Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Quý Ngài Tài Năng

Hơn nửa thế kỉ trước, Patricia Hightsmith đã giới thiệu đến độc giả một trong những nhân vật phản anh hùng ấn tượng nhất, Tom Ripley. Cuốn sách kể lại hành trình của Tom từ một thanh niên hiền lành, rụt rè trở thành một kẻ giết người tâm thần, lạnh lùng. Câu hỏi đặt ra cho người sau khi khép lại câu chuyện là: ta nên chấp nhận một cuộc sống tầm thường hay đánh đổi bản thân để có cuộc sống đáng mơ ước? “Đầy mê hoặc... Cuốn sách vê Ripley không dành cho những tâm hồn yếu đuối và nhạy cảm.” Tờ Washington Post khen ngợi. Cuốn sách từng được chuyển thể thành phim, ra mắt năm 1999, đem về 5 đề cử giải Oscar và nhiều giải thưởng tại các liên hoan phim danh giá. *** “Bốn năm qua phần lớn là lãng phí, không thể phủ nhận điều đó. Những công việc lung tung, những khoảng thời gian dài không có việc làm và tình trạng thoái chí tất yếu vì không có tiền, rồi bắt đầu giao du với những kẻ ngu ngốc, ngớ ngẩn để không phải cô đơn, hoặc vì họ có thể tạm thời cung cấp cho anh một thứ gì đó, như Marc Priminger chẳng hạn.” Đây có lẽ là một trong những câu khiến tôi rất thích vì nó miêu tả được tình trạng chán chường của Tom Ripley - cũng chính là căn nguyên của mọi tội lỗi sau này mà anh chàng sẽ gây ra. Có lẽ rất hiếm khi các nhà văn dùng ác nhân làm nhân vật chính trong tác phẩm của mình. Ấy thế mà Patricia Highsmith thì đã tận dụng sự trái ngược ấy để tạo ra điểm nhấn khác lạ cho “Quý ngài tài năng” (The Talented Mr.Ripley). Nhưng chính vì sự kỳ lạ trong cách xây dựng hình tượng nhân vật đã làm cho đọc giả vô cùng tò mò và thích thú với nghi vấn: Liệu sự ngược đời này sẽ được thể hiện thế nào qua cốt truyện về cuộc đời của nhân vật Ripley – một kẻ tài năng như hắn liệu có đánh mất chính mình? Và các giá trị đạo đức và chuẩn mực cũ liệu có còn phù hợp khi đem vào phân tích tác phẩm này hay không? Dưới góc độ trực quan, chúng ta có thể xem cuốn sách này kể lại hành trình tẩu thoát của Mr.Ripley Tom chơi với Dickie – một công tử nhà giàu, chính vì cuộc sống xa hoa của Dickie đã vực dậy trong lòng Tom khao khát sống trong nhung lụa. Từ đó, ác tâm trỗi dậy và Tom sát hại Dickie với động cơ là thừa hưởng cuộc đời hoa mỹ từ nạn nhân. Biệt tài bắt chước người khác đã được Tom sử dụng triệt để nhằm giả danh thành Dickie. Từ khả năng giả giọng và mô phỏng chữ ký điêu luyện cho đến tài “tùy cơ ứng biến” trong mọi tình huống, anh ta đã trót lọt qua mặt được sự điều tra của cảnh sát. Sự nhẫn tâm trong tính cách của Tom đã khiến anh ta quyết tâm trở thành Dickie cho bằng được và thành công trong việc tạo hiện trường giả cho cái chết ấy đã chứng minh sự tỉ mỉ và khéo léo bên cạnh dã tâm vô cùng lớn của anh ta. Điều khiến tôi thích thú nhất với nội dung là rất nhiều lần Tom có nguy cơ bị lật tẩy nhưng trong những giây phút “ngàn cân treo sợi tóc” nhất thì hắn đều lươn lẹo thoát được và trở thành nhân vật phản diện hấp dẫn đọc giả một cách lạ kỳ. Chính vì các tình huống “mèo vờn chuột” xảy ra trong truyện như thế mà bất thình lình, tôi có lúc lo lắng rằng Tom sẽ bị bắt và thậm chí là hy vọng hắn đừng bị lộ tẩy vì nếu không thì câu chuyện sẽ kết thúc mất. Cảm giác kịch tính này tương tự như lúc xem phim “Trò chơi ma sói”, khi người xem lúc nào cũng lo lắng việc các con ma sói ẩn náu trong đám dân làng bị phát hiện và phim sẽ kết thúc sớm. Tôi nghĩ việc tạo ra được hiệu ứng trái ngược này đều là nhờ vào tài năng xây dựng nội tâm nhân vật của Patricia Highsmith. Chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy được sự mâu thuẫn trong tâm lý của Tom, một mặt hắn ta chỉ đơn giản là ước ao một cuộc sống giàu sang đúng nghĩa, mặt khác thì ác tâm trỗi dậy trong lòng là những giây phút cám dỗ quá lớn khiến hắn không kiểm soát được lý trí – tựa như thật sự không muốn làm nhưng vẫn ra tay vì một phút yếu lòng. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc xây dựng cuộc đấu tranh tâm lý của nhân vật thì quyển sách này đã không nổi tiếng đến vậy. Đằng sau sự tàn ác của nhân vật chính là sự mỉa mai và bóc trần của tác giả dành cho xã hội ấy. Tom có thể thoát khỏi việc bị bắt không chỉ nhờ âm mưu và sự lươn lẹo mà mọi thứ trở nên hoàn hảo như thế đều có sự góp phần của những người xung quanh. Bức tranh về một xã hội u tối đã được Patricia Highsmith vẽ ra đầy thuyết phục và chính sự thối nát về mặt đạo đức đã khiến cho tội ác nghiễm nhiên tồn tại mà không để lại dấu vết. Thực ra, nếu chiêm nghiệm kỹ về “Quý ngài tài năng”, chúng ta có thể nhìn thấy được chính mình ở nhân vật Tom Ripley. Một thời tuổi trẻ cuồng dại với khao khát được chứng tỏ bản thân và tìm kiếm giá trị sống cho cuộc đời. Ước mơ về một cuộc sống giàu sang thì tôi tin là ai cũng có và lòng tham luôn là một trong ba thói xấu tồn tại trong chúng ta. Chính vì tác giả xây dựng một nhân vật gần gũi với bản chất con người như thế nên đã tạo được sự đồng cảm cho bạn đọc. Có một câu nói của Tiến sĩ Lê Thẩm Dương như sau: “Bạn cảm thấy đạo đức là vì bạn chưa có cơ hội làm sai.” Khi chúng ta rơi vào tình huống như Tom, chắc gì trong lòng không trỗi dậy ác tâm vì một cuộc sống xa hoa phú quý. Và có thể nhiều người còn tàn nhẫn và tinh vi trong việc dàn dựng hơn cả Tom ấy, chẳng qua là chưa rơi vào tình huống ấy thì còn nghĩ bản thân cao đẹp mà thôi. Cái giá phải trả dĩ nhiên rất đắt vì khi đánh đổi mạng sống của người khác để giả danh và “sống hờ” cuộc đời của họ, chúng ta không còn là chính mình nữa. Vậy thì bạn có chấp nhận cách sống ấy như Mr.Ripley không?! Hãy nhớ thêm một điều kiện là bạn được sinh ra trong một hoàn cảnh thấp hèn, nghèo mạt, thiếu sự giáo dục về nhân cách, thiếu tình yêu thương của mọi người và luôn cảm thấy cuộc đời bất công. Dĩ nhiên là tôi không cổ xúy cho tội ác nhưng tôi thực lòng có chút đồng cảm cho cuộc đời của nhân vật. Về nguyên tắc, tôi ác nào cũng đáng bị trừng phạt dù có là vì nguyên cớ gì. Mà ở đây, Tom không chỉ phạm một tội ác, đáng lẽ ra không nên cổ vũ và thương cảm cho hắn. Nhưng một chút tình và một chút phân tích sâu xa hơn cần được đưa ra để có góc nhìn đa chiều hơn. “Quý ngài tài năng” là một quyển sách đáng đọc khi nó cho chúng ta thấy được khía cạnh đen tối nhất trong sâu thẳm tâm hồn con người cũng như góc tối của xã hội thời bấy giờ. Yếu tố tâm lý tội phạm đã được tác giả khai thác gần như hoàn hảo. Sự chân thật đến từng hành vi của nhân vật đã được bộc lộ một cách tinh tế khiến chúng ta cảm giác tâm tư của bản thân cũng hệt như Tom. Thế mới biết khi tham sân si là những điều không thể tránh khỏi thì việc một người bình thường hóa thành kẻ sát nhân cũng không có gì đáng kinh ngạc. *** Patricia Highsmith – nữ tác giả của loạt tiểu thuyết tội phạm này - đã thao túng lòng thương của chúng ta, lợi hại đến nỗi chúng ta dường như không thể ngừng cổ vũ cho gã sát nhân máu lạnh Tom Ripley — một nhân vật phản anh hùng, đầy mưu mô và toan tính.    Tôi biết điều này nghe có vẻ nhàm chán nhưng hãy thành thật đi, có phải bạn chỉ toàn đọc sách về những nhân vật mang lại cho bạn cảm giác họ là những người  “dễ thương” và “đáng mến”? Và bạn cũng sẽ sẵn sàng ném một cuốn sách sang một bên nếu như nó chẳng hề cho bạn thấy bất cứ một ai để bạn cưng nựng hay yêu thích cả? Trong cộng đồng văn học những năm gần đây, cuộc tranh luận về vấn đề này đã luôn diễn ra rất sôi nổi, nhưng thi thoảng, tôi vẫn luôn tự hỏi liệu có phải mọi người đang làm quá lên. Tôi rất hiếm khi nghe thấy người ta than thở về việc họ “không thích bất cứ một nhân vật nào” trong cuốn tiểu thuyết mà họ đọc, mà thay vào đó, tôi thường hay thấy người ta than thở về những người đã buông ra câu than thở này thì đúng hơn. Khi tôi mò vào Google và gõ cụm từ “những nhân vật đáng mến”, ngay lập tức tôi tìm thấy những kết quả đến từ những trang New York Times, The New Yorker, hay thậm chí ngay trong The Guardian, tất cả đều đặt những vấn đề như: Nhân vật của tiểu thuyết không nhất thiết lúc nào cũng phải dễ thương. Nhưng thực tế là, có rất ít những người đọc cảm thấy tức giận chỉ bởi vì họ không tìm thấy một người “đàng hoàng” nào trong tác phẩm để có thể đứng về phía người đó, mà hầu như chỉ toàn là những tin tức lên án hoặc chỉ trích đến từ những người đặt ra vấn đề về tầm quan trọng của một nhân vật “khó ưa” trong trong văn học cổ điển cũng như hiện đại. Việc bạn giới hạn bản thân mình, nhốt tù sự đọc vào những quyển sách chỉ viết về những nhân vật đáng mến thực chất là một việc làm dẫn bạn đi ra xa khỏi vùng đất văn chương trù phú và hay ho nhất. Nói cách khác, đó là bạn đã từ chối cảm thụ sự phức tạp trong tâm lý cũng như bản ngã về nhân tính của con người. Bạn cũng sẽ không thể nào bao dung nổi với những phận đời thảm hại, nhu nhược và nhút nhát. Nếu như bạn không thể chịu đựng được Hamlet với một chút đau thương hay căm hận, thế thì làm sao bạn có thể ứng phó được với những con người bằng xương bằng thịt ở ngoài đời thực bây giờ? May mắn ở chỗ, tôi đã biết được một liều thuốc tinh thần. Nếu như bạn biết được người nào thích đọc về những nhân vật đáng mến, những người không thể trở-nên-tồi-tệ, thì làm ơn hãy cho họ đọc “The Talented Mr.Ripley” của nữ tác giả Patricia Highsmith. Tôi tin chắc với bạn rằng, nó sẽ cho họ hết mọi thứ mà họ cần.  Rất khó để không đứng về phía của Tom Ripley, càng khó hơn để không thích anh ta, hoặc không muốn anh ta chiến thắng. Patricia Highsmith đã thể hiện điều này một cách xuất sắc, khi Ripley gần như chiếm trọn hết sự thương cảm từ bạn đọc. Đây là một câu chuyện kinh điển đến từ một người đàn ông có xuất phát điểm không mấy thuận lợi và hầu như không được bất kỳ ai tôn trọng, nhưng cũng chính người đàn ông này, bằng nghị lực và bản lĩnh, rốt cuộc đã tìm được chỗ đứng cho riêng mình. Hắn đã có một thuở thơ ấu vô cùng khắc nghiệt, mất đi đấng sinh thành và cuối cùng được nhận nuôi bởi một bà dì thường hay gọi hắn là một “thằng bóng ẻo lả”. Và phải, nhiêu đó vẫn không khiến Ripley từ chối trở thành một người đàn ông lịch thiệp, khiêm nhường, và cần mẫn. Hắn được miêu tả là một người rất hay ngại ngùng và lo lắng, thường xuyên suy nghĩ nhiều về ấn tượng của mình khi gặp người khác vào lần đầu tiên, lúc nào cũng tự kiểm điểm mình và luôn cố gắng tìm cách cải thiện bản thân.  Hắn ta cũng là một người mơ mộng hão huyền. Ngay từ khi câu chuyện bắt đầu, chúng ta đã có thể thấy được hắn nghĩ về cuộc gặp mặt giữa mình với Mr. Greenleaf – một ông chú với khối tài sản khổng lồ – ví von nó giống như “ một cảnh vừa xảy ra trong phim điện ảnh”, và từ đó, hắn dường như không thể để đôi mắt tham lam và ngây thơ của mình ra khỏi những cơ hội tốt lành, để hắn có thể được dấn thân và thâm nhập vào xã hội thượng lưu hào nhoáng, rủng rỉnh tiền nong và đầy chất thơ đó. Tất cả những điều ấy không thể phủ nhận rằng, dĩ nhiên, Ripley là một tên khốn nạn. Việc hắn có thể tỏ ra lịch thiệp và quyến rũ, một phần đến từ bản chất khôn ngoan, có thể qua mặt được người khác chỉ bằng một vài lời nói dối đơn giản. Hắn cũng có khả năng bắt chước, nhại lại tính cách của người khác một cách tuyệt vời. Hắn đào thoát khỏi những vết tích tội lỗi mà mình gây ra với vẻ vô cùng bình tĩnh và đầy phong cách. Hắn cũng sở hữu sự thèm khát cho những chuyến phiêu lưu, bằng cách đưa bản thân mình vào tình huống khó nhằn hay những địa danh mới lạ. À, và hắn còn là tay “bo” rất dữ dội nữa! Gã sát nhân kinh điển có gì mà không thích chứ? Tôi nghĩ là ai trong chúng ta cũng có thể khẳng định được rằng : Tom Ripley là một kẻ sát nhân máu lạnh. Chẳng tốt lành gì khi câu chuyện dẫn dắt chúng ta đến với cảnh tượng đẫm máu đó, khi hắn đã xuống tay đánh đập Dickie Greenleaf đến chết, sau đó cột anh ta vào tảng đá to tướng ở giữa lưng, thả anh ta xuống biển và sau cùng là đánh chìm con thuyền nhỏ mà hai người mượn để ra khơi. Sự thật là, khoảnh khắc này nhập nhằng hơn chúng ta tưởng. Xuyên suốt câu chuyện, Highsmith đã dẫn dắt chúng ta đi vào đầu của Tom. Bà đã vô cùng khéo léo và cam đoan trong cách miêu tả, để chúng ta có thể thấy được thế giới được thu vào thông qua góc nhìn một chiều, cảm nhận được những cung bậc xúc cảm, hiểu được vấn đề và ham muốn cốt lõi của nhân vật này. Vô tình, chúng ta tự gắn mình vào nhân vật, và có cảm giác như Highsmith cũng vậy. Không bất ngờ khi biết được rằng, trong đời sống cá nhân, nữ tác giả cũng có một thói quen khá kì quặc –gần như là mất trí – khi bà chọn cách ký tên ở mỗi bức thư mà mình gửi đi với dòng chữ “thương mến từ Tom.”, y hệt như nhân vật của bà. Và phải, hầu như rất thường xuyên, luôn có một sự nhắc nhở không thoải mái về cách mà Tom nhìn về thế giới bên ngoài – giống như vụ giết người đó, nó thật không bình thường một chút nào. Đó là một tội ác và càng kinh tởm hơn khi Highsmith đã rất tinh tế trong cách mà bà khiến cho chúng ta cảm thấy thương xót cho nhân vật Dickie. Tất cả đều đến từ cách mà bà xây dựng nhân vật này. Tom đã giết chết một người đàn ông được miêu tả là tốt bụng, hiền lành, kể cả khi anh ta đang ở trong giai đoạn bị mất phương hướng, nhưng vẫn hạnh phúc ca thán rằng :”Tôi thề mình sẽ không bao giờ đốt trụi cả thế giới cho đến khi nào tôi còn là họa sĩ.” Dickie nói. “Nhưng chắc chắn tôi sẽ thích thú khi làm chuyện đó.” Mà thật ra, Dickie cũng có những tội lỗi của mình, và phải, đáng lẽ ra anh ta nên để ý đến người mẹ nghèo nàn, bệnh tật đang từng ngày trông ngóng mình ở nhà. Nhưng Dickie cũng đã tìm cách chuộc lỗi bằng việc đi ra khỏi cái bóng kiểm soát to tướng của cha mình để tìm đến một chút ánh nắng từ con đường họa sĩ dịu dàng, tô điểm cho thế giới chung quanh, làm nhạt đi vẻ ảm đạm vốn có. Ngay cả trong những giây phút cuối cùng, khi anh ta nhận ra được người bạn của mình, Tom Ripley, đã phản bội mình trên một chiếc thuyền dính đầy máu, Dickie chỉ có thể thốt lên : “Ôi Lạy chúa!” và lời cầu cứu trong bế tắc này đã lột rõ sự thất vọng hơn là một sự tố cáo cay nghiệt. Cái chết của Greenleaf khiến cho chúng ta, ngay tại lúc đó, từ thương cảm chuyển sang căm ghét và phẫn nộ với Ripley hơn cả. Nhưng rất may mắn đó là, Highsmith đã nhanh chóng đưa chúng ta quay trở lại với ẩn ý ban đầu – và ngay tại đây, chúng ta có thể nhận ra tài năng xoay chuyển tình thế của bà. Highsmith đã khiến cho chúng ta đứng ngồi không yên với sự xảo quyệt của Tom, nỗ lực của hắn khi ra sức che giấu tội ác hết lần này đến lần khác, và chúng ta một lần nữa leo lên chiếc thuyền tù tội ấy với hắn. Hoàn toàn tin vào khả năng lèo lái bởi vì hắn chính là thuyền trưởng.Câu chuyện nghiễm nhiên trở thành một chuyến hành trình đầy lắt léo, công phu và cực kỳ gay cấn. Tình tiết căng thẳng đến mức khiến chúng ta lo sợ rằng Tom sẽ có thể bị bắt vào một phút nào. Có một phân cảnh mà Tom bị đẩy vào tình thế nguy hiểm, đến mức người đàn ông này sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn tàn ác, rốt cuộc cũng chỉ để cho bản thân được cảm thấy an toàn. Dĩ nhiên, khoảnh khắc đó cũng nhắc nhở người đọc rằng Tom Ripley là một kẻ giết người tâm thần. Highsmith đã âm thầm nhấn mạnh điều này trong suốt câu chuyện bằng một loạt những chi tiết nhỏ gây khó chịu. Dẫn đến việc đọc cuốn sách không những mang lại một cảm giác không thoải mái, mà lại còn rất thú vị. Câu chuyện đã được xử lý để khiến chúng ta đặt nhầm sự thương cảm của mình vào kẻ sát nhân, cảm thấy vui, kể cả khi hắn đang gặp may mắn. Tom quả thật sự là “đáng mến”, và chúng ta đã bị dẫn dụ vào sâu bên trong đầu của hắn, đến nỗi cảm thấy tội lỗi với suy nghĩ “đồng phạm” của chính mình. Trong lúc bị ngấm vào câu chuyện này, tôi thường xuyên thấy mình hi vọng một cách nửa vời rằng Tom sẽ thoát khỏi mọi tội ác của mình, miễn nhiễm truy tố với mọi giết chóc. Điều đó thật kinh tởm! Tôi biết chứ, nhưng nó cũng thật là tuyệt vời. Biết nói sao nhỉ? Highsmith khiến bạn căm ghét chính mình bằng cách làm cho bạn đi cổ vũ Tom Ripley. Suy cho cùng, những người đọc yêu thích những kẻ “đáng mến”, họ thật sự cần phải cẩn thận với những gì họ ao ước…trước khi quá muộn. Điền Nguyên Mời bạn đón đọc Quý Ngài Tài Năng của tác giả Patricia Highsmith & Mai Trang (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điệu Ru Nước Mắt
Đến loại tiểu thuyết gọi là du đãng, Duyên Anh đã cẩn thận nhấn mạnh : “Tuổi trẻ bơ vơ, thèm xả thân cứu giúp đời, mà rốt cuộc tinh thần hào hiệp đó biến thành tinh thần du đãng” . Đã hơn một lần, cũng trong Điệu Ru Nước Mắt, Duyên Anh nói về những người trẻ tuổi này là “những thằng trong sạch nhất trong xã hội” , “du đãng nhiều thằng lương thiện gấp bội những thằng to tiếng đòi giáo dục du đãng” hay “xã hội du đãng cũng ăn đứt xã hội đạo đức giả”. Chúng nổi loạn vì cô đơn, “nổi loạn tâm hồn” vì “bất mãn gia đình, học đường, tổ quốc”, hoặc thù đời, “khinh miệt cuộc đời, vì cuộc đời cứ coi nó là du đãng ” Trong bài nói chuyện với nhà văn Đỗ Tiến Đức, Duyên Anh cho biết khi viết “cuốn tiểu thuyết du đãng đầu tiên là cuốn Điệu Ru Nước Mắt là lúc các tướng lãnh mình đảo chánh nhau, ông tướng này bắt ông tướng kia, nay là tướng anh hùng mai là tướng gian, lung tung hết. Dưới mắt một nhà văn thì tình trạng đó nản quá, chẳng còn gì đáng ca ngợi nữa. Với phản ứng đó, tôi mới đem du đãng ra ca ngợi, thế thôi”. Duyên Anh đã viết về tuổi trẻ du đãng với cái nhìn âu yếm, hiểu biết, có khi ông đã phẫn nộ như trong Ảo Vọng Tuổi Trẻ : “Hình phạt nào mới xứng đáng cho một tên lừa gạt tuổi trẻ, cho những tên làm ung thối một thế hệ mới vươn lên để tìm chỗ đứng cho dân tộc dưới ánh mặt trời” Xã hội này có luật lệ của nó nhưng cũng có những phẩm tính tốt như yêu thương nhau, biết đùm bọc nhau. Có tuổi trẻ vì hoàn cảnh mà đi du đãng như Trần Đại, Nguyễn Đạm, Trần Long, Trần Thị Diễm Châu, Lê Hùng, v.v. đã học xong trung học, có người đậu cả tú tài Pháp. Họ cũng hào hoa phong nhã và “rất nghệ sĩ”. Một đính chính cho cảm thông. Vì tuổi trẻ đường xá này sẽ chấp nhận hoàn lương, vào trường các nữ tu như trong Trần Thị Diễm Châu “xã hội không cải thiện cuộc đời của du đãng thì nội trú Hòa Hưng sẽ cải thiện họ”. Và tuổi trẻ du đãng cũng sẽ nhập ngũ làm bổn phận công dân thời chiến. Một nhân vật của Sa mạc tuổi trẻ : “quân đội là nơi lý tưởng nhất để nó làm lại cuộc đời” và “kỷ luật quân đội dạy người lính trở nên chín chắn, biết yêu biết ghét đúng đắn”. Trần Đại của Điệu Ru Nước Mắt được đàn em James Dean Hùng khen “Anh Trần Đại được làm tướng đi đánh nhau với cộng sản, chắc chắn anh ấy thương lính của anh ấy như thương chúng mình, anh ấy lại ‘cừ” nữa, cộng sản cứ gọi là hết ngáp…” GIA ĐỊNH 6-1-1965 ĐIỆU RU NƯỚC MẮT – Truyện dài của Duyên Anh *** NHÀ VĂN DUYÊN ANH: ĐỜI LƯU VONG BI KỊCH Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái Bình và Hà Nội. Là một trong những nhà văn nổi tiếng của miền Nam trước năm 1975, Duyên Anh được biết đến như một con người nhiều tài, lắm tật, miệng làm hại thân! Duyên Anh thích "tháu cáy" và khích tướng đối thủ, nhưng lại rất cay cú khi bị người khách "tháu cáy". Năm 1954, Duyên Anh di cư vào Nam. Để kiếm sống, ông đã làm mọi công việc của một thanh niên hè phố, chẳng có nghề ngỗng nào nhất định. Khi thì theo một nhóm sơn đông mãi võ, khi tháp tùng đoàn cải lương lưu diễn đây, mai đó. Lại có lúc quảng cáo cho gánh xiếc rong, rồi giữ xe đạp hội chợ… Sang trọng nhất là làm gia sư, dạy kèm cho trẻ con và dạy đàn ghita, sáo trúc cho những người theo học vỡ lòng nghệ thuật. Duyên Anh làm thơ rất sớm, đến những năm cuối của thập niên 50, ông bắt đầu viết văn xuôi. Viết để thỏa mãn giấc mơ cầm bút, chẳng đăng đâu cả. Mãi đến năm 1960, ông được nhà văn Trúc Sĩ dẫn tới diện kiến nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, lúc đó đang làm chủ bút tờ Chỉ Đạo. Bài thơ "Bà mẹ Tây Ninh" - sáng tác đầu tiên của ông được đăng trên tờ báo này. Một tháng sau, thêm truyện ngắn "Hoa Thiên Lý", rồi "Con sáo của em tôi" tiếp tục có mặt trên tờ Chỉ Đạo, với lời giới thiệu bốc tới mây xanh của Nguyễn Mạnh Côn. Ngay lập tức, ông được người đọc đón nhận nồng nhiệt. Mỗi truyện được trả nhuận bút 5.000 đồng, thời đó mua được hơn một cây vàng. Nguyễn Mạnh Côn tỏ ra rất ưu ái, tận tình nâng đỡ Duyên Anh để sáng tác của ông thường xuyên xuất hiện trên văn đàn. Và đây cũng là đầu mối oan nghiệt cho cả hai sau này. Đến năm 1961, khi ông Nguyễn Mạnh Côn rời tạp chí Chỉ Đạo thì Duyên Anh đã thành danh. Ông bắt đầu tung hoành làng báo Sài Gòn với nhiều bút danh khác nhau: Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Nã Cẩu, Lệnh Hồ Xung, Độc Ngữ… bằng một giọng văn châm chọc, hết sức cay độc. Thời đó, có hai nhà văn làm báo mà người ta sợ nhất, đó là Chu Tử với bút hiệu Kha Trấn Ác, trong mục Ao Thả Vịt và Duyên Anh. Nạn nhân của Duyên Anh không phải chỉ toàn là người xấu, mà nhiều khi chỉ là một ai đó bị ông ghét, cũng bị ông lôi lên mặt báo, "đánh" không thương tiếc! Sự kiêu căng, miệng lưỡi cay độc của ông đã gây dị ứng cho không ít người. Một nhân vật lãnh đạo chóp bu của VNCH, khi lưu vong ở Mỹ đã bắn tiếng với ông Tô Văn Lai của chương trình Thúy Nga Paris rằng: "Bảo thằng Duyên Anh câm mồm nó lại". Duyên Anh được xem như tay tổ trong loại sách "xúi con nít đập lộn", với những cuốn tiểu thuyết viết về giới du đãng rất ăn khách như "Điệu ru nước mắt", "Sa mạc tuổi trẻ", "Vết thù trên lưng ngựa hoang". Tác phẩm của ông từng ngợi ca tay anh chị Trần Đại (Đại Ca-Thay) như một kẻ giang hồ mã thượng. Trong một bài phỏng vấn, tuần báo Đời hỏi ông: Tại sao trong thời buổi nhiễu nhương lại tôn vinh một tay du đãng, sống ngoài vòng pháp luật lên tận mây xanh? Duyên Anh trả lời: "Chính vì thời buổi nhiễu nhương, không có thần tượng cho tuổi trẻ, nên phải đi tìm cho họ một mẫu thần tượng. Xem ra, Trần Đại là xứng đáng hơn cả". Duyên Anh là người thẳng thắn, yêu, ghét rạch ròi. Đã quý mến ai rồi thì ông sống trọn tình, trọn nghĩa với người đó. Năm 1978, Duyên Anh gặp lại Nguyễn Mạnh Côn trong trại cải tạo. Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn có thâm niên hơn 40 năm là đệ tử của ả phù dung nên sức khỏe rất yếu. Biến chứng tâm, sinh lý của một con người có quá trình "phi yến thu lâm" (đọc trại cho… sang chữ "phiện, thú lắm") quá dài nên khi bị bắt buộc phải cai, cơ thể ông bị hành hạ liên tục. Do đó, sinh hoạt của ông rất bê bối, khiến đa số trại viên khác, dù có thông cảm đến mấy cũng không muốn gần gũi, chia sẻ, trong đó có Duyên Anh. Người khác chẳng sao, nhưng với Duyên Anh, Nguyễn Mạnh Côn cho rằng đó là bội bạc. Nhiều lần ông Côn nói với mọi người: "Không có tôi thì đã không có Duyên Anh! Tôi mà không biên tập nát ra thì truyện của nó ai mà thèm đọc". Và Duyên Anh đã phản ứng theo đúng tính cách kiêu ngạo của ông: "Không có "Côn Hít" thì Duyên Anh vẫn là Duyên Anh. Ông Côn giỏi sao không biến một thằng cha căng chú kiết nào đó thành một văn tài mà phải đợi đến Duyên Anh?" Từ đó, cả hai nhìn nhau tuy bằng mặt, mà không bằng lòng. Cũng chỉ có thế, ngoài ra Duyên Anh không có bất kỳ hành vi, thủ đoạn nào ác ý với Nguyễn Mạnh Côn, như lời đồn đại đầy ác ý của những kẻ thù ghét Duyên Anh sau này. Năm 1981, Duyên Anh được trở về với gia đình khi vợ và các con đã định cư tại nước ngoài. Năm 1983, ông vượt biên sang Malaysia, rồi sinh sống tại Pháp, tiếp tục viết. Cùng phận lưu vong nhưng ông không tiếc lời thóa mạ những đảng phái, phe nhóm chính trị lưu manh đang hoạt động tại hải ngoại. Duyên Anh gọi bọn họ là những kẻ giả hình, những tay lừa bịp, mộng du, chiến đấu trong chiêm bao. Ông cũng lên án đám lãnh đạo, chính khách, tướng tá của VNCH toàn là một lũ vô tài, bất tướng, giàu của cải nhờ bóc lột, nhưng quá nghèo nàn liêm sỉ và nhân cách. Nhưng cho dù Duyên Anh có thế nào đi nữa, thì ông cũng là một người cầm bút, không có lấy một tấc sắc trong tay để tự vệ. Ngày 6/2/1997 ông qua đời vì bệnh xơ gan. Các tác phẩm chính: Đêm thánh vô cùng Hoa thiên lý Ðiệu ru nước mắt Luật hè phố Thằng Vũ Dấu chân sỏi đá Dzũng ÐaKao Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang Bồn Lừa Ảo vọng tuổi trẻ Gấu rừng Cỏ non Ngày xưa còn bé Nặng nợ giang hồ Mùa thu Con suối ở Miền Ðông Danh ná truyện tuổi nhỏ Giặc cờ đỏ truyện tuổi nhỏ Nhóc tì phản động truyện tuổi nhỏ Hồn say phấn lạ tiểu thuyết trường thiên Cầu Mơ Ánh lửa đêm tù Ánh mắt trông theo Thằng Côn Trường cũ Tuổi 13 Nhà tôi Mơ thành người Quang Trung Ðàn bà Chương Còm Mặt Trời nhỏ Lứa tuổi thích ô mai Giặc ôkê Đồi Fanta truyện La colline de Fanta dịch bản tiếng Pháp nxb Belfond Paris Một người Nga ở Sài Gòn truyện (1986) Nam Á, Paris Un Russe à Saïgon dịch bản tiếng Pháp nxb Belfond Paris Un prisonnier Américan au Viêtnam truyện nxb Belfond Paris Hôn em kỷ niệm nhạc (1986) Nam Á, Paris Ru tình ngất ngây nhạc Thơ tù thơ (1984) Nam Á, Paris Em, Sài Gòn và Paris thơ Một người mang tên Trần Văn Bá truyện (1985) Nam Á, Paris Sỏi đá ngậm ngùi truyện (1985) Nam Á, Paris Bầy sư tử lãng mạn truyện (1985) Nam Á, Paris Quán trọ trước cổng thiên đường truyện (1987) Nam Á, Paris Thơ của đàn bà truyện Nhánh cỏ mộng mơ truyện Động lòng chữ nghĩa đoản văn Nhà tù hồi ký (1987) Xuân Thu Hoa Kỳ Trại tập trung hồi ký (1987) Xuân Thu Hoa Kỳ Sài Gòn ngày dài nhất hồi ký, Xuân Thu Hoa Kỳ Nhìn lại những bến bờ hồi ký, Xuân Thu Hoa Kỳ Mời các bạn đón đọc Điệu Ru Nước Mắt của tác giả Duyên Anh.
Xác Không Đầu
Cơ thể bị chia cắt của một người đàn ông được tìm thấy Trong Kênh Saint-Martin. Gần với hiện trường, Maigret gặp chủ nhân ngầm của một quán cà phê, Aline Calas, và tự hỏi liệu cơ thể trong con kênh có phải là của chồng cô không. Như thường lệ, bản năng của Maigret là chính xác. Buộc phải điều tra thêm nhưng với thời gian trên tay khi anh đã giải quyết xong vụ án, Maigret bắt đầu đào sâu vào quá khứ của tất cả những ai quan tâm. Không giống như hầu hết các hư cấu thám tử, nơi tìm kiếm giải pháp là trọng tâm của câu chuyện, cuốn tiểu thuyết này khám phá các động cơ khác nhau có thể dẫn đến phạm tội. Đây là lý do tự thù hận đằng sau những hành động theo đó bạn có thể làm tổn thương và làm tổn thương những người thân thiết nhất với bạn. Simenon, thông qua Maigret, tuyệt vọng cố gắng để tìm ra ý nghĩa thực sự và tham vọng, tin rằng sự hiểu biết có thể dẫn đến sự tha thứ và tha thứ sẽ làm giảm ổ đĩa để phạm tội. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Không học cao, không đọc nhiều, không quan hệ rộng và cũng chẳng mấy khi đi đâu xa, thế nhưng Georges Simenon lại lập kỷ lục về số sách bán được và làm giàu nhờ những tác phẩm được chuyển thể điện ảnh. Bị một số người xem thường suốt thời gian dài, nhà văn viết nhiều và viết nhanh này lại được những đồng nghiệp danh tiếng như André Gide, Henry Miller hết mực kính trọng. Làm thế nào một người rời trường học từ lúc 15 tuổi và thừa nhận mình chưa bao giờ đọc những tác phẩm văn học cổ điển lại trở thành nhà văn viết tiếng Pháp có nhiều người đọc nhất và có tác phẩm được dịch nhiều nhất trên thế giới? Văn phong của Georges Simenon không có gì đặc biệt, không hoa mỹ và không có những hình ảnh ấn tượng. Vốn từ vựng của ông cũng rất hạn chế. Tiểu thuyết của ông không có nhiều yếu tố lịch sử hay triết học. Mọi nhân vật trong truyện đều thuộc tầng lớp trung lưu, có cuộc sống bình lặng, những thị dân tiểu tư sản, chung thủy với vợ, ít ngao du, không tham vọng, không chính kiến rõ rệt. Thế mà không khí trong tiểu thuyết của ông khiến người đọc phải nhớ mãi. Trong 60 năm cầm bút, Georges Simenon trải qua nhiều trào lưu văn nghệ; chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx và Tiểu thuyết mới, nhưng không trào lưu nào ảnh hưởng nơi ông. Để hiểu được phần nào bí quyết thành công của Georges Simenon, có lẽ cần trở lại thời thơ ấu của ông. Gia đình sống quanh quẩn trong thành phố quê hương, chẳng mấy khi đi đâu xa. Để thay đổi số phận, năm 16 tuổi, Georges Simenon đến Paris. Vì sinh kế, chàng thanh niên trẻ làm đủ mọi công việc liên quan đến viết lách. Con người rất ít khi đọc sách ấy lại có một năng khiếu đặc biệt: Có thể cùng lúc là thư ký, nhà báo, nhà văn, và viết rất nhanh. Khi một nhà xuất bản yêu cầu một cuốn tiểu thuyết, câu hỏi đầu tiên của Georges Simenon luôn là: “Ông muốn có sách vào thứ sáu này hay tuần tới?” Ông viết nhiều và nhanh đến nỗi khi chưa đến 25 tuổi đã có rất nhiều bút danh. Tất cả các tác giả từng viết tiểu sử Georges Simenon đều nhận định: Để viết cuốn tiểu thuyết “Maigret” (tên vị thanh tra, nhân vật chính trong tiểu thuyết của Simenon), nhà văn chỉ cần 6 ngày và chỉ mất 9 ngày cho những tác phẩm khác mà ông gọi là “tiểu thuyết hắc” (romans durs). Cách viết nhanh như vậy giúp ông đạt được những thành công đầu tiên. Pietr le Letton (1931) là cuốn truyện mở đầu loạt truyện Maigret. Trong vòng hai năm, ông viết hơn 20 tiểu thuyết, đem lại lợi nhuận lớn lao cho nhà xuất bản Fayard. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Maigret et monsieur Charles (Maigret và ông Charles) được xuất bản năm 1972. Những cuộc phiêu lưu của thanh tra Maigret trải dài trên 75 tiểu thuyết (với khoảng chừng 10 năm), mà nhân vật chính không già đi, trán không gợn một nếp nhăn. Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, thanh tra Maigret vẫn ở tuổi 50. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tên Georges Simenon được ký trên hơn 200 cuốn tiểu thuyết và ông cũng viết ngần ấy tiểu thuyết với những bút danh khác (40 bút danh) và gần 1.000 truyện ngắn. Les fiançailles de monsieur Hire (Lễ Đính Hôn Của Ông Hire) và Le Chien Jaune (Con Chó Vàng) là những tác phẩm củng cố danh tiếng của ông. Những trí thức ở Paris không muốn nhắc đến “kẻ xa lạ” trốn tránh kinh đô Ánh sáng và xem thường những nghi thức của xã hội thượng lưu. Nhiều người phê phán Georges Simenon không có văn phong. Ngoại trừ nhà văn Pháp André Gide và nhà văn Mỹ Henry Miller, Georges Simenon không giao tiếp với ai nên bị giới văn học cho “ra rìa”. Ông cũng giữ thái độ mập mờ, không cộng tác với ai, cũng chẳng phản kháng ai. Khi nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, cũng như nhiều nhà văn khác, Georges Simenon bị buộc nhiều tội, trong đó hai tội chính: Ký hợp đồng với một nhà sản xuất phim người Đức để chuyển thể 9 cuốn tiểu thuyết của ông và Christian Simenon, em trai ông, ủng hộ phong trào chống chế độ đại nghị ở Bỉ, bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1945, Georges Simenon rời châu Âu sang Mỹ, lưu lại đây 10 năm. Nhưng ở nơi sống mới, “nỗi ám ảnh viết lách” không hề dịu đi. Trái lại, trí tưởng tượng của ông càng thêm phong phú nhờ những chuyến phiêu lưu khám phá kinh đô điện ảnh Hollywood. Lúc này ở châu Âu, những lời lên án ông hợp tác với phát xít Đức đã nhạt đi. Georges Simenon sang Thụy Sĩ, sống trong một dinh thự mênh mông ở Epalinges, cách Lausanne 10km. Ông đã là một ngôi sao. Người tra tranh nhau đăng tiểu thuyết của ông trên các báo và chuyển thể thành phim. Từ La nuit du carrefour (1932) đến Monsieur Hire (1989), tổng cộng 56 tiểu thuyết chuyển thể. Thêm một kỷ lục nữa: Georges Simenon trở nên giàu có nhờ số sách bán được và những bộ phim. Thoạt đầu, danh tiếng làm ông thích thú, nhưng rồi ông thấy chán ngán: “Tôi bán bản quyền và chẳng quan tâm nữa. Thậm chí tôi còn không đi xem phim”. Ở Epalinges, cuộc sống của ông rất bình lặng. Ông ít giao tiếp, dành toàn bộ thời gian để viết, đi dạo hai lần mỗi ngày, mỗi tháng gửi một bản thảo cho nhà xuất bản. Cuộc sống cứ thế trôi đi cho đến năm 1972, ông hầu như ngưng viết. Trước khi qua đời năm 1989, ông cho xuất bản 20 tác phẩm tự truyện. Sách của Georges Simenon được dịch sang 50 thứ tiếng. Trong bảng xếp hạng các sách được dịch nhiều nhất trên thế giới, sách của Georges Simenon và Agatha Christie chỉ xếp sau Kinh Thánh và các tác phẩm của Karl Marx. Cùng với việc viết lách, phụ nữ là mối quan tâm lớn của đời ông. Có nhiều lời đồn đoán về “năng lực tình ái” phi thường của Georges Simenon. Ông từng khoe đã yêu 10.000 phụ nữ. Denyse, người vợ thứ hai, cho biết lúc tuổi xế bóng, Georges Simenon vẫn chăn gối 3 lần mỗi ngày. Bà bếp tiết lộ đã dan díu với ông chủ Georges Simenon trong một thời gian dài, và trong lúc đi dạo, cha đẻ của Maigret lại tìm quên trong vòng tay của một cô gái làng chơi. Sinh hoạt tình dục sôi nổi ấy lại không để lại một dấu vết nào trong tác phẩm của Georges Simenon. Bà Maigret là một phụ nữ tiểu tư sản, mờ nhạt và lệ thuộc, luôn ngưỡng mộ chồng. Điểm này cũng là một bí ẩn của Georges Simenon. Ông kết hôn lần đầu tiên năm 19 tuổi với Tigy, có một con trai tên Marc. Marc kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Mylène Demongeot, Georges Simenon cũng có quan hệ tình ái với ngôi sao nhạc kịch Joséphine Baker và suýt ly hôn với Tigy. Năm 1945, Georges Simenon gặp Denyse Ouimet, thoạt đầu là thư ký của ông, rồi trở thành người tình, người vợ, Georges Simenon và Denyse có 3 con: John, Mary và Pierre. *** Khi trời vừa rạng sáng thì Jules Naud, người anh cả của hai anh em nhà Naud, xuất hiện trên sà lan, trước hết là cái đầu, tiếp đó đến đôi vai và sau cùng là tấm thân cao lều nghều của anh. Đưa tay lên vuốt mớ tóc màu sợi lanh chưa kịp chải, anh nhìn âu thuyền có bến cảng Jemmages ở bên trái và bến cảng Valmy bên phải. Anh vừa cuốn một điếu thuốc lá và châm hút trong buổi sáng còn se lạnh thì ngọn đèn của một quán rượu ở phố Recollets bật sáng. Mặt tiền của quán rượu có màu vàng khè. Popaul, chủ quán, mặc áo không cổ, tóc chưa chải, đang đứng ngoài vỉa hè để tháo những cánh cửa lùa. Jules đi trên tấm ván bắc làm cầu lên bờ và cuốn điếu thuốc thứ hai trong khi đó thì Robert, người em, cũng cao lớn như anh, đã thức giấc và lên trên boong tàu. Anh ta thấy Jules đang tì tay lên quầy hàng đợi chủ quán rót thêm rượu vào tách cà phê của anh.  Robert đang đợi đến lượt mình. Cùng với những cử chỉ như Jules, anh ta cũng cuốn một điếu thuốc lá. Khi người anh cả rời khỏi quán hàng thì người em cũng đã lên khỏi sà lan. Hai người gặp nhau ở giữa đường. - Ta cho nổ máy đây - Jules bảo người em trai. Có những ngày hai người không nói với nhau quá một chục câu theo kiểu ấy. Con tàu của họ mang tên Hai anh em. Họ đã lấy hai chị em sinh đôi của một gia đình sống trên bờ sông. Robert cũng tì tay lên quầy hàng của ông Popaul béo lùn và đợi chủ quán rót rượu. - Hôm nay đẹp trời - Popaul gợi chuyện. Qua cửa sổ, Robert thấy trời đã chuyển sang màu hồng. Những ống khói trên các nóc nhà bắt đầu hoạt động, sương giá đọng trên các mái nhà lợp bằng đá bảng hoặc bằng ngói bắt đầu tan. Người ta nghe thấy tiếng nổ của đầu máy đi-ê-zen. Phía sau sà lan phụt ra những luồng khói đen. Robert đặt tiền lên quầy hàng, cầm lấy chiếc mũ cát-két và đi khỏi quán rượu. Người phụ trách âu thuyền trong bộ đồng phục đã xuất hiện chuẩn bị cho việc mở cửa âu. Người ta nghe thấy những bước chân ở cảng Valmy nhưng không nhìn thấy người. Tiếng trẻ con bi bô trong những khoang tàu, nơi các bà mẹ đang chuẩn bị cà phê. Jules đang cúi xuống nhìn mặt nước ở cuối sà lan. Người em thấy như có chuyện gì không ổn. Sà lan chở đá xây dựng từ Beauvais về. Chuyến này đá chở nhiều hơn thường lệ một vài tấn. Đêm qua sà lan từ bên La Vilette để đi vào kênh đào Saint-Martin. Thông thường thì tháng Ba kênh đào có nhiều nước. Năm nay ít mưa nên bùn trong các con kênh sục lên khi sà lan đi qua. Những cánh cửa âu thuyền được kéo lên. Jules ngồi bên vòng quay của bánh lái. Người em lên bờ tháo neo. Chân vịt bắt đầu quay tít, những bọt nước có bùn nổi lên. Tì người vào cây sào, Jules đẩy sà lan tránh xa bờ kênh. Bỗng nhiên chân vịt khựng lại, tiếng máy nổ rú lên và Robert thấy Jules đang cúi xuống máy. Cả hai đều không hiểu đã có chuyện gì xảy ra. Chân vịt không sát xuống đáy sông. Chắc chắn đã có vật gì mắc vào nó. Có thể là rác đã bị cuốn lên. Cầm một cây sào, Jules đến cuối sà lan và khuấy nước ở đấy lên. Chân vịt vẫn không nhúc nhích. Trong khi Jules đi tìm một chiếc móc bằng sắt thì Laurence từ khoang sà lan nhô đầu lên. - Có chuyện gì vậy? - Không biết. Cái móc bắt đầu làm việc. Vài phút sau đó thì Charles Dambois, người phụ trách âu thuyền, bước tới. Ông ta không hỏi han gì mà chỉ lặng lẽ nhồi thuốc vào tẩu để hút. Trên bờ kênh, người ta thấy nhiều y tá và hộ lý vội vã tới phố Cộng Hoà để làm việc tại bệnh viện Saint-Louis. - Anh đã thấy vật đó chưa? - Đã thấy. - Một sợi dây cáp ư? - Không biết. Jules đã móc được vật ấy lên và chân vịt lại tiếp tục quay. Chiếc móc sắt được nhấc lên khỏi mặt nước và mắc vào đấy là một gói giấy báo buộc kỹ. Giấy báo ngâm nước đã mủn ra. Đấy là một cánh tay người, từ bả vai đến bàn tay, thịt đã xám lại như con cá chết. *** Depoil, hạ sĩ cảnh sát của khu phố Ba, đã hết phiên trực đêm ở bến cảng Jemmages, đang chuẩn bị ra về thì gặp Jules chạy tới. - Tôi ở âu thuyền Recollets cùng với chiếc sà lan Hai anh em. Chân vịt đã không quay được khi chúng tôi cho sà lan chạy và chúng tôi đã gỡ từ đó ra một cánh tay người. Depoil đã làm việc ở quận Mười mười lăm năm, có phản ứng nhanh nhạy của người cảnh sát nên anh nắm ngay sự việc. - Tay của đàn ông ư? - Depoil hỏi với vẻ hoài nghi. - Phải. Cánh tay đầy lông màu hung và... Thường thì người ta vớt được xác chết ở kênh đào Saint-Martin từ chân vịt của tàu thuyền. Hầu hết là xác nguyên vẹn, đại đa số là xác đàn ông, ví dụ như xác của một ông già lang thang quá chén hoặc xác của một thanh niên bị địch thủ cho một nhát dao rồi đẩy xuống dòng kênh. Xác chết bị chặt ra từng khúc cũng không phải là không có, một năm trung bình một hai vụ, mà hầu hết là phụ nữ. Depoil có thể kể ra từng vụ một. Chín phần mười họ đều là gái bán dâm, đi lượn lờ trên bờ kênh vào ban đêm. "Tội ác do những kẻ loạn dâm gây ra" - Báo cáo của anh thường kết luận như vậy. Cảnh sát biết rõ những kẻ năng lui tới chốn này, họ có cả một danh sách những kẻ đáng nghi ngờ. Chỉ cần một vài ngày là đủ để tóm cổ được tác giả của vụ án cướp của giết người hoặc tấn công địch thủ bằng vũ khí. - Anh đã mang nó lên bờ rồi chứ? - Depoil hỏi. - Cánh tay người ư? - Anh để nó ở đâu? Mời các bạn đón đọc Xác Không Đầu của tác giả Georges Simenon & Trần Bình (dịch).
Xin Cho Tôi Gọi Cô Là Em Yêu
Tình cờ, Kerry McGrath - phụ tá uỷ viên công tố, phát hiện ra bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ Smith chỉnh hình khuôn mặt cho hai bệnh nhân của ông thành khuôn mặt của cùng một người phụ nữ đã bị ám sát hơn 10 năm trước. Hồ nghi, Kerry mở lại hồ sơ cũ, nàng đã bị sự ngăn cản từ người chồng cũ, từ sếp của nàng, và kể cả vị thượng nghị sĩ mà nàng rất kính trọng. Chẳng bao lâu sau, tính mạng của chính nàng cùng cô con gái nhỏ cũng bị đe doạ nếu nàng vẫn muốn khám phá sự thật.... *** Mary Higgins, sinh năm 1927 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”. Một con người không mệt mỏi Ba mươi năm viết truyện với 40 tiểu thuyết, trong đó nhiều tác phẩm đã được dựng phim, Mary Higgins Clark đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Bà đã nhận được nhiều giải của các cơ quan văn hóa, lịch sử xã hội, giáo dục Mỹ, Pháp, Ireland; đã từng làm Chủ tịch Hội các nhà văn trinh thám Mỹ năm 1987; Chủ trì Hội nghị Tội ác quốc tế tại New York năm 1988 và vinh dự đón nhận tước hiệu Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật của Pháp vào năm 2000. Nhưng giải thưởng có ý nghĩa hơn cả có lẽ vẫn là sự mến mộ mà độc giả dành cho bà. Hầu hết các tác phẩm của Mary đều trở thành sách best-seller. Đối với nhiều người, truyện trinh thám chỉ được đọc để giết thời gian tại các bến xe nên đa phần được in khổ nhỏ bỏ túi, nhưng tại Mỹ, trên 50 triệu cuốn sách khổ lớn của bà đã được bán ra. Còn tại Pháp, con số này trên 20 triệu. Ở VN, độc giả có thể dễ dàng tìm được các tác phẩm của bà tại bất kỳ nhà sách nào trên toàn quốc. Những cuốn sách Chiếc nhẫn oan gia, Xác chết ngoài biển khơi, Rình rập, Lộ diện, Tiếng thét trong đêm đều đã trở nên quen thuộc đối với những người thích thể loại trinh thám. Năm 1999, một cuộc thăm dò đã đưa Mary Higgins Clark lên vị trí thứ hai thế giới trong số các nhà văn được nhiều độc giả trên 18 tuổi ưa thích. Một tâm hồn trẻ trung, hiện đại Đã 77 tuổi nhưng Mary vẫn không ngừng tạo ra những món ăn tinh thần hợp khẩu vị bạn đọc trẻ và chúng vẫn luôn mới mẻ, cuốn hút. Cuốn tiểu thuyết mới đây nhất Two little girls in blue, 2006 (Hai cô bé trong đại dương) đã chứng tỏ điều đó. Câu chuyện kể về gia đình Frawley, trong buổi tối sinh nhật của hai con gái sinh đôi 3 tuổi là Kelly và Kathy, ông bà Frawley đã bị cảnh sát hỏi thăm, chị giữ trẻ bị ngất đi, còn hai cô bé mất tích. Sau khi giao 8 triệu USD tiền chuộc theo yêu cầu của bọn bắt cóc, ông bà Flawley chỉ nhận lại được Kelly trong một chiếc xe hơi bỏ không. Còn số phận Kathy thế nào? Mọi người dường như tuyệt vọng, nhưng Kelly bằng linh cảm vẫn biết người chị song sinh của mình còn sống. Tình huống gay cấn trong câu chuyện khiến người đọc bị cuốn vào số phận các nhân vật cho đến trang cuối cùng. Năm 2007, Mary sẽ cho ra đời tác phẩm mới mang tên Santa Cruise mà bà viết chung với con gái mình là Carol Higgins Clark. Với sự nghiệp thành công và con cái thành đạt, Mary tự nhận mình là người hạnh phúc. Hiện nay, bà đang sống cùng với người chồng thứ hai, John Coheeney, tại Manhattan, New York. Bất chấp tuổi tác, những ý tưởng trong bà vẫn rất dồi dào và bà vẫn tiếp tục viết những câu chuyện ly kỳ, bí hiểm, khiến người đọc luôn phải trông ngóng, mong đợi những điều bất ngờ bà mang tới. Với 200 triệu cuốn sách bán ra trên thị trường, bà là một trong những nhà văn có số lượng độc giả nhiều nhất hiện nay. Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bà đã chứng tỏ vị trí số một thế giới trong thể loại truyện trinh thám. Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   1. Where Are The Children? (1975) có 3 bản dịch + Ngôi nhà cạm bẫy + Rình rập + Truy tìm nhân chứng 2. A Stranger Is Watching (1977) / Cáo sa mạc 3. The cradle will fall (1980) / Lộ diện 4. A Cry in the Night (1982) / Tiếng hét trong đêm khuya 5. All around the town (1992) có 3 bản dịch + Một quá khứ kinh hoàng + Thành phố buồn + Vĩnh biệt thơ ngây 6. Remember Me (1994) có 2 bản dịch + Bí ẩn trong tòa nhà cổ + Xác chết ngoài biển khơi 7. Let Me Call You Sweetheart (1995) / Xin cho tôi gọi cô là em yêu 8. The Lottery Winner (1996) / Chuộc chồng 9. Pretend You Don't See Her (1997) có 2 bản dịch + Trang nhật ký đẫm máu + Nhân chứng bị săn đuổi 10. You belong to me (1998) / Chiếc nhẫn oan gia 11. Where Are You Now? (2008) / Giờ này anh ở đâu? ***       Xin đừng phủ lên trên ngôi mộ này Những đóa hồng mà nàng hết sức yêu quí; Tại sao làm cho nàng ngất ngây bằng hoa hồng Mà nàng không thể thấy hoặc ngửi được? Edna St Vincent Millay, Epitaph.       Ông đã làm mọi cách để cố gắng gạt Suzanne ra khỏi tâm trí. Một đôi khi, ông tìm lại được sự yên tĩnh trong vài giờ hoặc thậm chí ngủ suốt đêm. Đó là cách duy nhất giúp ông tiếp tục sống, làm công việc hàng ngày. Phải chăng ông vẫn còn yêu cô hay chỉ ghét cô? Ông không bao giờ có thể chắc chắn. Cô đẹp, với đôi mắt sáng long lanh có cái nhìn chế giễu, với mái tóc sẫm bồng bềnh như mây, với đôi môi có thể mỉm cười một cách hết sức mời mọc hoặc mím lại một cách hết sức dễ dàng giống hệt một đứa bé đang bị cấm ăn kẹo. Trong tâm trí ông, cô vẫn luôn luôn hiện diện, như lúc cô đã nhìn ông vào phút giây cuối cùng của đời cô, trêu chọc ông và quay lưng về phía ông. Và giờ đây, gần mười một năm sau, Kerry McGrath sẽ không để cho Suzanne yên nghỉ. Những câu hỏi, rồi lại thêm những câu hỏi! Không thể chấp nhận được. Cần phải ngăn chặn cô ta. “Hãy để cho người chết chôn vùi người”. Đó là một ngạn ngữ cổ, ông nghĩ, và nó vẫn còn đúng. Phải ngăn chặn cô ta, bằng mọi giá.        Thứ Tư, ngày 11 tháng 11 Mời các bạn đón đọc Xin Cho Tôi Gọi Cô Là Em Yêu của tác giả Mary Higgins Clark & Nguyễn Nhất Nam (dịch).