Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Pháp y Tần Minh Tập 2: Lời Tố Cáo Thầm Lặng - Tần Minh

Gồm một chuỗi những vụ điều tra phá án với những vụ án lạ kỳ, bộ tiểu thuyết Pháp y Tần Minh được biên soạn dựa trên kinh nghiệm của bác sĩ pháp y nổi tiếng Tần Minh. Trong bộ sách, tác giả hóa thân thành nhân vật chính lần mò từng dấu vết để tìm kiếm sự thật đang bị kẻ xấu che đậy. Ở Việt Nam, tiểu thuyết trinh thám được xuất bản nhiều, tuy nhiên liên quan đến nghề pháp y thì đây là tác phẩm lần đầu được ra mắt. Với kết cấu logic phù hợp với thực tiễn, bộ sách đã khắc họa rõ nét những gian khổ vất vả tình yêu mà tác giả dành cho nghề nghiệp mình theo đuổi. Được duy trì bởi phong cách nhất quán, từng vụ án riêng rẽ được kết nối với trục chính xuyên suốt cùng hành văn mạch lạc, mục đích chính của Pháp y Tần Minh là phổ biến kiến thức tới độc giả, hướng tới tinh thần khoa học chân chính. Với câu nói thách thức: "Muốn cho người không biết, trừ phi mình đừng làm", tác giả cũng chính là nhân vật chính trong tác phẩm khẳng khái đối đầu với bọn tội phạm đang lẩn khuất trong bóng tối. Tinh thần nêu cao chính nghĩa, truy tìm đến cùng sự thật chính là một trong những điều nổi bật tạo nên sức hấp dẫn của bộ tiểu thuyết trinh thám này. Bộ tiểu thuyết Pháp y Tần Minh gồm có: + Quyển 1: Người giải mã tử thi + Quyển 2: Lời khai câm lặng + Quyển 3: Ngón tay thứ mười một + Quyển 4: Kẻ dọn rác + Quyển 5: Người sống sót *** Thiên cổ oan khiên tìm tay quỷ, Nhân thế thái bình bởi Phật tâm. Tìm trong kẽ tóc lời người chết, Thấu suốt chân tơ giải oán tình. Đây là bài thơ tôi đã viết trong phần mở đầu cuốn "Người giải mã tử thi", tập đầu tiên của bộ tiểu thuyết "Pháp y Tần Minh". Vào đêm giao thừa tiễn biệt năm Rồng, khi bắt đầu cầm bút ghi chép lại nhật ký phá án của mình. tôi không thể ngờ được rằng "Người giải mã tử thi" sẽ được xuất bản thành sách càng không thể ngờ rằng cuốn sách lại được chen chân vào danh mục sách bán chạy trên thị trường. Giờ đây, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới tất cả các độc giả của tôi nhờ có các bạn tôi mới hoàn thành được ước nguyện đầu tiên của mình, đó là giúp nhiều người thấu hiểu hơn về nghề pháp y. Cũng chính nhờ có sự khích lệ và thôi thúc của bạn đọc tôi mới có động lực để viết tiếp những tập tiếp theo của bộ "Pháp y Tần Minh". Cảm ơn các bạn! Sau khi "Người giải mã tử thi" xuất bản, tôi đã nhận được rất nhiều thư của độc giả mọi người đều tò mò hỏi tôi rằng. ngày nào cũng phải tiếp xúc với tử thi, tôi có sợ không? Thực sự là không. Ngay từ hồi đi học, tôi đã không sợ. Đã tham gia điều tra ba bốn trăm vụ án, chứng kiến không biết bao nhiều vụ tử vong bất thường, khi đối mặt với tử thi, nói sợ thì không phải, mà đau buồn thì đúng hơn. Theo nghề này, thật chẳng khác gì phải bước qua cạm bẫy, đôi khi, thứ khiến tôi khó lòng chịu đựng lại không phải là hiện trường thịt rữa máu tanh, mà là sự phức tạp của nhân tính, sự yếu ớt của sinh mệnh cứ thế phơi bày trần trụi ngay trước mắt. Thú thực, tôi cũng không biết còn có bao nhiêu cạm bẫy cần phải vượt qua, chỉ biết mình vẫn phải tiếp tục rèn luyện tố chất tâm lý để vững vàng hơn nữa. Đương nhiên, những bức thư của độc giả cũng khiến tôi rất ngạc nhiên và vui mừng. Có lần mở Wechat, tôi đã nhân được một tin nhắn thoại với giọng nói non nớt ngây thơ, hoá ra một vị độc giả nào đó đã bảo cô con gái tám tuổi giục tôi viết tiếp. Giọng nói con trẻ hồn nhiên bày tỏ niềm yêu thích đối với "Người giải mã tử thi", sự khích lệ đặc biệt đó đã khiến tôi vui mừng và xúc động. Đúng vậy. chính nhờ những độc giả như thế đã giúp tôi có động lực viết tiếp cuốn "Lời tố cáo lặng thầm" này (cười). Đương nhiên cũng có rất nhiều người hỏi tôi về mức độ chân thực của những vụ án trong "Người giải mã tử thi". Tuy tôi luôn kiên trì nguyên tắc sáng tác là "căn cứ vào những vụ án có thực" nhưng vẫn phải nhắc lại một lần nữa rằng toàn bộ tình tiết cụ thể của các vụ án trong series "Pháp y Tấn Minh" đều là hư cấu, nhân vật và địa danh đều đã được thay đổi, nếu có trùng lặp, chỉ là ngẫu nhiên xin đừng suy diễn (đặc biệt là đừng đánh đồng nhân vặt pháp y Tần Minh trong tiểu thuyết với tôi trong đời thực). Tiểu thuyết chắc chắn không thể bê nguyên xi vụ án thực tế vào trong sách nên sự chân thực ở đây chính là sự chân thực về kiến thức chuyên môn của pháp y, là sư chân thực về tình tiết suy luân logic, là sự chân thực về trí tuệ và thái độ nghiêm túc của pháp y - những người giải mã tử thi trong phá án. Để bộ sách "Pháp y Tần Minh" trở nên khoa học và hấp dẫn hơn, một mặt tôi tận dụng thời gian rảnh rỗi để đọc thêm nhiều tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng trong và ngoài nước, mặt khác, mỗi khi đi công tác phá án, tôi Iại thỉnh giáo các tiền bối pháp y ở khắp mọi nơi trong tỉnh thu thập thêm nhiều tư liệu thực tế về các vụ án đặc biệt, đều là những câu chuyện có thực, sẽ lần lượt xuất hiện trong những tập tiếp theo của series truyện "Pháp y Tần Minh". Đương nhiên, do mới chập chững theo nghề sáng tác, tôi vẫn muốn bổ sung thêm một câu: Các bạn nhà văn xin đừng chê cuốn tiểu thuyết này thiếu tính nghệ thuật và màu sắc bí hiểm, các bạn trong nghề xin đừng chê tình tiết vụng về ngây ngô. cứ coi nó là một tác phẩm tập toẹ vào nghề của một bác sĩ pháp y quèn mà tặng cho nó một nụ cười khoan dung vậy... Cuối cùng, tôi lại kìm lòng không đặng mà muốn chia sẻ với các bạn một chi tiết thú vi: có một nữ sinh trung học đã lén đọc "Người giải mã tử thi" trong giờ học bị thầy giáo tịch thu không thương tiếc. Hai ngày sau, thầy giáo mặt khó đăm đăm tới gặp cô bé giáo huấn một thôi một hồi, sau đó hỏi: "Thế... cuốn này có ra tập tiếp theo không?" Ha ha! Các bạn xem, Tần Minh đã phải tận dụng thời gian ngoài giờ làm để viết sách, nên các bạn chớ có tận dụng thời gian trên lớp để đọc sách nhé. Có điều, giờ đây, tôi đã có thể trả lời thầy giáo rằng, tập hai của series "Pháp y Tần Minh" đã được xuất bản với tựa đề 'Lời tố cáo lặng thầm". Tần Minh Ngày 2 tháng 9 năm 2013 Mời các bạn đón đọc Pháp y Tần Minh Tập 2: Lời Tố Cáo Thầm Lặng của tác giả Tần Minh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giả Thuyết Thứ 7 - Paul Halter
Một ngày nọ ở Luân Đôn, có hai người đàn ông tài ba danh giá quá chẳng để làm gì, đã chơi tung đồng xu để thách thức tài trí nhau. Theo đó người thắng phải gây ra một vụ án mạng kiểu gì cũng được, sao cho bản thân mình có đầy đủ chứng cứ ngoại phạm, còn các manh mối phạm tội sẽ đổ dồn vào người thua. Một âm mưu thoạt nhìn chỉ để cho vui, cuối cùng như hơi độc thổi bung ra trong không khí, xé toang lồng ngực bao nhiêu người khác, lại cũng làm ngạt thở chính mình. Bởi vì mạng người chưa và không bao giờ là thứ nên đem ra làm trò đùa cợt. Paul Halter, nhà văn trinh thám người Pháp, sở hữu gia tài gồm hơn 30 tiểu thuyết cùng các giải thưởng trong nước và quốc tế. Ông được ưu ái mệnh danh là “Bậc thầy của những căn phòng khóa kín”. Truyện của ông độc đáo vì đã xây dựng được những câu đố và âm mưu tội ác gần như không tưởng. Dùng tiểu thuyết “chuyên chở thông điệp xã hội, khám phá các vấn đề nhân đạo và triết học” cũng trở thành một điểm nhấn khó phai khi nói về Paul Halter. *** Khoảng 10 giờ tối, cảnh sát Edward Watkins đi ngang cung điện St. James như ông vẫn làm nửa tiếng một lần vào những buổi tối phải trực thế này. Nhiều năm qua, ông đã đều đặn thực hiện đúng lộ trình đó mà không gặp sự cố gì. Thi thoảng chạm trán một tay say xỉn có phần ngỗ ngược không thể bỏ qua, nhưng đám đó cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Khu vực này rất yên bình, yên bình như cuộc đời cảnh sát viên của ông, khi ông đã đi mòn gót, tâm trí chỉ nghĩ về thời khắc nghỉ hưu sắp tới bên người vợ yêu quý của mình. Một cuộc đời chẳng có biến cố gì, thực vậy - cho tới đêm 31 tháng Tám năm 1938. Hai bàn tay đan chéo sau lưng, chiếc mũ cát kéo sụp xuống đầu, thứ âm thanh duy nhất ông nghe được là tiếng bước chân của chính mình trong cái khu vực đang say ngủ, chìm trong bóng đổ của những tòa nhà gớm ghiếc cao ngất bao quanh. Đêm khá lạnh và màn sương nhẹ lững lờ buông xuống phần mặt tiền đầy vẻ hăm dọa. Ông rẽ xuống phố King, đi được nửa chừng thì dừng lại ngó qua vai, như một việc rất bình thường. Đúng lúc ấy, ông nghe tiếng bước chân ở đâu kia phố King, ngay chỗ ngã tư với phố Bury. Nhưng khi vòng trở lại, ông chỉ thấy cái bóng của một kẻ qua đường, hắt lên bức tường cách đó hơn chín mét nhờ một ngọn đèn đường năm ở góc ngã tư. Cảnh sát Watkins đứng yên vài giây, miệng há hốc. Mặc dù chỉ thấy cái bóng trong một thoáng, ông cũng đủ nhận ra một điểm dị thường: Nó có cái mũi dài lạ lùng. Không phải dài hơn mức bình thường vài phân, mà dài một cách quái đản, dễ chừng bằng cả vành mũ rộng mà kẻ đó đang đội. Quỷ quái gì vậy? Một gã cải trang thành chim chăng? Edward Watkins đứng yên thêm vài giây nữa, tâm trí quay cuồng. Khi trấn tĩnh lại, ông rảo bước tới góc phố Bury và nhìn dọc xuống lối đi, vừa kịp thấy nhân vật kia sắp rẽ phải vào một hẻm ở quãng giữa phố, nơi hình như có thêm nhân vật khác đã đến từ trước. Watkins chưa xác định được nhân dạng của kẻ thứ hai, nhưng thoáng thấy thứ gì đó rất giống áo choàng. Diễn biến tiếp theo khá nhanh. Nhân vật kia, có lẽ bị đánh động bởi tiếng chân bước của viên cảnh sát, quay phắt lại đối diện với ông và, lộ rõ vè ngạc nhiên, nó vọt nhanh vào ngõ hẹp. Trong những tình huống bình thường, viên cảnh sát sẽ lập tức bám theo. Nhưng những gì ông vừa thấy - và đặc biệt là vào thời điểm đó - lạ lùng đến mức phải mất vài phút quý giá tâm trí ông mới phục hồi được. Nhưng các giác quan thì không hề phản bội ông và hình ảnh dị thường kia vẫn rõ rệt trong tâm trí: áo choàng dài đến mắt cá chân, đôi tay đeo găng, chiếc mũ rộng vành, và thay vì khuôn mặt, lại chình ình một chiếc mặt nạ trắng ởn mà ở chính giữa là cái mũi dài ít nhất cũng hơn ba mươi phân. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy hình ảnh ấy bằng xương bằng thịt, nhưng ông đã xem đủ minh họa để hiểu ra: Ông vừa nhìn thấy một bác sĩ dịch hạch. Một bác sĩ dịch hạch. Đã từng có dịch hạch ở Luân Đôn. Những câu chuyện về bệnh dịch khủng khiếp vụt qua tâm trí ông: Người chết nhiều như ruồi trên đường phố, quằn quại trong đau đớn, thân thể đầy mụn mủ, mí mắt thâm đen, gương mặt teo tóp. Xác chất đống lên xe đẩy, rồi trút xuống hào sâu bên ngoài thành phố, nơi một sự hoảng loạn không tên ngự trị, nơi gần như không thể trốn chạy, và nơi người sống trong những ngôi nhà bị nhiễm bệnh chết vì đói hơn là vì dịch hạch. Viên cảnh sát xua dòng ý nghĩ hắc ám ấy đi và định thần lại. Ba trăm năm nay không còn dịch hạch ở Luân Đôn, đã có nhiều hiện pháp hiện đại để kiểm soát nó. Hơn nữa, các bác sĩ không còn lang thang trên đường phố trong bộ trang phục kỳ dị này nữa. Người ông vừa nhìn thấy hoặc là một người đi dự tiệc hoặc một dạng tội phạm nào đó đang chuẩn bị ra tay. Không, như thế thật vô nghĩa. Có nhiều cách kín đáo hơn để che giấu nhân dạng. Vậy thì là gì chứ? ... Mời các bạn đón đọc Giả Thuyết Thứ 7 (Dr. Twist #6) của tác giả Paul Halter.
Kẻ Giết Người Đội Lốt - Erle Stanley Gardner
Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) *** Vào sáng thứ hai, mười giờ kém năm, Perry Mason, cặp dưới nách một gói bọc giấy màu nâu, một tay gỡ cái mũ phớt và ném về phía bức tượng bán thân Blackstone vốn là thứ trang điểm cái giá sách phía sau bàn làm việc của ông. Chiếc mũ phớt lười biếng quay mấy vòng rồi chụp thẳng xuống vầng trán cẩm thạch của vị luật sư lừng tiếng, tạo cho ngài một vẻ ngang tàng quái đản. Della, cô thư kí riêng của Mason đang mở thư tín buổi sáng bên bàn, vỗ tay hoan hô. “Chà, lần này thực sự thành công lắm!” Mason đồng tình với niềm kiêu hãnh kiểu trẻ con. “Blackstone chắc là phải nhảy chồm lên ở dưới mồ,” Della nhận xét. Mason mỉm cười. “Ông ấy đã quen từ lâu rồi. Năm mươi năm gần đây tất cả các luật sư chỉ có làm mỗi việc là chất mũ của mình lên vầng trán cao thượng của Blackstone. Điều đó là đặc trưng trong thời đại chúng ta.” “Đó là điều gì chứ?” “Ném mũ.” “Tôi sợ là không hiểu được hết ý nghĩa.” “Vài thế hệ trước,” Mason giải thích với cô, “các luật sư từng là những người chán ngắt hiếm thấy. Đặt tay lên vạt áo vét, họ nói những diễn từ cầu kì theo mọi quy tắc của nghệ thuật hùng biện. Các văn phòng của họ nhất thiết phải được trang điểm bằng tượng bán thân của Blackstone. Thế nhưng các luật sư trẻ được thừa kế các bức tượng cùng với đồ đạc văn phòng và hàng đống bộ luật thì phát cáu bởi cái vẻ tự mãn khoa trương đông cứng trên bộ mặt bằng đá của lão già này.” “Chắc là anh cần phải đến gặp nhà phân tâm học, sếp ạ,” Della nói. “Có lẽ đối với anh Blackstone tượng trưng cho cái gì đó mà anh cố sức chống chọi lại một cách vô thức. Thế cái gói gì chỗ anh thế?” “Có quỷ mới biết nó,” Mason đáp. “Theo tôi, tôi cố sức chống chọi các định kiến u tối. Tôi đã trả mất năm đôla - tôi có ý nói cái gói ấy.” Trong giọng Della che giấu lòng bao dung dịu dàng sau vẻ giận dỗi giả tạo, “Tôi hi vọng anh không định ghi khoản đó vào chi phí công vụ chứ?” “Tất nhiên, tôi sẽ ghi. Chứ khác đi thì theo cô các chi phí chung là cái gì?” “Và anh thậm chí không biết cái gì bên trong đó ư?” “Tôi mua nó mà không giở ra.” “Tôi sẽ hơi khó quyết toán, nếu phải ghi vào cột chi năm đôla vì cái gói mà không rõ có gì nằm trong đó. Điều gì đã xui khiến anh như thế?” “Nói chung,” Mason thốt ra, “sự thể là thế…” Ông mỉm cười. “Nào tiếp theo là gì?” Della hỏi, cũng không đủ sức kìm nổi nụ cười. “Cô nhớ cái cô Helen Cadmus nào đó không? Cái tên ấy không nói với cô điều gì sao? “ “Một cái tên khá lạ,” cô nói. “Tôi có cảm giác… Khoan, đó có phải là cô gái đã tự tử, nhảy xuống biển từ tàu buồm của một nhà triệu phú nào đó?” “Phải, phải, chính cô ta. Benjamin Addicts, một triệu phú khá bất thường, nghỉ ngơi trên chiếc tàu buồm của mình. Giữa biển khơi, cô thư kí của ông ta, Helen Cadmus biến mất không để lại dấu vết. Người ta phỏng đoán là cô ta đã nhảy ra ngoài thành tàu. Mà trong cái gói này… Nào chúng ta cùng xem điều gì viết ở đây.” Mason lật cái gói lại và đọc, “Đồ vật riêng của Helen Cadmus. Văn phòng mõ tòa.” Della thở dài. “Đã bấy nhiêu năm tôi là thư kí riêng của anh… và thậm chí đôi khi tôi có cảm giác rằng tôi đã biết anh khá rõ, nhưng rồi lại xảy ra gì đó như kiểu này, và tôi lại nhận thức rằng anh vẫn là ẩn số đối với tôi. Trời ơi, anh lấy thứ đó ở đâu và vì cái gì mà bỏ ra những năm đôla cơ chứ?” “Mõ tòa khá thường xuyên đưa ra đấu giá đủ thứ vớ vẩn khác nhau chất đống trong văn phòng ông ta. Và hôm nay trong gian nghị án đã có cuộc đấu giá, còn tôi lại vô tình có mặt không xa chỗ đó. Ở đấy diễn ra những cuộc đấu giá khá hăng, tất cả tranh giành các chế tác kim hoàn, các bức tranh quý hiếm, bộ đồ ăn bằng bạc và đủ mọi thứ khác nữa. Sau đó người ta đưa ra đấu giá cái gói này, và chẳng có ai thèm trả giá. Cô cũng biết mõ tòa - ông ta là một bạn tốt của tôi. - Thế là tôi nháy mắt cho ông ta, và đề nghị đặt giá đầu tiên là năm đôla, nhằm kích động công chúng. Và cô biết sao không? Tôi chưa kịp trấn tĩnh thì họ đã dúi cái gói cho tôi rồi, thành ra trong ví tôi bớt đi năm đôla.” “Thế có gì bên trong ấy?” Della tò mò. “Ta cùng xem,” Mason đề nghị. Ông mở con dao díp, cắt dây buộc và mở tờ giấy bọc ra. “Ái chà chà! Giống như chúng ta có được cuốn ngữ pháp tiếng Anh, cuốn từ điển, vài sách giáo trình tốc kí, mấy cuốn nhật kí và quyển album với những tấm ảnh.” “Có thế mà mất những năm đôla!” Della kêu lên. “Ta ngó qua album ảnh xem,” Mason nói. “Chà! Đây có những tấm ảnh mà ai cũng muốn xỉa năm đôla mua nó.” Della đi lại gần và ngó qua vai ông. “Nếu đó được gọi là quần áo tắm,” cô nhận xét, “thì tôi…” “Thế nhưng giống như nó chính là thế,” Mason đáp. “Bộ đồ tắm từ ba mảnh vải hình vuông, bằng cách thần diệu nào đó đã bám được vào các đường nét uyển chuyển của thân hình khá đáng yêu. Tôi cho rằng đó chính là Helen Cadmus.” “Cô ta không che giấu quá nhiều khỏi những con mắt người lạ,” Della nói. “Chắc gì người lạ nào đó đã chụp, có lẽ một cô bạn nào đó của cô ta biết sử dụng máy ảnh, may mắn tóm được khuôn hình gây ấn tượng mạnh. Ồ, ở đây còn cả một tập những bức ảnh của lũ khỉ nữa.” ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Giết Người Đội Lốt của tác giả Erle Stanley Gardner.
Chiếc Khuy Đồng - Lev Ovalov
Cuốn tiểu thuyết tình báo "Chiếc khuy đồng" của Ô-va-lốp viết dựa trên một câu chuyện có thật, xảy ra tại thành phố Ri-ga, nước Cộng hòa Lét-tô-ni (Liên-xô) tạm thời bị quân phát xít Đức chiếm đóng vào những năm đầu chiến tranh thế giới lần thứ hai. Câu chuyện lý thú phản ánh cuộc đấu tranh gay go, mạo hiểm, quyết liệt giữa cơ quan tình báo Liên xô và bọn gián điệp của các nước đế quốc; nêu lên những mâu thuẫn, xung đột tất yếu không thể tránh khỏi trong nội bộ bọn gián điệp đế quốc, phản ánh sự cấu xé vì quyền lợi và tham vọng giữa các nước đế quốc, dù lúc bấy giờ với danh nghĩa là đồng minh của Liên xô chống phát xít Hít-le. Hiện nay, bọn phản động bành trướng bá quyền Bắc Kinh đang ra sức cấu kết với đế quốc Mỹ, tiến hành một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt đối với nước ta. "Chiếc khuy đồng" ra mắt lần này chắc chắn sẽ góp phần giúp bạn đọc nâng cao tinh thần cảnh giác Cách mạng, bồi dưỡng và củng cố thêm ý chí bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. *** Lời Tác giả: Tính đến nay đã gần tròn 20 năm, tôi có viết về Prô-nin, một cán bộ của Cục An ninh Quốc gia, và là người bạn của tôi, một tập truyện nhan đề là NHỮNG VIỆC MẠO HIỂM CỦA THIẾU TÁ PRÔ-NIN. Xuất bản tập truyện ấy chẳng được bao lâu thì cuộc Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc bùng nổ. Từ đó chúng tôi mỗi người một ngả, không liên lạc và cũng không hề gặp nhau. Trong quãng thời gian ấy, những sự kiện lớn lao đã bắt buộc một số người phải rút vào hoạt động bí mật.. . Rồi chiến tranh lại tan đi, công cuộc kiến thiết hòa bình trở lại trên khắp đất nước, người người lại sum họp và sau đó một thời gian mà tôi cho là dài lắm, cuộc sống lại trả hai chúng tôi về cảnh cũ. Đương nhiên tôi có hỏi về cái quá khứ của Prô-nin, tuy rằng anh không bao giờ thích để ai ca tụng mình. Anh đáp: "Tôi đã làm những gì thì chưa đến lúc phải kể lại, mà tôi cũng không có quyền nói hết những việc mình làm. Nhưng tôi có quyển nhật ký nhỏ của một đồng chí sỹ quan mà tôi có nhiệm vụ phải gặp gỡ trong những ngày đầu chiến tranh. Xin biếu anh đây. Đọc trong ấy tất anh sẽ biết được ít nhiều về tôi. Anh ta ghi quyển nhật ký này không phải để cho mọi người xem, nhưng nếu thấy thích, anh có thể phổ biến. Tất nhiên, những tên thật nên thay đổi đi ". Tôi đọc hết những dòng nhật ký đó và quyết định viết thành tiểu thuyết này. Lời lẽ quyển tiểu thuyết gần giống y như bản thảo nhật ký, tôi chỉ chữa lại một vài tình tiết ở đôi chỗ và thay đổi vài ba tên thật mà thôi. Tôi mở ngăn kéo bàn giấy lấy chiếc khuy đồng ra. Chiếc khuy đồng giản dị này là vật kỷ niệm duy nhất của tôi để ghi nhớ lại những sự việc lạ lùng nửa hư nửa thực mà tôi đã bị bắt buộc phải chứng kiến và tham dự vào... Cái vật bằng đồng nhỏ bé đó nằm gọn lỏn trên lòng bàn tay, gợi lại trong tâm trí tôi hình bóng ả đàn bà ấy, một hạng đàn bà kỳ dị hiếm có ở trên đời mà tôi đã quen biết trong những cảnh ngộ thật là éo le, khó hiểu. Đó là Xô-phi-a An-cốp-xcai-a. Nếu nói theo quan niệm thông thường của ta thì ả không phải là một trang tuyệt thế giai nhân: nét mặt không cân đối, thân hình chả lấy gì làm hoàn mỹ. Thế mà ả đã khiến cho nhiều kẻ mày râu phải "đổ quán xiêu đình" trước cái sóng khuynh thành của mình... Bạn thử hình dung ra một người đàn bà khá cao, tóc nâu sẫm, mặt hơi dài, trán dô gần như trán đàn ông với đôi mắt một mí màu gio mà trong cơn giận dữ thường biến sang màu xanh như mắt mèo và sắc như lưỡi dao cạo. Mũi hếch, cằm thon. Khác thường nhất là đôi môi đỏ chót, trề ra y hệt như môi trẻ con và có thể đột ngột mím chặt lại một cách dữ tợn, tái dần đến nỗi trắng nhợt ra. Hai vành tai quá rộng nói lên đặc khiếu thẩm âm của ả. Đôi má thỉnh thoảng mới ửng hồng, mái tóc mềm hơi uốn cong bên thái dương, hai cánh tay có vẻ quá mảnh khảnh nếu đem so với bộ đùi nở nang như đùi nhà thể thao chuyên nghiệp. Trong khi trò chuyện với ai ả chỉ nghe một bên tai, còn tai kia hình như đang mải lắng nghe một khúc nhạc hiu hắt từ cõi xa xăm nào vọng tới; nếu một mắt nhìn chòng chọc vào mặt người đối diện thì mắt kia hình như đang đăm chiêu soi vào khoảng không gian thăm thẳm. Và nếu tay phải ả dịu dàng vuốt ve anh thì tay trái có thể thình lình móc khẩu súng lục xinh xắn tối tân ở trong xắc ra để bắn chết anh trong nháy mắt. Phải chăng trong câu chuyện oái oăm này cũng phải có một nhân vật lạ đời như thế? Tôi là thiếu tá Ma-ca-rốp, sĩ quan tham mưu Liên Xô. Mấy tháng trước khi xảy ra chiến tranh, tôi được phái đến Ri-ga, một thành phố lớn và cổ kính nằm giữa hai miền Đông và Tây Âu... Nhiệm vụ của tôi là nghiên cứu chiến trường và chuẩn bị kế hoạch bố trí quân lực ở miền Tây Bắc để ngăn chặn một cuộc tiến công bất ngờ của quân địch khi chiến tranh bùng nổ. Công tác đó có tính chất hết sức bí mật. Lúc bấy giờ Ri-ga là một thành phố đông đúc và phức tạp. Những dãy nhà nguy nga tráng lệ ngất nghểu bên những phố xá tồi tàn đổ nát. Trước mắt chúng tôi đầy rẫy những nghịch cảnh giàu nghèo, sang hèn, vừa khêu gợi trí tò mò mà lại vừa kỳ lạ. Ri-ga là thủ đô của nước Cộng hòa xô-viết Lét-tô-ni vừa thành lập được ít lâu. Tôi sống khá kín đáo trong căn buồng riêng tại nhà đồng chí công nhân xưởng cơ khí tên là Xe-plít. Đồng chí là một đảng viên cộng sản lâu năm đã được tôi luyện trong thời kỳ hoạt động bí mật. Nhờ có chìa khóa riêng để ra vào cửa lớn nên tôi ít làm phiền đến chủ nhà. Tôi còn nhớ rõ đêm ấy vào khoảng cuối tháng sáu, sau khi báo cáo tình hình công việc hàng ngày với thủ trưởng, tôi bước ra khỏi tòa nhà đồ sộ sáng trưng ánh điện, đi qua một phố nhỏ rồi rẽ xuống đường bờ sông Đô-gáp xây bằng đá, rộng thênh thang. Mùa hè ở biển Ban-tích thật là êm dịu. Khí trời khô ráo nhẹ nhõm. Lòng tôi lâng lâng giữa biển hương thơm ngào ngạt dâng lên từ dòng sông và từ hoa cỏ dại đẫm sương... Đêm đã khuya. Bốn bề vắng ngắt. Tôi đội mũ dạ, mặc áo choàng màu sẫm, trong bóng tối khó mà nhận thấy. Một làn gió lạnh thoảng qua. Tôi rùng mình định kéo cổ áo lên chợt nghe tiếng gọi khẽ sau lưng. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Khuy Đồng của tác giả Lev Ovalov.
Bãi Biển Cây Cọ - Pierre Rey
Sau Đời Tỉ Phú và Đồng Tiền Lấm Máu..., Pierre Rey lại đưa chúng ta vào cuộc phiêu lưu đầy hấp dản trong BẢI BlỂN cày cọ, ờ đó một chàng viên chức ngân hàng nhờ vận may dã chiến thắng mọl mưu mỏ xào quvệt của các nhà tỷ phú để trờ thành một ông chủ ngôn hàng khổng rỏ và một... trái tim trong trắng của cỏ gái không bị lóa mắt vì dồng tiền.. *** Pierre Rey là tiểu thuyết gia người Pháp, ông sinh ngày 27 tháng 4 năm 1930 tại Courthezon (gần Avignon) tỉnh Vaucluse, mất ngày 22 tháng 7 năm 2006 ở Paris. Pierre Rey hoàn thành khóa học thứ hai tại trường đại học Orange, rồi ông nhập học Trường Mỹ Thuật Paris nơi ông học về vẽ tranh và lịch sử nghệ thuật. Sau khi tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật, đầu tiên ông vẽ minh họa báo chí và nhiều tác phẩm của ông được đưa lên các báo lớn của Pháp. Ông bắt đầu với mục Nghệ thuật và Giải trí, rồi phóng sự thường ngày cuộc sống của người dân thủ đô ở báo Paris Presse (1959) hay Paris Jour (1963). Ông thắng Giải thưởng phóng sự Paris năm 1963. Năm 1965, ở tuổi 33, ông trở thành biên tập viên và tổng biên tập báo Marie Claire, về sau ông chia tay công việc này để hợp tác với Jacques Lacan mười năm trong công việc nghiên cứu. • Tác Phẩm - Le Grec (1972) Đời Tỷ Phú, tiểu thuyết lịch sử của Aristotle Onassis, được dịch ra nhiều ngôn ngữ. - La Veuve (1976) - Out (1977) - Palm Beach (1979) Bãi Biển Cây Cọ - Sunset (1988) Mật Danh Hoàng Hôn - Une saison chez Lacan (1989) - Bleu Ritz (1990) - Liouba (1992) - Le Rocher (1995) - Le Désir (1999) - L'Ombre du paradis (2001) - L'Oncle (2002) *** Lúc mười ba giờ, chuông báo nghỉ ăn trưa reo lên trong tám tầng nhà của cơ quan Đầu Tư Hóa Chất Hacket (Hackett Chemical Investraent). Cả sáu trăm hai mươi hai công chức, tiếp viên, trưởng phòng, kế toán, nhân viên phục vụ, thư ký, đánh máy và nhân viên ban hòa giải tranh chấp... nhất loạt chạy như điên ra thang máy. Thang vụt xuống ba mươi hai tầng, nhả họ ra từng tốp hấp tấp ào ra phố 42 nóng ẩm ngột ngạt. Chỉ một mình Alan Pope trong phòng 8021 tầng ba mươi ngôi lầu chọc trời Rilford này là không chồm lên. Anh vẫn như bị đóng đinh vào ghế, vẻ nhìn xa xăm dường như không nghe thấy gì. Samuel Bannister băn khoăn nhìn anh, tay đặt lên núm cửa: - Làm thêm hả? - Có ai trả tiền đâu! - Alan trả lời bằng giọng lơ đãng. Bannister nhìn chăm chú hơn. - Mình đến tiệm Romano chén đây. Đi với mình. - Không đói. Cảm ơn. Lưỡng lự, Bannister đổi chân đứng: - Cái gì dằn vặt cậu? Murray chắc? - Ừ. Murray. Tuy vội đi, Bannister vẫn phải rời bỏ cái núm cửa nắm chặt trong tay từ nãy. Bước hai bước tới chiếc bàn sắt vẫn ngồi cùng với Alan Pope từ bốn năm nay. - Đi làm chầu bia lạnh! Vừa uống vừa nói chuyện đó. Alan lắc đầu từ chối, lún sâu hơn vào ghế. - Cậu đi một mình đi, Samuel. Tớ cần suy nghĩ. Bannister lúc lắc người, định mở miệng nói câu gì nhưng lại thôi, rồi hỏi: - Lão triệu cậu vào mấy giờ? - Ba. - Chắc sẽ lên lương cho cậu. - Chuyện lạ! - Cậu lo lắng không đâu. Mình tin là chuyện hay, rất hay. - Nói như thằng cha bị xử tử bằng ghế điện. Mong bị mất điện. Bannister do dự một lát, nhún vai rồi nói với vẻ làm ra nhởn nhơ - Nếu đổi ý! Đến Romano. Alan còn lại một mình. Ruột gan thắt lại vì lo lắng, anh thở dài, đứng lên dán mũi vào cửa kính đưa mắt xuống bãi biển tuy chẳng nhìn gì. Đứng lặng trong mười phút, rồi nhảy bổ tới điện thoại quay số: Phải gặp Marina! May ra cô ta vẫn còn nằm trên giường, trần truồng, nóng hổi... Đường dây bận! Đột nhiên anh thấy rất thèm được nói với cô, sờ lên người, làm tình với cô. Anh gác máy, quật áo vét lên vai rồi mất hút trong hành lang vắng ngắt. *** - Thế nào Penny? Mụ nào vậy? Tên gì? - Abel Hartman cáu kỉnh hỏi. Anh là một luật sư cỡ nhỏ ở khu phố, chuyên trách các vụ: vợ chồng xích mích, tường ngăn chung hai hộ, nhà ngập nước, đụng xe tróc sơn. Anh ta căm ghét thân chủ của mình. Nữ thư ký riêng bình tĩnh trả lời: - Bà Mabel Pope. Có nghĩa là cựu phu nhân Alan Pope. Hartman rên khàn khàn trong cổ. - Lại như mọi bận. Chậm nhận được tiền trợ cấp nuôi dưỡng. - Ai bảo lấy thằng chồng kiết! Bảo mụ là tôi đang ở Thổ Nhĩ Kỳ. - Mụ đã trông thấy ông lúc ông đi lấy hồ sơ Leyland. Ông nên gặp thì hơn. Mụ sẽ đập phá tan hoang hết. - Mụ có nợ tiền ta không? - Không nợ một xu - Tôi quá ghét bọn hút máu người như mụ. Khốn nạn cho những thằng rơi vào vuốt mụ. Không còn lấy một giọt máu! Bắt gặp cái nhìn khinh bỉ của Penny, anh ta sực nhớ cô thư ký cũng vừa ly dị chồng. Anh ta dọn giọng càu nhàu: - Thây kệ, cho mụ vào. Tôi sẽ lập tức tiến hành việc tố tụng đối với Alan Pope! Mời các bạn đón đọc Bãi Biển Cây Cọ của tác giả Pierre Rey.