Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Song Tử Và Chuyện Tình Yêu (Linda Goodman)

Linda Goodman, tên thật là Mary Alice Kemery sinh ra tại Morgantown, miền Tây Virginia vào ngày 19/4. Linda Goodman chưa bao giờ tiết lộ năm sinh chính xác của bản thân.

Bà được đánh giá là một trong những Chiêm tinh gia nổi tiếng người Mỹ với những cuốn sách đứng đầu danh sách bán chạy do tờ New York Times bình chọn. Năm 1968, Linda Goodman xuất bản cuốn “Sun Signs” (Dấu hiệu Mặt trời của các cung hoàng đạo). Ngay lập tức cuốn sách đứng đầu danh mục Best Seller của năm.

"Nếu bạn cầm trên tay cuốn Dấu hiệu Mặt trời (Sun Signs) và đọc nó, bạn sẽ cảm nhận được không chỉ lối viết hấp dẫn, mà còn cả cách dẫn dắt thông minh của Linda Goodman giúp người đọc có thể tiếp cận về 12 cung hoàng đạo một cách dễ hiểu hơn rất nhiều."- Carolyn McDowall

Sau đó, Linda Goodman tiếp tục khẳng định được sức cuốn hút từ những trang sách Chiêm tinh của bà trong hai tập tiếp theo “Love Signs” (Chiêm tinh về tình yêu) ra mắt năm 1978 và Star Signs (1988). Cuốn “Love Signs” đã xác lập kỉ lục trong ngành công nghiệp xuất bản với mức giá bản quyền 2.3 triệu đô la Mỹ.

Nội dung bộ sách Chiêm tinh Cẩm Phong số 1 được dịch từ hai cuốn sách Best Seller của Linda Goodman - “Sun Signs”, “Love Signs”.*** Tìm mua: Song Tử Và Chuyện Tình Yêu TiKi Lazada Shopee

Nếu có những lúc một Song Tử khiến bạn hoang mang tưởng rằng mình đang nhìn thấy hai người, đừng bỏ chạy hay cố dụi mắt làm gì. Chỉ cần nhớ rằng biểu tượng của Song Tử là cặp sinh đôi, họ có hai mặt hoàn toàn khác biệt trong một con người hay thay đổi. Lúc này bạn thấy, lúc sau lại không. Có phải là bạn bắt được tình yêu thoáng hiện lên trên gương mặt linh hoạt ấy không? Hay là ghét bỏ? Hưng phấn? Thông minh? Lý tưởng? Nỗi buồn? Niềm vui? Ngắm nhìn những biểu cảm thay đổi trên gương mặt Song Tử cũng mê hoặc như ngắm ánh đèn trên sàn nhảy. Khó có thể nói đâu là nơi sự thật kết thúc và ảo mộng bắt đầu. Chúng hòa quyện vào nhau, rồi lại tách ra.

Muốn tìm sinh vật hay thay đổi này cần suy tính kỹ càng. Hôm nay họ ở đây, ngày mai đã ở một nơi nào đó, bất cứ đâu. Cứ thoắt một cái, Song Tử có thể đã đổi trang phục, công việc, tình yêu nơi chốn nhanh như việc đổi ý, thế nghĩa là rất nhanh đấy. Họ đọc rất nhanh, vì họ có thể nắm cốt truyện, nội dung khi chỉ cần đọc lướt qua vài trang. Người có Thủy tinh phù trợ cũng có thói quen lạ lùng là đọc ngược từ trang cuối lên. Nếu bạn biết một Song Tử nào chịu đọc từ đầu đến cuối quyển sách mà không chán nửa chừng, hãy gửi họ đến bảo tàng chuyên trưng bày đồ hiếm có khó tìm đi.

Nên nghiên cứu con người hoạt bát, năng động ấy ngay cả khi chạy theo họ đã đủ khiến bạn mệt lừ. Điều đầu tiên bạn nhận thấy chính là thứ năng lượng căng thẳng đang nháy, nổ bụp xoẹt và nhún nhảy trong bầu không khí xung quanh. Nếu có Mặt trăng Bọ Cạp, Thiên Bình, Cự Giải hay Ma Kết, họ sẽ không quá kích động, nhưng chắc chắn vẫn tiềm tàng sự hăng hái, hiếu động; chúng hiện diện dưới ảnh hưởng của vị trí các hành tinh khác. Một Song Tử bất thần có thể nói chậm, nhưng hầu hết là nói nhanh. Và tất thảy đều nghe rất nhạy.

Dù là phụ nữ hay đàn ông, Song Tử đều không thể kiên nhẫn với một kẻ đối thoại bảo thủ, chậm tiếp thu, không biết mình đang đứng ở đâu. Song Tử biết rõ vị trí của mình, ít nhất cũng là vào thời điểm hiện tại.

Trừ phi có cung Mọc xung đột, cơ thể Song Tử thường mảnh dẻ, cao và nhanh nhẹn. Hầu hết họ đều có gương mặt nhỏ, sắc nét, thanh tú, mắt sáng. Song Tử không bao giờ dừng tầm nhìn tại vật nào lâu quá một giây. Họ luôn sự háo hức, thân thiện, dễ gần, chuyển động nhanh nhưng không kém phần duyên dáng.

Sai lầm điển hình là cố trói chân Song Tử đứng yên một chỗ hay ép họ theo một ý kiến nhất định. Sai lầm khác là đấu trí với Cặp sinh đôi vì họ có thể xoay chuyển tình thế dễ như trở bàn tay, tư duy nhanh nhạy, châm biếm thì sâu cay và thông minh hơn hầu hết mọi người.

Với bản tính đó, Song Tử có thể làm hai việc cùng lúc mà không cần nỗ lực như hầu hết chúng ta làm một việc. Phụ nữ Song Tử có thể là quần áo, cho con ăn và nói chuyện điện thoại cùng lúc. Vài người thề thốt rằng tất cả hội Song Tử sinh ra đều cầm điện thoại trên tay.

Bất kỳ công việc nhàm chán nào cũng khiến một Song Tử điển hình bứt rứt, tù túng như thể chim đã vào lồng và bị cắt cánh. Độ căm ghét của họ với công việc nặng nhọc và sự nhàm chán là ngang nhau. Thông thường, họ không phải là người đúng giờ (trừ phi cung Mọc Xử Nữ). Tuy nhiên, Song Tử điển hình vẫn luôn đến muộn, không phải họ quên giờ giấc mà bởi có gì đó đã thu hút sự chú ý của họ trên đường, làm họ lạc hướng. Bản chất hiếu động, luôn chân luôn tay của Thủy tinh đòi hỏi Cặp song sinh phải thường xuyên hưng phấn và được thay đổi, nếu không tinh thần của họ sẽ rệu rã, ủ dột.

Nếu bạn có một người bạn Song Tử, ắt hẳn đã từng nếm trải mấy thói quen điển hình đó, thật dễ khiến người khác nổi điên. Đổi ý xoành xoạch và rất hay quên. Kì lạ là nghe họ giải thích xong thì bạn cũng chẳng thể giận nổi.

Những người cung Song Tử luôn bị thôi thúc mãnh liệt, thầm kín là phải che giấu động cơ thực sự. Tính linh hoạt tài tình và khả năng diễn thuyết khiến họ trở thành những nhà chính trị kiệt xuất, chưa kể đến chuyên gia trong lĩnh vực quan hệ công chúng. Một Song Tử có khả năng dẫn dắt bạn đi chệch khỏi niềm tin tưởng chừng bất di bất dịch cũng như vững chắc nhất.

Song Tử có khả năng viết lách nhưng thường ngại viết ra những suy nghĩ cá nhân, thâm tâm họ biết thứ bản thân cho rằng hôm nay là đúng, ngày mai mình đã chẳng tin nữa. Họ không muốn ràng buộc. Hầu hết mọi Song Tử đều nghe, hiểu hay đọc nhiều hơn một thứ tiếng. Cặp sinh đôi thường giành chiến thắng bằng lời, phù hợp với những công việc đòi hỏi khả năng thuyết phục. Nếu bạn tình cờ bắt thóp được họ, Song Tử có thể chuyển chủ đề rất nhanh, khéo léo kéo cuộc trò chuyện xa khỏi mục tiêu là họ, thành ra cuối cùng chính bạn lại lên thớt thay đấy.

Là nhân viên tiếp thị hay bán hàng, tất cả những cung được Thủy tinh bảo trợ (Song Tử và Xử Nữ) đều là những chuyên gia. Họ không có đối thủ. Những bài thuyết trình có thể hơi quá, nhưng mấy ai đủ lý trí để cưỡng lại được cái vẻ vừa quyến rũ vừa sắc sảo thông minh của Song Tử? Chỉ riêng điều này cũng đã thu được lời.

Song Tử cần để bộ não bận rộn nghỉ ngơi gấp đôi một người bình thường. Không may, họ rất dễ mắc chứng mất ngủ nên hiếm khi chúng được nghỉ ngơi đủ. Cặp sinh đôi cũng cần sự tươi mới, không khí trong lành và ánh sáng mặt trời để tránh xa bệnh viện. Nếu thiếu một trong các yếu tố trên, cộng thêm các hoạt động quá tải có thể khiến Song Tử dễ gặp tai nạn hay tổn thương vai, cánh tay, bàn tay và ngón tay. Phổi cũng dễ bị yếu, cả đường ruột nữa. Các vấn đề liên quan đến bàn chân, lưng, chứng đau nửa đầu luôn là thứ rình rập tấn công Song Tử nào lơ là sức khỏe. Kỳ lạ thay, Song Tử dễ bị suy sụp tinh thần vì buồn chán, tù túng hơn là vì hoạt động quá tải.

Trong thâm tâm, với bản chất nóng vội, Song Tử cần một lý tưởng. Vấn đề là họ phải nhận ra điều đó. Đấy có thể là bất cứ điều gì vì trí tưởng tượng của họ không có biên giới. Tiền bạc, sự thịnh vượng, tình yêu, sự nghiệp chưa bao giờ là đủ. Thủy tinh luôn thúc giục Song Tử tìm kiếm nữa và nữa, với lời hứa tốt đẹp hấp dẫn hơn phía trước. Cỏ luôn mơn mởn hơn ở bên kia đường. Bầu trời xanh trong hơn ở đại dương khác. Mặt trời rạng rỡ hơn ở chân trời kia.

Ánh mắt sắc bén, tài năng nở rộ, Song Tử hóm hỉnh tuyệt vời, ngoại giao khéo léo, tinh tế… tuy nhiên lại thiếu sự kiên định và kiên nhẫn. Họ mau chóng quăng đi những thứ quý báu đã cũ để thử những thứ mới, và rồi sống để hối tiếc vì phút bốc đồng đó. Chẳng màng tới ai xung quanh, họ chỉ chia sẻ cảm xúc thầm kín nhất với người bạn đường luôn đồng hành, sát cánh bên họ mọi lúc mọi nơi - người anh em song sinh trong chính bản thân. Không khí là nguyên tố, là ngôi nhà thực sự của họ. Họ xa lạ với mặt đất.

Đưa ra quyết định nhanh chóng tùy theo tình huống khiến Song Tử là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho người thân. Song Tử dễ tính, thích giao tiếp và hài hước. Nhưng khi gặp vấn đề nghiêm trọng, họ lại chín chắn và ứng xử rất trưởng thành. Tính cách có phần tương phản đó đã xây dựng nên hình ảnh tuyệt vời của Song Tử. Họ không bao giờ là người nhàm chán vì tự thân luôn muốn làm mới mình.

Song Tử có sức quyến rũ mạnh mẽ, cũng rất dễ bị lôi cuốn bởi tình yêu lãng mạn. Người cung Song Tử giống như những con bướm sặc sỡ bay lượn trên trời, mà thậm chí chính họ cũng không biết phải bay về đâu. Trong chuyện ái tình, Song Tử thường giữ vai trò chủ động. Ngay trong lần hẹn hò đầu tiên, thái độ cùng lời lẽ đầy say đắm kia đã khiến bạn mê mẩn. Chỉ có điều đến lần thứ hai, hứng thú trong họ có thể giảm đi rất nhiều, càng lâu họ sẽ càng chán ngán bạn. Song Tử luôn cần cảm giác mới mẻ. Vì vậy, để kết thân lâu dài, bạn sẽ phải luôn đổi mới, như vậy mới khiến họ hứng thú.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Linda Goodman":Nhân Mã Và Chuyện Tình YêuSong Ngư Và Chuyện Tình YêuSong Tử Và Chuyện Tình YêuXử Nữ Và Chuyện Tình YêuBảo Bình Và Chuyện Tình YêuCự Giải Và Chuyện Tình YêuKim Ngưu Và Chuyện Tình YêuSong TửSư TửThiên Bình Và Chuyện Tình YêuThần Nông Và Chuyện Tình YêuSư Tử Và Chuyện Tình YêuBạch Dương Và Chuyện Tình YêuMa Kết Và Chuyện Tình Yêu

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Song Tử Và Chuyện Tình Yêu PDF của tác giả Linda Goodman nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người (George Berkeley)
Lời người dịch George Berkeley (1685-1753) là triết gia duy nghiệm kiệt xuất người Ireland, một trong những gương mặt quan trọng nhất của nền triết học Tây phương hiện đại thời kì đầu. Lập trường triết học của Berkeley là duy tâm thường nghiệm (empirical idealism), được thể hiện trong câu cách ngôn nổi tiếng “esse est percipi” (tồn tại là được tri giác). Đối với ông, không có gì hiện hữu ngoại trừ các ý niệm và các tinh thần; các ý niệm là cái được tri giác, còn tinh thần (mind hay spirit)1 là cái tri giác những cái được tri giác. Các công trình của Berkeley trải rộng trên các lĩnh vực khoa học, triết học và thần học; riêng trong lĩnh vực triết học thì Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người (1710) và Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous (1713) là hai công trình được biết đến nhiều nhất. Vài nét tiểu sử và sự nghiệp của Berkeley Berkeley chào đời vào ngày 12 tháng Ba năm 1685 ở Hạt Kilkenny, Ireland. Năm 11 tuổi, ông vào học trường Kilkenny ở Dublin. Năm 15 tuổi, ông bước chân vào Học viện Ba ngôi (Trinity College), cũng ở Dubin. Berkeley lấy bằng cử nhân tại đây vào năm 1704, đến năm 1707 lấy bằng Thạc sĩ và được tuyển làm giảng viên (Junior Fellow) của học viện này. Tìm mua: Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người TiKi Lazada Shopee Năm 1709, Berkeley được thụ phong chức chấp sự (deacon) trong giáo phái Anh và xuất bản công trình chính đầu tiên của mình Thử hướng đến một lí thuyết mới về cái nhìn. Trong công trình này, Berkeley bàn về những giới hạn của cái nhìn của con người và đưa ra quan niệm rằng đối tượng thực sự của thị giác không phải là các đối tượng vật chất mà là ánh sáng và màu sắc. Những luận điểm được nêu ra trong công trình này báo hiệu sự ra đời của các công trình triết học quan trọng nhất của ông. Vào năm 1710, khi chỉ mới 25 tuổi, Berkeley xuất bản công trình triết học Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người - Phần I, từ đây chúng tôi sẽ nói gọn là Các nguyên tắc. Công trình này là những nỗ lực của Berkeley gắng tìm cách bác bỏ những yêu sách của John Locke, một triết gia duy nghiệm thuộc thế hệ trước ông, về bản chất của tri giác con người. Nhưng vì công trình này thuộc dạng kén độc giả, chỉ dành riêng cho giới trí thức ở thủ đô London, nên ông bắt tay viết những bài dễ đọc hơn, trong hình thức đối thoại, và cho xuất bản ở London vào năm 1713 dưới nhan đề Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous. Trong thời gian ở London, để xúc tiến việc xuất bản các công trình triết học của mình, ông kết giao bằng hữu với một số nhà trí thức nổi danh thời bấy giờ như nhà thơ Jonathan Swift (1667-1745), nhà thơ, nhà tiểu luận Joseph Addison (1672-1719), nhà soạn kịch Richard Steele (1709-1729), và nhà thơ Alexander Pope (1688-1744). Ông tham gia viết bài cho tờ Guardian của Steele để chống lại tư tưởng tự do của thuyết bất khả tri lúc bấy giờ, nhưng do ông không kí tên vào các bài báo này nên cho đến nay các ý kiến về việc ông có phải là tác giả của chúng hay không vẫn còn bất đồng. Năm 1721, ông xuất bản cuốn Bàn về sự vận động, một luận văn ngắn bàn về những nền tảng triết học của cơ học. Ngoài ra, ông còn có một tập các bản ghi chép những nhận xét triết học trong suốt quá trình phát triển học thuyết duy tâm và thuyết phi vật chất của mình; và tập ghi chép này, thường được gọi là Những nhận xét triết học, ông chỉ viết cho riêng mình nên không có ý định công bố. Năm 1724, Berkeley được bổ nhiệm làm Trưởng Tu viện Derry. Lúc này, ông bắt tay khai triển dự án xây dựng một trường học ở Bermuda với ý nghĩ châu Âu đã trở nên già cỗi sau cuộc khủng hoảng “Bong bóng Biển Nam’’ (South Sea Bubble) và Thế giới Mới sẽ là niềm hi vọng cho tương lai con người. Được Nghị viện Anh hứa tài trợ kinh phí, ông dong buồm sang châu Mỹ vào năm 1728. Sau ba năm hoài công ngồi chờ kinh phí được hứa hẹn, ông trở về Anh. Trong thời gian ở châu Mỹ, ông đã soạn thảo Alciphron, cũng là một công trình triết học và là một suối nguồn quan trọng cho các quan niệm của ông về ngôn ngữ. Sau khi về Anh, Berkeley tập trung viết và cho xuất bản một loạt các công trình: Bài giảng trước Hội Truyền giáo Phúc âm ở nước ngoài (1732), Lí thuyết về cái nhìn (chứng minh và giải thích) (1733), Nhà giải tích hay bài luận gửi cho một nhà toán học vô tín ngưỡng (1734), Bảo vệ tự do tư tưởng trong toán học (1735), Các lí do không đáp lại câu trả lời đầy đủ của ngài Walton (1735), cũng như xem xét lại để tái bản Các nguyên tắc và Ba cuộc đối thoại (1734). Năm 1734, Berkeley được phong Giám mục xứ Cloyne, vì thế ông trở lại Ireland và sống tại đó, tập trung chăm lo cho giáo phận của mình. Năm 1752, ông rời xứ cloyne đi Oxford để giám sát việc học hành của con trai, và không lâu sau đó, ông tạ thế vào ngày 14 tháng Giêng, được chôn cất trong Thánh đường Giáo hội Kitô thuộc địa phận OxfordĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người PDF của tác giả George Berkeley nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Luận Về Yêu (Alainde Botton)
Alain de Botton Sinh năm 1969 tại Zurich, Thụy Sĩ, hiện nay sống ở London. Ông là tác giả của nhiều tiểu luận và được gọi là tác giả của một “triết học về cuộc sống thường ngày”. Các chủ đề của ông có thể là: tình yêu, du lịch, kiến trúc hay văn chương. Các tác phẩm của ông từng trở thành bestseller tại hơn 30 nước. Một số tác phẩm tiêu biểu của Alain de Botton: Luận về yêu, The News: A User’s Manual, How to Think More about Sex, Status Anxiety, The Art of Travel, How Proust Can Change Your Life. Sơ lược về tác phẩm Cuốn sách này chứa đựng chính xác những gì lâu nay ta vẫn muốn biết về tình yêu: Không thiếu ảo tưởng nhưng cũng đầy sáng suốt, mê đắm nhưng biết giữ khoảng cách, nồng nhiệt và rất hài hước nhưng cùng lúc ngập tràn phân tích lạnh lùng. Chính khía cạnh “phân tích” này làm nên sự hấp dẫn nhất của Luận về yêu, vì tác giả đã sử dụng những triết thuyết tưởng chừng khô cứng để tiếp cận tình yêu một cách thấu đáo, từ rất nhiều phương diện, kể cả những phương diện mà những người đang yêu thường muốn giấu kín. Tìm mua: Luận Về Yêu TiKi Lazada Shopee Luận về yêu, tác phẩm thời trẻ của Alain de Botton, hiện nay là một nhà văn, triết gia và diễn giả nổi tiếng thế giới, còn đặc biệt hấp dẫn vì tùy theo tạng riêng của mình, độc giả có thể đọc nó như một tập tiểu luận sâu sắc, hoặc như một cuốn tiểu thuyết vô cùng hấp dẫn và không hề thiếu kịch tínhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Luận Về Yêu PDF của tác giả Alainde Botton nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Luận Về Yêu (Alainde Botton)
Alain de Botton Sinh năm 1969 tại Zurich, Thụy Sĩ, hiện nay sống ở London. Ông là tác giả của nhiều tiểu luận và được gọi là tác giả của một “triết học về cuộc sống thường ngày”. Các chủ đề của ông có thể là: tình yêu, du lịch, kiến trúc hay văn chương. Các tác phẩm của ông từng trở thành bestseller tại hơn 30 nước. Một số tác phẩm tiêu biểu của Alain de Botton: Luận về yêu, The News: A User’s Manual, How to Think More about Sex, Status Anxiety, The Art of Travel, How Proust Can Change Your Life. Sơ lược về tác phẩm Cuốn sách này chứa đựng chính xác những gì lâu nay ta vẫn muốn biết về tình yêu: Không thiếu ảo tưởng nhưng cũng đầy sáng suốt, mê đắm nhưng biết giữ khoảng cách, nồng nhiệt và rất hài hước nhưng cùng lúc ngập tràn phân tích lạnh lùng. Chính khía cạnh “phân tích” này làm nên sự hấp dẫn nhất của Luận về yêu, vì tác giả đã sử dụng những triết thuyết tưởng chừng khô cứng để tiếp cận tình yêu một cách thấu đáo, từ rất nhiều phương diện, kể cả những phương diện mà những người đang yêu thường muốn giấu kín. Tìm mua: Luận Về Yêu TiKi Lazada Shopee Luận về yêu, tác phẩm thời trẻ của Alain de Botton, hiện nay là một nhà văn, triết gia và diễn giả nổi tiếng thế giới, còn đặc biệt hấp dẫn vì tùy theo tạng riêng của mình, độc giả có thể đọc nó như một tập tiểu luận sâu sắc, hoặc như một cuốn tiểu thuyết vô cùng hấp dẫn và không hề thiếu kịch tínhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Luận Về Yêu PDF của tác giả Alainde Botton nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Freud Đã Thực Sự Nói Gì (David Stafford-Clark)
Một người sáng đi ra định bắt tay vào một công việc quan trọng. Ra ngõ gặp gái liền quay về, hôm ấy không đi nữa. Đúng là mê tín. Một người thứ hai cũng ra đi, lỡ chân bước hụt tam cấp suýt ngã. Cho là điềm gở cũng không chịu đi nữa. Một nhà “khoa học” cười là mê tín. Nhưng nếu hỏi Freud ông sẽ bảo người này làm đúng. Vì lỡ chân suýt ngã không phải là điềm gở mà biểu hiện một vướng mắc trong tâm tư, cho biết là người kia chưa thực sự sẵn sàng hào hứng bắt tay vào công việc định làm. Sự kiện “lỡ chân” ấy là biểu hiện của vô thức. Freud không phải người đầu tiên nêu lên khái niệm vô thức nhưng là người đầu tiên bày ra cái “thuật” để thăm dò tìm hiểu vô thức và từ đó để chữa những bệnh rối nhiễu tâm lý. Thuật phân tâmSigmund Freud (1856 - 1939) xuất thân là một bác sĩ sinh ra và lớn lên ở Viên, thủ đô nước Áo vào cuối thế kỷ XIX là một nước lớn ở Tây Âu. Là một bác sĩ xuất sắc, Freud đã tiếp nhận sâu sắc những phương pháp cơ bản của y học Âu châu vào cuối thế kỷ XIX với 2 bộ phận chủ yếu: một bên là lâm sàng kỹ lưỡng rồi vận dụng những phương tiện vật lý học nghiên cứu thể chất con người, tạo nên một nền y khoa sinh học, phát hiện những thực tổn và căn nguyên của các bệnh tật. Mỗi một giả thuyết đều phải được chứng minh thông qua thực nghiệm. Tốt nghiệp y khoa, Freud vào công tác ở một phòng thí nghiệm sinh lý thần kinh và đã có những công trình đáng kể về mặt này. Nhưng theo Freud ghi lại trong hồi ức thì cần phải tìm một nghề có thù lao khá hơn là làm phòng thí nghiệm, nên phải chuyển sang nghề chữa bệnh và ông đã đi vào chuyên khoa các bệnh gọi là thần kinh. Vào thời ấy, mặc dù giải phẫu sinh lý thần kinh và bộ não đã có những thành tựu đáng kể, ngành y vẫn vấp phải một loại hiện tượng tâm lý, dù hết sức tìm tòi cũng không thể nào phát hiện được tổn thương thực thể, bệnh không để lại một dấu tích thể chất nào cả, thật là những bệnh “vô tích sự”.Đặc biệt là một chứng bệnh khá phổ biến, với một loại triệu chứng xuất hiện từng cơn, hiện ra, biến mất, đột xuất không hiểu vì đâu. Cứ như là bệnh nhân đóng kịch vậy, bỗng nhiên liệt chân không đi được, mù không thấy, câm tịt không nói nữa, rồi một lúc nào đó bệnh lại biến mất. Y học gọi đó là hystêri. Các bác sĩ thời ấy, người thì nhún vai bĩu môi bảo là bệnh tưởng tượng, chẳng cần quan tâm đến, người thì cho rằng thế nào rồi vật lý học tiến lên sẽ tìm ra tổn thương ở hệ thần kinh, nhất là ở não, người thì cho rằng phải tìm nguyên nhân không phải trong thể chất mà trong cái “tâm”. Nhưng lý luận thế nào thì chưa rõ, bệnh nhân và gia đình vẫn đòi hỏi được chăm chữa. Bắt đầu, Freud dùng phương pháp thôi miên được thông dụng thời ấy. Kết quả nhiều khi ngoạn mục, có những bệnh nhân bại liệt hàng tháng, mù câm, đau bụng, đau đầu, nhức xương kinh niên, sau thôi miên “thầy” chỉ cần bảo: đứng dậy mà đi, nói đi, bệnh của anh hết rồi, là lành bệnh. Freud và ông bạn chí thân là Bruer vận dụng thôi miên bắt đầu nổi tiếng. Nhưng dần thấy rõ kết quả thôi miên không được lâu dài và sau một thời gian, hết chứng này lại xuất hiện những hiện tượng khó hiểu. Trong bệnh hystêri có những ca bệnh nhân tưởng tượng là mình có thai, bụng phình lên và tâm tư thay đổi đúng như một người thai nghén. Một hôm, một phụ nữ xinh đẹp xông vào phòng khám của bác sĩ Breuer bảo: tôi sắp sinh con của ông đấy. Breuer hoảng hốt vì đã có có vợ con, phải bỏ trốn khỏi thành phố Viên mấy tuần sau đó, bỏ luôn cả nghề chữa bệnh thần kinh. Freud vẫn tiếp tục, rồi phát hiện ra là những người hystêri như vậy có những nét tâm lý đặc biệt và khác với người bình thường, có những hành vi, những lời nói hình như bị ai xui khiến không làm chủ được. Bình thường trong cuộc sống hàng ngày, phải đối phó với thế giới vật chất và phản ứng của những người khác trong một nền văn hóa xã hội nhất định, cho nên mọi hành vi đều phải có ý thức để thích nghi với thực tế. Làm việc gì thường có ý định, có ý nghĩa, tức là phù hợp với hoàn cảnh thực tế, có lý lẽ phù hợp với lý lẽ thông thường của xã hội. Nhưng cũng có biết bao hành vi vô lý, vô nghĩa, làm như con người bị “ma quỷ” nào thúc ép hay cấm đoán. Điển hình nhất là những giấc mộng diễn ra bất kể thời gian, không gian nào với những câu chuyện vô lý nhất. Freud dần dần nhận ra những triệu chứng của nhiều bệnh nhân, cùng với giấc mộng, những hành vi lỡ tay, lỡ lời đều là những hiện tượng rất gần gũi nhau và phỏng đoán từ những hiện tượng này đều có đường dẫn đến những cấu trúc và cơ chế của vô thức. Tìm mua: Freud Đã Thực Sự Nói Gì TiKi Lazada Shopee Muốn hiểu phân tâm học, bước đầu tiên là phải hiểu cái thuật phân tâm là phương pháp cơ bản để nhìn vào vô thức và chữa trị bệnh nhân. Và muốn phê phán phân tâm học không thể bắt nguồn từ triết lý, từ hệ tư tưởng mà từ sự đối chiếu kết quả chẩn đoán và chữa trị các rối nhiễu tâm lý. Luận thuyết phân tâm họcVới cái vốn học vấn đồ sộ của bản thân, Freud không thể bằng lòng với kinh nghiệm chữa bệnh thuần túy. Từ những kinh nghiệm cụ thể, Freud đã kiến tạo ra một hệ thống những khái niệm cơ bản để lý giải những phức tạp của tâm lý học. Hệ thống ấy gọi là métapsychologie, có người dịch là siêu tâm lý học. Thực chất đây không có gì là siêu nhiên cả, đây là một luận thuyết trong nhiều luận thuyết khác của tâm lý học. Bài tựa này không đi sâu vào những khái niệm sẽ được trình bày trong sách, chỉ nêu lên ý nghĩa của một vài từ. Luận thuyết Freud mang tính thứ nhất là topique. Topos là vị trí, khu trú, có ý xem cái tâm của con người được chia ra thành những khu riêng biệt với nhân cách con người có những ngôi riêng biệt với những vị trí riêng biệt. Luận điểm cơ bản thứ hai mang tên là dynamique, có ý nói là mọi hành vi hiện tượng tâm lý đều phải có một nguồn năng lượng mới thể hiện ra được và cái tâm thường xuyên ở vào tình trạng động với một xu thế chuyển động nhất định. Luận điểm thứ ba ông gọi là économique tức kinh tế, ở đây phải hiểu theo nghĩa là nguồn năng lượng nói trên được phân phối như thế nào, đầu tư vào đâu. Cái lực thúc đẩy tâm lý học thường gọi là bản năng (instinct) và nhận ra hai bản năng cơ bản: bản năng bảo vệ sự tồn tại của cá thể và bản năng bảo đảm sự tái sinh sản nòi giống. Lúc đầu Freud cũng chấp nhận hai bản năng này, nhưng sau nhiều năm tiếp xúc với thực tiễn và nghiền ngẫm, ông đã đi đến kết luận là có hai bản năng (ông gọi là xung năng - tiếng Pháp: pulsion - tiếng Anh: drive - tiếng Đức: Triebe): một là Eros vừa là tính dục vừa là xung năng sống, hai là Thanatos tức là xung năng chết. Ông cho rằng sinh ra là ngay từ đầu con người đã mang trong mình bản chất cái chết, chứ không phải trong con người chỉ có bản năng tự bảo tồn để sống mãi. Luận thuyết này đã gây ra những tranh cãi hết sức sôi nổi, đến nay vẫn chưa ngã ngũ. Một điều đáng chú ý là Freud từ những hiện tượng bệnh lý của người lớn đã vạch ra cả một quá trình phát triển tâm lý suốt thời bé và nhấn mạnh những gì đã xảy ra vào thời tấm bé có ảnh hưởng quyết định đến cả cuộc đời của một con người. Freud chỉ quan sát con của ông một vài lần và chỉ nghiên cứu một ca bệnh trẻ em, thế mà những khái niệm và luận điểm ông nêu lên về sự phát triển tâm lý ở tuổi bé phần lớn sau này được những học giả chuyên về trẻ em công nhận là đúng. Ngày nay, giở bất kỳ một quyển sách khoa tâm lý nào, của bất kỳ nước nào (quyển Tâm lý học Trung Quốc chúng tôi mới nhận được năm 1996) cũng thấy trình bày những khái niệm Freud đã đưa ra. Học tập nghiên cứu tâm lý, nhất là tâm lý trẻ em không thể không biết đến phân tâm học.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Freud Đã Thực Sự Nói Gì PDF của tác giả David Stafford-Clark nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.