vừa rút súng, bắn viên đạn xuyên trái tim mình đúng lúc đầu Gauvain rơi xuống. Cuốn tiểu thuyết khép lại với hình ảnh bi thảm: "Và đôi linh hồn đồng điệu đau thương ấy cùng cất cánh bay, bóng đen của linh hồn này hòa trong ánh sáng của linh hồn kia".  Là người lựa chọn cuốn sách đưa vào tủ sách Cánh cửa mở rộng, nhà văn Phan Việt nhận xét về tiểu thuyết: "Bình luận về ý nghĩa của Chín mươi ba và ca ngợi nhà văn Victor Hugo là thừa. Từ góc độ thưởng thức tác phẩm, cuốn sách này - cũng như mọi cuốn sách của Hugo - là một đại tiệc ngồn ngộn kiến thức và cảm xúc". Phan Việt cho biết chị đã đọc Chín mươi ba từ năm 14 tuổi, và cuốn tiểu thuyết đã lay động Phan Việt bởi nó chứa đựng niềm tin sâu sắc vào sự chiến thắng của tình người, của độ lượng và khoan dung trước bạo lực, hắc ám. Theo Phan Việt, Những người khốn khổ là tác phẩm lớn nhất, nổi tiếng nhất của Victor Hugo, nhưng Chín mươi ba thể hiện đầy đủ hơn con người đại văn hào. Là một nhà chính trị, nhà triết học, nhà cách mạng, nhưng trước hết, Hugo là một nhà văn, bản chất của ông là một người hiền, muốn thay đổi xã hội bằng con đường nhân văn. Chín mươi ba có tầm vóc của một tiểu thuyết lịch sử hùng tráng, nhưng thực ra lại là một tiểu thuyết lãng mạn đậm chất Victor Hugo, nơi tính nhân văn vẫn là trọng tâm, là thông điệp ông tha thiết muốn gửi gắm tới nhân loại. Khi Gauvain, chỉ còn sống được vài khắc, anh đã vẽ lên một bức tranh tươi đẹp của tương lai. Lời của Gauvain cũng là điều mà tác phẩm hướng đến: "Xã hội tức là thiên nhiên vĩ đại hơn. Tôi muốn những cái còn thiếu ở tổ ong, tổ kiến; tôi muốn đền đài, nghệ thuật, thơ ca, anh hùng, thiên tài. Mang gánh nặng đời đời không phải là quy luật của kiếp người. Không, không, không, tôi muốn không còn cùng khổ, không còn nô lệ, không còn khổ sai, không còn đày đọa! Tôi muốn rằng mỗi một đặc trưng của con người là một tượng trưng của văn minh, một mẫu mực của tiến bộ; tôi muốn tư tưởng tự do, tình cảm bình đẳng, tâm hồn bác ái. Không còn gông cùm! Con người sinh ra không phải để kéo lê xiềng xích mà để mở rộng đôi cánh...". *** CÁNH CỬA MỞ RỘNG   Tủ sách hợp tác giữa nhà toán học Ngô Bảo Châu, nhà văn Phan Việt với Nhà xuất bản Trẻ   Tủ sách CÁNH CỬA MỞ RỘNG được thực hiện nhằm mục đích giới thiệu những đầu sách có giá trị của thế giới và trong nước đến bạn đọc Việt Nam, đặc biệt là bạn đọc trẻ, góp phần thúc đẩy việc đọc sách, tinh thần hiếu học, coi trọng tri thức và những giá trị sống. Các tựa sách trong tủ do nhà toán học Ngô Bảo Châu và nhà văn Phan Việt tuyển chọn và giới thiệu. Tủ sách được phân thành ba mảng: văn học, khoa học xã hội – kinh tế, và khoa học tự nhiên; trước mắt cấu tạo tủ sách gồm 80% các sách có khả năng tiếp cận đông đảo bạn đọc và 20% cho các sách chuyên ngành. *** Victor Hugo là niềm tự hào của nhân dân Pháp và của toàn thế giới. Victor Hugo tên đầy đủ là Victor Hugo, sinh ngày 26 tháng 02 năm 1802 ở Bơzăngxông, mất ngầy 22 tháng 05 năm 1885. Vốn là con của một người thợ mộc, nhưng ông Joseph đã phục vụ quân đội Pháp trong thời kỳ Cách Mạng và lên tới cấp bậc thiếu tá, rồi về sau do lòng dũng cảm và công trạng chiến trường, trở thành một vị tướng trong đội quân của Napoléon. Mẹ ông sinh trưởng trong một gia đình quân chủ và ngoa đạo. Do hoàn cảnh gia đình mà Hugo chịu ảnh hưởng tư tưởng khá sâu nặng từ mẹ, tác động rất lớn sự hình thành các quan điểm của ông thời trẻ.  Cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông bao chùm thế kỷ XIX ở Pháp. Ông ra đời khi thế kỷ đó mới chớm nở được già một năm trên đống gạch vụn hoang tàn của chế độ phong kiến vừa sụp đổ chưa được bao lâu. Ông mất vào khoảng giai đoạn cuối thế kỷ, lúc phong trào cộng sản thế giới đang chuyển qua thời kỳ đấu tranh mới hết sức quyết liệt. Ông đã chứng kiến cơn bão táp của lịch sử và nó được phản ánh trong các tác phẩm của ông. Nếu như “Letônxtôi được coi là tấm gương phản chiếu cách mạng Nga”(V.I.Lênin) thì Victor Huygô cũng được coi là tầm gương phản chiếu của cách mạng Pháp. Victor Hugo là nhà văn, nhà thơ lớn của nước Pháp. Sự rộng lượng trong các tư tưởng của ông, sự ân cần trong cách diễn tả đã làm rung động tâm hồn người đọc bởi vì ông là nhà thơ của người bình dân, đã viết ra văn, làm ra thơ với đặc tính giản dị nhưng bao hàm bên trong sức mạnh, đề cập cả về niềm vui lẫn nỗi buồn của nhiều người. Khi được hỏi ai là nhà thơ lớn nhất của nước Pháp, Văn Hào André Gide đã trả lời: "Vẫn là Victor Hugo". Victor Hugo có thể bị chỉ trích về sự nông cạn của tâm hồn tác giả và sự tầm thường của các nhân vật trong chuyện, nhưng tầm vóc tài năng của ông về văn chương, bao gồm cả kịch nghệ và thơ phú, thật là bao la, không có ai sánh kịp trong lịch sử văn học kể từ thời Shakespeare và Goethe. Mặc dù không phải là nhà tư tưởng sâu sắc, Victor Hugo vẫn là nhà văn chân thành, hiến mình cho "Chân, Thiện, Mỹ" và ông là văn hào được dân chúng Pháp yêu chuộng nhất.  “Những người khốn khổ” là tác phẩm xuất sắc nhất của Victor Hugo. Nhà văn hoàn thành bộ tiểu thuyết ấy ở đảo GheTác-nơ-đây. Trong thời gian sống lưu vọng. Tuy nhiên tác phẩm này đã được ấp ủ từ lâu. Chính vì vậy mà: “Tác phẩm được đánh giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nền văn học thế giới thế kỷ XIX”. “Những người khốn khổ” ghi lại dấu mốc đáng kể trên con đường phát triển mạnh mẽ của loại tiểu thuyết xã hội Pháp. Đây được coi là tác phẩm chan chứa tình lãng mạng. Tác phẩm này là đỉnh cao nghệ thuật văn xuôi, tác phẩm đã kết tinh nhất thiên tài của văn chương thế giới. *** Được giới thiệu Victor Hugo với bạn đọc Việt Nam lần này - và lại bằng Chín Mươi Ba - mang lại cho tôi một cảm giác đặc biệt. Nó làm tôi nghĩ lại sự rúng động khi lần đầu đọc Hugo lúc khoảng mười bốn tuổi, và cũng là Chín Mươi Ba. Sau một thời gian nghiến ngấu tiểu thuyết cổ điển Anh và tiểu thuyết lễ giáo Tàu mà tôi tuy rất thích nhưng luôn có cảm giác thế giới của chúng có phần chật chội, thì Hugo giống như một tia chớp sáng lòa, làm hiện ra một chân trời phóng khoáng. Nhờ cái tia chớp ấy, đứa trẻ mười bốn tuổi là tôi bắt đầu lờ mờ hình dung về một xã hội “tự do, bình đẳng, bác ái” và một cuộc đời “tự do, bình đẳng, bác ái” dù lúc đó kiến thức lịch sử - xã hội của tôi hết sức hạn hẹp. Hình dung mơ hồ ấy trở thành động lực - dù lúc đầu chỉ là một thứ động lực dạng linh cảm - cho hầu hết những điều tôi làm, từ du học, viết sách, dịch sách, dạy học… Cho đến giờ, hình dung ấy chưa bao giờ tắt. Có thể nói, chính Hugo chứ không phải ai khác dạy tôi trở thành một người có lý tưởng (idealist) - không phải theo nghĩa chính trị của từ này mà theo nghĩa không từ bỏ việc theo đuổi một phiên bản cuộc sống đẹp nhất cho mình và cho mọi người, kể cả khi người khác cho là huyễn hoặc. Bây giờ, đã lớn hơn, tôi nhận ra đấy là điều quý giá nhất mà một con người có thể khơi gợi trong một người khác. Hugo khẳng định: bất hạnh lớn nhất của con người - của từng cá thể cũng như của một xã hội - là không tin vào hình dung kia và không phấn đấu biến nó thành hiện thực. Nhưng để nói tới sự rúng động ấy - mà tôi hy vọng bạn đọc, nhất là các bạn đọc trẻ có thể cũng sẽ cảm thấy qua cuốn sách này - thì cần phải tóm tắt một chút về Chín Mươi Ba. Ra đời năm 1874, Chín Mươi Ba là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Victor Hugo, đại diện xuất sắc nhất và vĩ đại nhất của văn học lãng mạn. Chín Mươi Ba kể một câu chuyện xảy ra vào năm 1793, năm cao trào và đẫm máu của Cách mạng tư sản Pháp, cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trong lịch sử loài người, với mục đích xóa bỏ chế độ vua chúa tập quyền để thiết lập một nền cộng hòa dân chủ. Sau khi vua Louis XVI bị chính quyền cộng hòa chém đầu, châu Âu già cỗi nhưng có chung quyền lợi trong sự tồn tại của chế độ quân chủ đã liên minh lại để chống nền cộng hòa non trẻ bằng cách gửi quân đội tới Pháp. Một nhóm bảo hoàng liên minh dưới sự chỉ huy của hầu tước sắt đá Lantenac đã vào bờ biển Pháp và bắt đầu tạo các hoạt động phản cách mạng uy hiếp nền cộng hòa. Từ Paris, chính quyền cộng hòa cử Cimourdain, một nhà cách mạng già vốn từng là linh mục tới bắt Lantenac. Trong lúc này, ở Brittany, quân cộng hòa dưới sự chỉ huy của Gauvain, một người cách mạng trẻ đầy nhiệt huyết, vừa là cháu của Lantenac lại vừa từng là học trò và gần như con nuôi của Cimourdain, đã dồn được Lantenac vào một lâu đài. Bị tấn công dữ dội, Lantenac mở đường máu thoát khỏi lâu đài, nhưng vì tiếng khóc của một người mẹ, ông ta quay lại lâu đài cứu ba đứa trẻ; do đó mà rơi vào tay quân cách mạng. Cảm kích trước hành động của Lantenac, Gauvain đã tới thăm ông ta trong tù rồi thả ông ta đi. Rất đau lòng nhưng Cimourdain phải kết tội Gauvain phản quốc, với bản án tử hình. Cuốn sách kết thúc ở cảnh Cimourdain ra lệnh đao phủ chặt đầu Gauvain để bảo vệ sự nghiêm minh của cách mạng và nền cộng hòa; nhưng vào giây phút đầu Gauvain rơi xuống thì “…người ta nghe thấy một tiếng nổ khác. Cimourdain vừa rút một trong hai khẩu súng vẫn đeo bên thắt lưng, và đúng vào lúc đầu Gauvain lăn vào hòm thì ông cũng tự bắn một viên đạn xuyên tim. Máu trào ra nơi miệng, ông ngã ra chết. Và đôi linh hồn đồng điệu đau thương ấy cùng cất cánh bay, bóng đen của linh hồn này hòa trong ánh sáng của linh hồn kia”. Hai mươi năm trước, đọc đến đây, tôi đã chảy nước mắt. Bây giờ cũng vậy. Bình luận về ý nghĩa tiểu thuyết Chín Mươi Ba và ca ngợi văn của Hugo là thừa. Từ góc độ thưởng thức tác phẩm, cuốn sách này - cũng như mọi cuốn sách của Hugo - là một đại tiệc ngồn ngộn kiến thức và cảm xúc. Nhưng tôi chỉ xin nói điều lớn nhất khiến Hugo đã và vẫn còn lay động tôi: đó là niềm tin sâu sắc vào sự chiến thắng của tình người, của độ lượng và khoan dung trước bạo lực, hắc ám. Đây không phải một niềm tin ngây thơ (hơn bất cứ ai, Hugo nói với ta: đừng sợ bị coi là ngây thơ, đừng dại dột đánh đổi nó lấy sự thực dụng của người đời). Đây là một niềm tin đã qua thử thách; nó đến từ sự thấu hiểu rằng: trong một thời điểm nhất định, con người có thể bị sợ hãi hay tham lam chi phối mà chà đạp lên tình người nhưng khi dùng thứ công lý trường tồn mà phán xét thì tình người luôn chiến thắng và là vũ khí mạnh nhất của con người. Hugo nói: nếu đã sống, đã viết, đã làm bất cứ điều gì, thì phải làm trong hình dung về cái trường tồn, dùng cái trường tồn kia làm động lực. Mặc dù Những Người Khốn Khổ là tác phẩm lớn nhất và nổi tiếng nhất của Hugo, với cá nhân tôi, Chín Mươi Ba thể hiện một Hugo hoàn chỉnh hơn. Là một nhà chính trị, nhà cách mạng, nhà triết học, nhưng trước hết và trên hết là một nhà văn, Hugo bản chất là một người hiền, muốn thay đổi xã hội bằng con đường nhân văn, thông qua giáo dục, nghệ thuật, tôn giáo, v.v. thay vì thông qua bạo lực, đổ máu. Ta thấy rất rõ điều này ở Những Người Khốn Khổ và các tác phẩm trước đó. Nhưng Chín Mươi Ba có sự quyết liệt mới. Ở cuốn sách này, Hugo khẳng định: đôi khi cần phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực cách mạng. Điều phải làm thì phải làm, mà cái chân - thiện - mỹ không suy giảm. Đây là những lời của Gauvain về một xã hội anh muốn thấy và cũng là của Hugo: “ Xã hội tức là thiên nhiên được vĩ đại hơn. Tôi muốn những cái còn thiếu ở tổ ong, tổ kiến; tôi muốn đền đài, nghệ thuật, thơ ca, anh hùng, thiên tài. Mang gánh nặng đời đời không phải là qui luật của kiếp người. Không, không, không, tôi muốn không còn cùng khổ, không còn nô lệ, không còn khổ sai, không còn đày đọa! Tôi muốn rằng mỗi một đặc trưng của con người là một tượng trưng của văn minh, một mẫu mực của tiến bộ; tôi muốn tư tưởng tự do, tình cảm bình đẳng, tâm hồn bác ái. Không còn gông cùm! Con người sinh ra không phải để kéo lê xiềng xích mà để mở rộng đôi cánh…” Tôi hy vọng bạn sẽ đọc Chín Mươi Ba, sẽ tin những điều trên, và sẽ bắt đầu đặt chân - nếu như bạn chưa đặt chân - lên con đường hiện thực hóa xã hội mà ở đó bạn và những người quanh bạn đều có “tư tưởng tự do, tình cảm bình đẳng, tâm hồn bác ái”. Trân trọng giới thiệu tiểu thuyết Chín Mươi Ba của Victor Hugo, qua bản dịch của dịch giả Châu Diên. Mời các bạn đón đọc Chín Mươi Ba của tác giả Victor Hugo.
Thắm Sắc Hoa Đào - Vương An Ức
Vương An Ức chọn cách miêu tả hình tượng người phụ nữ như biểu hiện tràn đầy sung mãn của đời sống bình thường, niềm hạnh phúc sâu xa của tồn tại cá nhân. Trở lại với cuốn tiểu thuyết mới - Thắm sắc hoa đào - sau thành công vang dội của Trường hận ca, Vương An Ức một lần nữa khẳng định bút lực vượt trội của mình so với các nhà văn Trung Quốc đương thời, bằng một ngôn ngữ kể chuyện hiện đại, đa chiều, và quan niệm nhân sinh phóng túng, xa rời những thứ luận lý sẵn có. Không còn bận tâm đến những thua thiệt, bất hạnh mà người phụ nữ trong một xã hội hậu Nho giáo phải gánh chịu, như các đồng nghiệp của mình: Tô Đồng, Dư Hoa, Giả Bình Ao…, Vương An Ức chọn cách miêu tả hình tượng người phụ nữ như biểu hiện tràn đầy sung mãn của đời sống bình thường, niềm hạnh phúc sâu xa của tồn tại cá nhân. Câu chuyện xoay quanh những biến cố đời sống của hai mẹ con: Minh Minh (vốn là một diễn viên hài kịch) - Úc Hiểu Thu và những người thân quen khác: Úc Tử Hàm, chồng cũ của Minh Minh; anh chị cùng mẹ khác cha của Hiểu Thu; Dân Vỹ, bạn học của Hiểu Thu, cũng là người yêu đầu đời; Dân Hoa, người chị gái đầy lòng đố kỵ và thành kiến của Dân Vỹ; anh rể của Hiểu Thu, người sau này sẽ mang lại những bất ngờ… Bằng cách đó, người phụ nữ trong Thắm sắc hoa đào vượt khỏi mọi thành kiến, đố kỵ, ngộ nhận của đám đông xung quanh, thỏa mãn cá tính độc lập và độc đáo của bản thân, cũng như mang lại điều tốt lành từ nội tâm mình tới cho đời sống. Cũng bằng cách như vậy, người phụ nữ-bình-thường nhưng mang đầy nét khác lạ mãnh liệt của cá nhân, đã bình thản vượt qua những oan khốc nặng nề, những gian lao và nguy biến tưởng chừng không thể vượt, của một thời đại lầm lạc, một dân tộc đau thương. Để chỉ còn lại những niềm vui bình dị, những cảm xúc từ nhiều phía, niềm kinh ngạc về một cuộc sống đời thường ẩn chứa xiết bao bất ngờ, khác biệt, không ai có thể dự đoán nổi, mà nhà văn đang mở ra trước mắt chúng ta. *** Vương An Ức sinh năm 1954 tại Nam Kinh, là con gái của nữ nhà văn nổi tiếng Như Chí Quyên. Bắt đầu sáng tác vào năm 1976, sự nghiệp cầm bút của bà rất đáng chú ý với nhiều giải thưởng uy tín: năm 1999, Trường hận ca được tạp chí Asian bình chọn là một trong 100 tiểu thuyết Trung Văn thế kỷ 20, tác giả giải thưởng văn học Mao Thuẫn lần thứ 5 năm 2000, nhà văn xuất sắc trong năm giải Truyền thông Văn học Hoa ngữ 2008. *** Về xuất thân của Minh Minh, trong cái ngõ này mỗi người nói một cách khác nhau. Mẹ của Minh Minh là diễn viên hài kịch - ai cũng nói như thế, nhưng không biết rằng, từ trước đấy rất lâu bà là diễn viên kịch hiện đại - năm mười ba tuổi theo một ông chú họ làm chân hát đế, sắm vai trẻ con trong một ban kịch diễn ở Đại Thế Giới. Minh Minh có khuôn mặt xinh xắn, cặp lông mày thanh tú, mắt rất đẹp, đuôi mắt dài hơi vểnh lên. Nhưng không phải là mắt xếch, mà như ta vẫn nói, mắt phượng, lúc cười cặp mắt cong xuống rồi lại uốn lên. Làn môi mỏng, môi trên hơi cong. Thời ấy, người đẹp Chu Tuyền mới xuất hiện, ai cũng gọi Minh Minh là Chu Tuyền. Vì giống người đẹp Chu Tuyền, lại biết hát, nhưng giọng không thanh, không sang như Chu Tuyền, mà hơi the thé, trong ban kịch ai cũng bảo nàng có cái họng “vòi nước”, đanh đá, không phù hợp với vẻ mặt. Điều đáng quý là, Minh Minh biết hát các điệu dân ca các miền, biết nói tiếng các vùng. Hát Thân Khúc, Than Hoàng, Trích Đốc, Nhiệt Hôn, Bình Đàn, Hoài Dương, giọng ông già trong Kinh kịch; biết nói tiếng Tô Châu, Vô Tích, Hàng Châu, Ninh Ba, Thiệu Hưng, Thượng Hải, Sơn Đông, Quảng Đông... Cái giọng the thé, lúc lên cao vút, lúc xuống thật thấp, mới nghe phải giật mình, nghe nhiều cảm thấy hay, không mệt. Hơn nữa khẩu hình đẹp, nhả chữ rõ, người xem rất thích. Năm mười lăm tuổi, nghe nói có một trường kịch chiêu sinh, cô rủ mấy bạn cùng lớp đi thi. Ở cái tuổi ấy, bất cứ lúc nào, đi đến đâu cũng đều chú ý cơ hội, không bằng lòng với hiện trạng. Như Minh Minh, cũng đã từng gặp may, tự giác quen với nghề son phấn, cần thử cứ thử một phen. Hồi ấy, đang phổ biến phong cách học sinh, cô cắt tóc ngắn, đuôi tóc uốn cuộn vào trong. Đeo cái kính gọng đen, mặc váy liền áo kiểu phương Tây, lụa xanh màu táo, tay bồng, thêu hoa, đi giày da đen mõm vuông, cài khoá ngang, giống như cô tiên Bồ Đào học sinh vẫn diễn trên sân khấu. Cổ tay quàng cái ví hạt cườm màu trắng, trong để khăn tay, phấn son, cây bút máy, một con dấu xương khắc tên, thêm một bao thuốc lá. Tất cả những thứ đó cũng không làm cô già đi, mà trông rất nhí nhảnh ngây thơ. Vốn người nhỏ nhắn, ngồi với đám học sinh mười hai, mười ba tuổi cùng dự thi trông cô cũng không lớn hơn mấy. Trong số các thầy giám khảo có một người mặc đồ Tây màu kem, giày da bóng loáng, nhưng tay cầm ống điếu thuốc lào rất quê, trông như cái tẩu hút thuốc phiện, rít thuốc kêu lọc xọc, đi dọc theo đám học sinh đang ngồi thành hàng ngang. Khi đến trước mặt cô, người này hỏi bằng cái giọng Tô Châu: cô tên cái chi? Cô trả lời cũng bằng tiếng Tô Châu: con chó con mèo cũng có tên, sao hỏi tên cái chi là mần răng? Vị giám khảo nhìn cô, nhìn một lúc rồi bỏ đi chỗ khác. Vì trường kịch thực chất là trường dạy Kinh kịch, chiêu sinh Kinh kịch, cho nên cô không đỗ, nhưng vị giám khảo hỏi “tên cái chi” làm quen với cô từ đấy. Không ngờ họ lại gặp nhau, lần ấy, hai người gặp nhau đúng với nghĩa ân nhân cứu mạng. Một dạo mọi người gọi cô là Chu Tuyền, sau lại gọi cô là Bạch Quang, rồi Điền Lệ Lệ. Cô bắt chước ai cũng giống, nhưng rốt cuộc chỉ là theo đuôi người ta, nhìn cho vui mắt. Trông cô rất non nớt, mười bảy mười tám tuổi vẫn có thể sắm vai trẻ con, nhưng đã có phần miễn cưỡng. Cô cũng muốn đổi nghề, tìm được sư phụ mới, tự đặt cho mình một cái tên, tên gọi Tiếu Minh Minh. “Tiếu” gần với âm “tiểu”, lại có ý nghĩa vui vẻ, còn là danh nghĩa chính truyền, vì trong đó có cả chữ tên của sư phụ. Cô ra khỏi đoàn kịch hiện đại đi diễn kịch độc diễn. Thời ấy kịch độc diễn đang thịnh hành, kịch hiện đại càng ngày càng mờ nhạt. Trong ban kịch độc diễn, cô vẫn là diễn viên mặc áo rồng, nhưng không được nổi như trước. Kịch độc diễn “cười” sang trọng, cô còn trẻ đẹp, trong thâm tâm không muốn đem mình ra làm trò cười, không thể hy sinh bản thân để “cười”. Tuy có tên, nhưng không nổi danh, tất nhiên cũng cảm thấy buồn. Còn may đang thời tuổi trẻ, có nhan sắc, lại thêm chút tiếng tăm trong quá khứ, nên cũng nổi trội trong con mắt người đời, có thể cân bằng được mất. Có một khán giả quen thuộc rất chung tình kể từ ngày Minh Minh vào nghề, tưởng chừng chờ cô lớn lên, chờ cho cô gặp điều không may, lúc ấy mới xuất hiện. Đương nhiên Minh Minh không nghĩ đấy là chuyện nghiêm túc, không phải vì không ưng anh ta, mà vì không thể dễ dãi quyết định chuyện lớn trong đời. Tương lai của nữ diễn viên vừa mờ mịt lại vừa có chút hy vọng, tóm lại chưa biết ra sao, không hiểu phía trước là những gì đang chờ đón. Tuy vậy, mỗi tối tan diễn đều có người gọi xe kéo chờ sẵn ở cửa sau nhà hát, mời đi ăn đêm, chủ nhật đưa đi mua vải may xường xám, trả hộ mấy khoản nợ nần, cùng đi xem phim, ăn kem, nghe cô nói xấu vai nữ chính, tóm lại toàn những chuyện có thể diện. Cho nên, hai người cũng tốt với nhau một độ. Trong mênh mông biển người, hiếm được người nhắm vào mình, trung thành với mình, khó mà nói không sinh lòng yêu thương. Nhưng nhiều lắm chỉ là ôm nhau, không làm điều gì quá. Thực ra, nữ diễn viên không phải ai cũng nhẹ dạ như mọi người vẫn tưởng, ngược lại, họ giữ mình như giữ ngọc. Ở chốn nam nữ lẫn lộn, lại quen với trăng gió yêu đương từ lời kịch, chuyện đó chẳng có gì là lạ, nhưng ai cũng hiểu số phận nằm ở chính bản thân, không thể sa sẩy, khinh suất, vậy nên rất mực gìn giữ. Vị khán giả được hưởng tài sản của ông cha - phàm tài sản ông cha đến đất Thượng Hải là cứ co dần, càng co càng ít đi, lớp con cháu hậu thế không có bản lĩnh chăm lo gia sản, lúc nào cũng túng tiền - rất tận tâm tận lực đánh đổi tấm lòng chân thành của một nữ minh tinh. Cả hai đều là người bình thường, đều phải tuân theo nhân tình thế thái, không có tham vọng gì lớn, cùng cảm thấy được như thế là tốt lắm rồi. Cho nên, đó là giai đoạn lãng mạn yên bình, cảm thông và chăm sóc cho nhau. Giai đoạn lãng mạn này kết thúc vào lúc Minh Minh đi Hồng Công. Công ty điện ảnh Vĩnh Hoa của Hồng Công đến Thượng Hải tuyển diễn viên, mấy chị em trong đoàn kịch cùng đi dự thi. Nơi tuyển sinh đặt tại một nhà xe ô tô trong con hẻm đường Trường Đua. Nhà xe một nửa thấp dưới mặt đường, một nửa ngang với mặt đường, cửa sổ có song sắt tựa như nắp đậy cống ngầm. Ngồi trong đấy nhìn qua cửa sổ chỉ thấy chân người đi lại làm ánh sáng loang loáng, mặt người bên trong loang lổ. Ba vị người Hồng Công, chen lẫn giữa đám trai tài gái sắc đang ngồi chật căn phòng, không nhìn rõ mặt. Người đông, cũng không kịp nói chuyện, chỉ trao một tấm ảnh, đi qua trước mặt người Hồng Công như lướt qua sân khấu rồi ra ngoài. Ra ngoài, đứng dưới nắng thu bốn giờ chiều, trên tường in bóng gầy guộc mờ nhạt, tưởng như trở về cõi nhân gian. Vòng hai ít người hơn, người đến đều nhận được giấy báo, nữ nhiều nam ít, ngồi thành vòng tròn trong nhà. Đạo diễn, một trong số mấy người Hồng Công, bảo mọi người chơi trò trẻ con, ném khăn tay. Hát xong một bài hát, khăn tay trong tay ai, người ấy phải đứng dậy trình bày một tiểu phẩm. Lúc bắt đầu, đôi bên còn thiếu tự nhiên, vào cuộc thì thoải mái hẳn. Có người giả tiếng mèo kêu, có người bắt chước chó nhảy, cũng có người làm trò ảo thuật, diễn tạp kỹ. Minh Minh nhận ra một nữ diễn viên của một công ty điện ảnh, từng sắm vài vai phụ. Còn một đôi trai gái là học sinh trường kịch công lập, đang lúc chiến tranh, nghe nói nhà trường sắp đóng cửa. Vào cái thời loạn lạc, thanh niên không biết đi đâu, làm gì, dù là sinh kế hay sự nghiệp thảy đều mờ mịt. Chiếc khăn đến tay Minh Minh, cô lập tức đứng dậy biểu diễn màn kịch vui nổi tiếng “Đánh mạt chược”, một người cùng lúc đóng bốn vai Thiệu Hưng, Ninh Ba, Giang Bắc, Tô Châu, vô cùng sinh động và vui nhộn. Hai trong số ba người Hồng Công kia vốn là người vùng Giang Tô-Triết Giang, cho nên nghe hiểu, còn một người tuy nghe không hiểu, nhưng trông cách diễn vui vẻ hoạt bát, rất hứng thú, nên cũng tâm phục khẩu phục. Thế là, Minh Minh may mắn trở thành một trong bốn nữ một nam thi được vào công ty điện ảnh Vĩnh Hoa, chỉ ít ngày sau thì lên đường đi Hồng Công. Thời ấy, Hồng Công trong con mắt người Thượng Hải là một vùng hoang vu, lạc hậu. Những người như Minh Minh, chỉ loanh quanh nơi bến tàu Thượng Hải, cho rằng ngoài Thượng Hải ra còn nữa đều là nông thôn, nghĩ Hồng Công vô cùng quê mùa. Cho nên, cô chuẩn bị hai va li to áo quần, vì phải chờ may xong mấy chiếc xường xám, đành đi chuyến tàu sau, trơ trọi một mình. Nhưng vì cô đi làm sớm, từng tiếp xúc với đủ người đủ việc, không còn lạ lẫm gì, nên cứ thản nhiên lên đường. Một cô gái trẻ xinh đẹp ra đường tự khắc có người ân cần giúp đỡ, cô lên khoang hạng ba, cơ hồ không phải đụng tay vào hai cái va li to. Có hai sinh viên đi Hồng Công để rồi tới Hawai học tập, một thương nhân, thậm chí cả một người Bồ Đào Nha da trắng thay phiên nhau ăn cơm, nói chuyện, ngắm mặt biển, xem phim trên tàu cùng cô. Một tuần trên đường không những không cô đơn mà còn rất vui. Có điều, càng đến gần Hồng Công không khí càng nóng ẩm, toàn thân nhớp nháp tưởng như trong nhà tắm, rất khó chịu. Lên bến, hai cái va li to cho vào cốp taxi, cô nhanh nhẹn ngồi vào ghế sau, vẫy tay chào tạm biệt những người bạn đường. Một người bạn đường đóng cửa xe, làm xong nghĩa vụ cuối cùng. Xe đi vào phố phường Hồng Công. Dù là thời chiến, Hồng Công về đêm vẫn rất đẹp. Đường phố lên xuống quanh co theo triền núi, nhà cửa lúc ẩn lúc hiện, đèn lúc sáng lúc tối, đẹp một cách kỳ ảo. Quen dần với ánh sáng và cảnh vật xung quanh, phố xá hai bên hiện rõ và cụ thể hơn, trông cũng rêu phong cũ kỹ, nhà gác làm nhô ra lối đi giống như đường Tứ Mã của Thượng Hải, phía dưới tối tăm, bốc mùi tanh tưởi của cá và các thứ khác. Theo ý khách, xe dừng lại trước một tòa chung cư. Minh Minh xuống xe, lấy hành lý, lúc này chỉ còn lại một mình. Cô không sợ, mỗi tay xách một va li, bước vào chung cư. Bất kỳ ai nếu trông thấy một cô gái đi giày cao gót, ăn mặc mốt như vậy, mà hai tay rất nhẹ nhàng xách đống hành lý nặng, ắt đều phải giật mình. Cô bước vào sảnh, một bác già ngăn lại. Bác già mặc áo đồng phục ngắn tay màu ghi nhạt, quần cộc, chân đi guốc mộc gõ lộc cộc trên nền gạch, hỏi cô tìm ai ở phòng nào. Minh Minh nghe hiểu một ít tiếng Quảng Đông, thậm chí ứng phó được đôi câu, bảo với bác già tìm công ty nào, ở phòng nào, tầng nào. Sau đấy thì nghe không hiểu nữa, phải đợi hỏi lại mấy lần, bác già còn giải thích thêm mấy lần nữa, đầu óc Minh Minh ù lên, không hiểu gì. Một tuần trên biển không say sóng, vậy mà lúc này không chịu nổi. Cô đặt va li xuống, ngồi lên đấy định thần lại. Bác già đi vào rồi quay ra, tay cầm hộp dầu Vạn Kim đưa cho Minh Minh. Cô gạt đi, chỉ xin ông một ly nước. Nước đưa ra, cô ngửa cổ uống cạn, rồi hỏi gần đây có khách sạn nào không. Bác già chỉ chỗ, cô đứng dậy, xách hành lý, gót giày nhọn gõ lên nền gạch, chỉ giây lát đã không thấy đâu. ... Mời các bạn đón đọc Thắm Sắc Hoa Đào của tác giả Vương An Ức.
Tên Của Khí Trời
Tôi đã đọc và dịch cuốn sách này trong “hoài niệm về cái lãng mạn và hồn nhiên”. Đó không hẳn là cái lãng mạn hồn nhiên mà con người từng có. Đúng hơn, đó là cái lãng mạn hồn nhiên mà con người luôn khao khát - dù có thể không tự nhận với chính mình - và có thể chưa bao giờ đạt được. Viết bằng thứ văn đẹp thuần khiết, như giọt sương sớm trong suốt, cuốn sách là một giọng nói đầy cảm xúc và tình yêu đối với con người, thấu hiểu và trân trọng những khát vọng sâu thẳm, chân thật, dễ tổn thương nhất của họ. Alberto Ruy Sanchez, nhà văn Mexico sinh năm 1951, tự cảm thấy mình là đứa con không phải chỉ của một đất nước, một châu lục, một nền văn hóa. Con người ấy, từng nhận bằng Tiến sĩ ở Đại học Paris, theo học các lý thuyết gia lẫy lừng như Roland Barthes và Michel Foucault, dường như lại chẳng bận tâm đến cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại, cảm quan hậu hiện đại, cùng với tất cả các chủ đề quen thuộc - sự hoài nghi, mỉa mai - và những kỹ thuật rắc rối kèm theo nó. Vào cái thời đại khi tâm thế chung dường như là hoài nghi và ngán ngẩm đối với con người, khi dường như có sự đồng thuận ngầm rằng nền văn minh đã khiến con người mất đi sự hồn nhiên, khi vấn đề dục tính của con người hình như đã bị khai thác cạn kiệt đến mức không còn gì hơn là một thứ “dục tính cơ giới”, và khi dường như niềm tin vào bất cứ cái gì cũng đáng bị đem ra chất vấn, nghi hoặc và giễu nhại, con người này, một cách bền bỉ và điềm tĩnh, cho thấy một niềm tin giản dị, không thể lay chuyển - cứ cho là bướng bỉnh và ngờ nghệch - vào chất thơ và cái đẹp của tính dục. Ruy Sanchez viết về dục vọng ái tình tự nhiên và khôn thỏa của con người như thể ông đang sống ở một chốn ngoài thời gian. Phải là kẻ yêu con người đến mức nào, và dũng cảm đến mức nào, mới có thể viết được như vậy. Là người tìm kiếm không mệt mỏi sự nối kết suốt nhiều thế kỷ giữa Marốc và Mexico, sự nối kết có tính huyết thống - song quan trọng hơn nhiều là có tính tinh thần - giữa văn hóa Ả rập với văn hóa Tây Ban Nha/Mỹ Latinh, Alberto Ruy Sanchez hiện thân cho sự “toàn cầu hóa” theo nghĩa cao nhất, chân chính nhất của nó, sự toàn cầu hóa về mặt tinh thần. Đó là sự toàn cầu hóa mà chất liệu và trái quả của nó là những người đàn ông đàn bà cảm thấy từ trong máu thịt rằng tất cả kho tàng và của cải tinh thần của loài người là của chính họ, cũng như những gì thuộc bên trong họ là thuộc về nhân loại. Tên của khí trời, tiểu thuyết đầu tay của Ruy Sanchez, là lời xưng tụng đẹp đẽ và khôn nguôi về khát vọng yêu đương của người đàn bà, những khát vọng đi liền với sự mong manh, sự e ấp, và sự táo bạo đầy ắp nữ tính. Đó là một trong những món quà đẹp nhất mà một người đàn ông - một con người - có thể trao tặng cho những người đàn bà của nhân loại. Về phương diện đó, Tên của khí trời, cũng như toàn bộ sáng tác của Ruy Sanchez, có thể gọi là một “bài thơ tình gửi toàn nhân loại”. Trần Tiễn Cao Đăng Mời các bạn đón đọc Tên Của Khí Trời của tác giả Alberto Ruy Sanchez.