Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo - Vật tổ và cấm kỵ

Văn hoá và tôn giáo là những vấn đề vô cùng phức tạp và rông lớn, tác động sâu xa tới toàn bộ đời sống xã hội, tới ý thức, lối sống và nhân cách cá nhân của mọi thành viên. Do vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu có tính chất bao trùm lên toàn bộ các khoa học xã hội và nhân văn. Học thuyết Marx với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã có cống hiến to lớn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các khái niệm đó. Tính đúng đắn của học thuyết Marx, đặc biệt là các công trình của F. Engels, là chỉ ra một cách khoa học và thuyết phục những cơ sở lao động-kinh tế của việc hình thành ý thức xã hội, lâu đài văn hoá, tín ngưỡng, các phong tục tập quán và mối tương quan giữa ý thức xã hội với nhân cách cá nhân. Chủ nghĩa Marx nhìn nhận các hiện tương xã hội đó như là kết quả của hành động có ý thức của con người. Tuy nhiên, hành động của con người, đặc biệt là hành vi của các cá nhân, không phải chỉ được điều khiển bởi ý thức, mà có khi nó còn bị thúc đẩy bởi các động lực vô thức nằm sâu trong tận đáy tâm thức của con người, cái đôi khi được đồng nhất với bản năng.

Văn hoá và tôn giáo là những vấn đề vô cùng phức tạp và rông lớn, tác động sâu xa tới toàn bộ đời sống xã hội, tới ý thức, lối sống và nhân cách cá nhân của mọi thành viên. Do vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu có tính chất bao trùm lên toàn bộ các khoa học xã hội và nhân văn. Học thuyết Marx với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã có cống hiến to lớn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các khái niệm đó. Tính đúng đắn của học thuyết Marx, đặc biệt là các công trình của F. Engels, là chỉ ra một cách khoa học và thuyết phục những cơ sở lao động-kinh tế của việc hình thành ý thức xã hội, lâu đài văn hoá, tín ngưỡng, các phong tục tập quán và mối tương quan giữa ý thức xã hội với nhân cách cá nhân. Chủ nghĩa Marx nhìn nhận các hiện tương xã hội đó như là kết quả của hành động có ý thức của con người. Tuy nhiên, hành động của con người, đặc biệt là hành vi của các cá nhân, không phải chỉ được điều khiển bởi ý thức, mà có khi nó còn bị thúc đẩy bởi các động lực vô thức nằm sâu trong tận đáy tâm thức của con người, cái đôi khi được đồng nhất với bản năng.

Với tư cách một học thuyết duy vật biện chứng và lịch sử được xây dựng trên cơ sở các thành tựu mới nhất của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đương thời, nó thừa nhận tiến hoá luận của Darwin, tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H. Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước trong thời kì chiến tranh lạnh. Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội. Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở của phân tâm học. Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn hoá của các dân tộc. Mặt khác, sự ra đời của các tác phẩm phân tâm học về xã hội cũng là sản phẩm bởi tác động của các bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Các nguồn tư liệu gần đây cho thấy Freud, Adler cũng như nhiều nhà phân tâm học hàng đầu khác cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20 đã có những quan hệ chặt chẽ với phong trào công nhân châu Âu dưới sự lãnh đạo của những người xã hội dân chủ theo tư tưởng Mác-xít. Thậm chí bản thân một số nhà phân tâm học đồng thời là lãnh tụ của các đảng phái xã hội dân chủ, như A. Adler, H. Heller, C. Furtmueller, D.-E. Openheim. Bản thân Freud cũng như nhiều nhà phân tâm học khác tỏ ra tán thành quan điểm tâm lí hoc duy vật Mác-xít. Vật tổ và cấm kị (Totem und Tabu) là tác phẩm quan trọng nhất của Freud nói riêng và của phân tâm học nói chung về nguồn gốc của văn hoá và tín ngưỡng. Ngay tác phẩm cuối cùng Moise và tôn giáo nhất thần (1939) cũng như Tâm lý học đại chúng và phân tích cái tôi (1921) đều xây dựng trên cơ sở Vật tổ và cấm kị. Phải chăng đó là sự ngoan cố của Freud, cái đã cho phép ông bám chắc các luận đề của mình, hay phải chăng những lý thuyết ông phát minh trong đó chính là những viên đá tảng quan yếu cho văn hoá luận phân tâm học? Tác phẩm này được chính Freud xem là "thử nghiệm đầu tiên (...) trong vận dụng các quan niệm và kết quả nghiên cứu của phân tâm học vào các vấn đề chưa sáng tỏ của tâm lí hoc dân tộc", và đối với độc giả thì nó "đáp ứng mối quan tâm của một phạm vi rộng lớn hơn của những người có văn hóa, nhưng thực ra chúng chỉ có thể được hiểu và phân định bởi một số ít ỏi nhất mà với họ phân tâm học không còn xa lạ nữa. Nó ra đời trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lâm sàng và điều trị bệnh nhân tâm thần của chính Freud, các công trình khảo cứu nhân chủng học và văn hóa học của nhiều học giả, đặc biệt là Frazer, và ít nhiều chịu kích thích trực tiếp từ tác phẩm Những biến hoá và biểu tượng của dục tính của nhà phân tâm học trẻ C-G. Jung, môn đệ của ông. Nhưng tác phẩm của Freud có sức khái quát hoá hơn hẳn và mang tính duy vật cao.

Với tư cách một học thuyết duy vật biện chứng và lịch sử được xây dựng trên cơ sở các thành tựu mới nhất của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đương thời, nó thừa nhận tiến hoá luận của Darwin, tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H. Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước trong thời kì chiến tranh lạnh.

Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội. Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở của phân tâm học.

Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn hoá của các dân tộc. Mặt khác, sự ra đời của các tác phẩm phân tâm học về xã hội cũng là sản phẩm bởi tác động của các bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Các nguồn tư liệu gần đây cho thấy Freud, Adler cũng như nhiều nhà phân tâm học hàng đầu khác cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20 đã có những quan hệ chặt chẽ với phong trào công nhân châu Âu dưới sự lãnh đạo của những người xã hội dân chủ theo tư tưởng Mác-xít. Thậm chí bản thân một số nhà phân tâm học đồng thời là lãnh tụ của các đảng phái xã hội dân chủ, như A. Adler, H. Heller, C. Furtmueller, D.-E. Openheim. Bản thân Freud cũng như nhiều nhà phân tâm học khác tỏ ra tán thành quan điểm tâm lí hoc duy vật Mác-xít.

Vật tổ và cấm kị (Totem und Tabu) là tác phẩm quan trọng nhất của Freud nói riêng và của phân tâm học nói chung về nguồn gốc của văn hoá và tín ngưỡng. Ngay tác phẩm cuối cùng Moise và tôn giáo nhất thần (1939) cũng như Tâm lý học đại chúng và phân tích cái tôi (1921) đều xây dựng trên cơ sở Vật tổ và cấm kị. Phải chăng đó là sự ngoan cố của Freud, cái đã cho phép ông bám chắc các luận đề của mình, hay phải chăng những lý thuyết ông phát minh trong đó chính là những viên đá tảng quan yếu cho văn hoá luận phân tâm học? Tác phẩm này được chính Freud xem là "thử nghiệm đầu tiên (...) trong vận dụng các quan niệm và kết quả nghiên cứu của phân tâm học vào các vấn đề chưa sáng tỏ của tâm lí hoc dân tộc", và đối với độc giả thì nó "đáp ứng mối quan tâm của một phạm vi rộng lớn hơn của những người có văn hóa, nhưng thực ra chúng chỉ có thể được hiểu và phân định bởi một số ít ỏi nhất mà với họ phân tâm học không còn xa lạ nữa. Nó ra đời trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lâm sàng và điều trị bệnh nhân tâm thần của chính Freud, các công trình khảo cứu nhân chủng học và văn hóa học của nhiều học giả, đặc biệt là Frazer, và ít nhiều chịu kích thích trực tiếp từ tác phẩm Những biến hoá và biểu tượng của dục tính của nhà phân tâm học trẻ C-G. Jung, môn đệ của ông. Nhưng tác phẩm của Freud có sức khái quát hoá hơn hẳn và mang tính duy vật cao.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Tuyết Giữa Mùa Hè (Saydaw U Jotika)
Chúng tôi quyết định xuất bản lại cuốn Tuyết Giữa Mùa Hè này sau khi nhận được rất nhiều lời yêu cầu từ bạn đọc. Bản dịch này dựa trên nguyên bản tiếng Miến được chính thiền sư Sayadaw U Jotika biên tập lại, và bổ sung thêm một số lời khuyên của Thiền sư được trích ra từ những bức thư nhận được trong những năm sau này. Chúng tôi xin được bày tỏ lòng tri ân vô hạn đối với Thiền sư Sayadaw U Jotika, người đã dành bao tâm lực viết ra những lời dạy tâm huyết vượt thời gian và đầy trí tuệ này để thức tỉnh chúng ta khỏi cuộc sống vô vị và u mê. Xin vô cùng cảm tạ các bạn đạo Bruce Mitteldof, Ayya Medhanandi, John Fabbricante đã chuyển đến cho chúng tôi những bức thư của thiền sư để biên tập thành cuốn sách này. Chúng tôi xin cảm ơn những tấm lòng nhân hậu và nhẫn nại đã đóng góp công sức cho lần xuất bản đầu tiên của cuốn sách này: Ayya Medhanandi, Barbara Hasslacher, Jane Yudelman, Chittapala, Phil Thompson. Không có sự đóng góp công sức và giúp đỡ nhiệt tình của họ để biên tập và đánh máy, lên trang thì cuốn sách này đã không thể ra đời và đến tay bạn đọc như thế này. Trong lần tái bản này, xin đặc biệt cảm ơn bạn Li ở Hồng Kông đã dành rất nhiều thời gian để viết ra những mục chú thích cho những bạn đọc chưa quen thuộc với những thuật ngữ Phật học hay những tư tưởng Phương Tây để dễ tham khảo, và xin tri ân Đại Đức Bhikkhu Thitayano ở Indonesia đã giúp dịch phần chú thích ra tiếng Anh (từ phiên bản tiếng Hoa của cuốn Tuyết Giữa Mùa Hè). Tìm mua: Tuyết Giữa Mùa Hè TiKi Lazada Shopee Rất cám ơn những bạn đạo hảo tâm đã hùn phước in ấn, xuất bản cuốn sách này. Chúng tôi chân thành mong muốn rằng tất cả những ai đọc cuốn sách này đều thu được thật nhiều lợi ích từ những lời khuyên của người thầy từ bi và trí tuệ của chúng ta, người đã dành trọn cả cuộc đời để thực hành chánh niệm và thấu hiểu cuộc đời một cách thật sâu sắc và đầy ý nghĩaĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tuyết Giữa Mùa Hè PDF của tác giả Saydaw U Jotika nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Tuyết Giữa Mùa Hè (Saydaw U Jotika)
Chúng tôi quyết định xuất bản lại cuốn Tuyết Giữa Mùa Hè này sau khi nhận được rất nhiều lời yêu cầu từ bạn đọc. Bản dịch này dựa trên nguyên bản tiếng Miến được chính thiền sư Sayadaw U Jotika biên tập lại, và bổ sung thêm một số lời khuyên của Thiền sư được trích ra từ những bức thư nhận được trong những năm sau này. Chúng tôi xin được bày tỏ lòng tri ân vô hạn đối với Thiền sư Sayadaw U Jotika, người đã dành bao tâm lực viết ra những lời dạy tâm huyết vượt thời gian và đầy trí tuệ này để thức tỉnh chúng ta khỏi cuộc sống vô vị và u mê. Xin vô cùng cảm tạ các bạn đạo Bruce Mitteldof, Ayya Medhanandi, John Fabbricante đã chuyển đến cho chúng tôi những bức thư của thiền sư để biên tập thành cuốn sách này. Chúng tôi xin cảm ơn những tấm lòng nhân hậu và nhẫn nại đã đóng góp công sức cho lần xuất bản đầu tiên của cuốn sách này: Ayya Medhanandi, Barbara Hasslacher, Jane Yudelman, Chittapala, Phil Thompson. Không có sự đóng góp công sức và giúp đỡ nhiệt tình của họ để biên tập và đánh máy, lên trang thì cuốn sách này đã không thể ra đời và đến tay bạn đọc như thế này. Trong lần tái bản này, xin đặc biệt cảm ơn bạn Li ở Hồng Kông đã dành rất nhiều thời gian để viết ra những mục chú thích cho những bạn đọc chưa quen thuộc với những thuật ngữ Phật học hay những tư tưởng Phương Tây để dễ tham khảo, và xin tri ân Đại Đức Bhikkhu Thitayano ở Indonesia đã giúp dịch phần chú thích ra tiếng Anh (từ phiên bản tiếng Hoa của cuốn Tuyết Giữa Mùa Hè). Tìm mua: Tuyết Giữa Mùa Hè TiKi Lazada Shopee Rất cám ơn những bạn đạo hảo tâm đã hùn phước in ấn, xuất bản cuốn sách này. Chúng tôi chân thành mong muốn rằng tất cả những ai đọc cuốn sách này đều thu được thật nhiều lợi ích từ những lời khuyên của người thầy từ bi và trí tuệ của chúng ta, người đã dành trọn cả cuộc đời để thực hành chánh niệm và thấu hiểu cuộc đời một cách thật sâu sắc và đầy ý nghĩaĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tuyết Giữa Mùa Hè PDF của tác giả Saydaw U Jotika nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Tính Mệnh Khuê Chỉ Toàn Thư (Nguyễn Văn Thọ)
Nguyên tập 1. Tam Thánh đồ 2. Đại đạo thuyết 3. Tính Mệnh thuyết 4. Tử sinh thuyết Tìm mua: Tính Mệnh Khuê Chỉ Toàn Thư TiKi Lazada Shopee 5. Tà Chính thuyết 6. Phổ chiếu đồ 7. Phản Chiếu đồ 8. Thời chiếu đồ 9. Nội chiếu đồ 10. Thái Cực đồ 11. Thái Cực đồ phát huy 12. Trung tâm đồ 13. Hoả Long Thuỷ Hổ đồ 14. Hoả Long Thuỷ Hổ thuyết 15. Nhật ô, Nguyệt thố đồ 16. Nhật ô, Nguyệt thố thuyết 17. Đại Tiểu Đỉnh Lô đồ 18. Đại Tiểu Đỉnh Lô thuyết 19. Nội Ngoại Nhị Dược đồ 20. Nội Ngoại Nhị Dược thuyết 21. Thuận Nghịch Tam Quan đồ 22. Thuận Nghịch Tam Quan thuyết 23. Tận Tính Chí Mệnh đồ 24. Tận Tính Chí Mệnh thuyết 25. Chân Thổ đồ 26. Chân Thổ Căn Tâm thuyết 27. Hồn Phách đồ 28. Hồn Phách thuyết 29. Thiềm quang đồ 30. Thiềm quang thuyết 31. Hàng Long đồ 32. Hàng long thuyết 33. Phục Hổ đồ 34. Phục Hổ thuyết 35. Tam gia tương kiến đồ 36. Tam gia tương kiến thuyết 37. Hoà hợp tứ tượng đồ 38. Hoà hợp tứ tượng thuyết 39. Thủ Khảm Điền Ly đồ 40. Thủ Khảm Điền Ly thuyết 41. Quan Âm Mật chú đồ 42. Quan Âm Mật chú thuyết 43. Cửu đỉnh luyện tâm đồ 44. Cửu đỉnh luyện tâm thuyết 45. Bát thức qui nguyên đồ 46. Bát thức qui nguyên thuyết 47. Ngũ khí triều nguyên đồ 48. Ngũ khí triều nguyên thuyết 49. Đãi chiếu đồ 50. Đãi chiếu thuyết 51. Phi thăng đồ 52. Phi thăng thuyếtDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Văn Thọ":Tính Mệnh Khuê Chỉ Toàn ThưDịch Kinh Đại Toàn - Tập 1 Yếu ChỉDịch Kinh Đại Toàn - Tập 2 Thượng KinhDịch Kinh Đại Toàn - Tập 3 Hạ KinhHà Đồ Và Lạc ThưLão, Trang Giản LượcĐạo Đức Kinh Lão TửÂm Phù KinhPhật Học Chỉ NamTrung Dung Tân KhảoTìm Hiểu Kinh Hoa NghiêmKhổng Học Tinh HoaHướng Tinh ThầnĐường Vào Triết Học Và Đạo HọcChân Dung Khổng TửThiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất ThểTrời Chẳng Xa NgườiCon Đường Huyền Nhiệm Trung DungCon Đường Qui Nguyên Phản Bản Theo Nho GiáoĐịnh Luật Tiến HoáKhổng Giáo Vô Thần Hay Hữu ThầnKinh Dịch Với Đông YĐức Lão Tử Và Con Đường Huyền Nhiệm Tâm LinhLecomte Du Noüy Và Học Thuyết Viễn ĐíchLễ, Nghĩa, Liêm, SỉNê Hoàn - Nhâm - ĐốcQuan Niệm Tam Tài Với Con NgườiRa Đời, Vào ĐạoSẫm VioletThất Huyền CầmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tính Mệnh Khuê Chỉ Toàn Thư PDF của tác giả Nguyễn Văn Thọ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Tinh Hoa Trí Tuệ (Thích Nhật Từ)
MỤC LỤC Chương I: Vai trò của Tâm Kinh.1 I. Giới thiệu Tâm Kinh..3 1. Tầm quan trọng của Tâm Kinh.3 2. Các bản dịch...4 Tìm mua: Tinh Hoa Trí Tuệ TiKi Lazada Shopee 3. Vị trí Tâm Kinh.7 II. Cấu trúc Tâm Kinh.9 1. Bối cảnh Pháp hội..9 2. Đối tượng quán chiếu...9 3. Nội hàm giải thoát...10 4. Nội hàm nhận thức: Chánh Tri Kiến..10 5. Thế giới quan và nhân sinh quan Bát-nhã... 11 6. Nội hàm tư duy: Chánh tư duy...12 7. Nội hàm Vô chấp: Pháp bất khả đắc..12 8. Thần chú Tâm Kinh.13 III. Tựa đề bài kinh..14 1. Chữ Tâm trong Tâm Kinh...14 2. Lầm lẫn về chữ Tâm...14 3. Ý nghĩa Tâm Kinh trong các nghi thức Phật giáo.15 IV. Ba biểu hiện của trí tuệ Bát-nhã..18 1. Về trí tuệ Bát-nhã..18 2. Văn tự Bát-nhã...19 3. Quán chiếu Bát-nhã..21 4. Thực tướng Bát-nhã.22 5. Kết luận..23 V. Những vấn đề quan trọng..24 vi • TINH HOA TRÍ TUỆ 1. Trí Tuệ Bát-nhã là Mẹ sinh ra pháp lành...24 2. Bối cảnh pháp thoại của văn hệ Bát-nhã...26 3. Diệu dụng của Bát-nhã...27 4. Định trong văn hệ Bát-nhã...29 5. Bát-nhã và cuộc sống hàng ngày...30 Chương II: Vượt qua khổ ách.37 I. Tuyên ngôn giải thoát...39 II. Những dị biệt trong các bản dịch..40 1. Bồ-tát Quán Tự Tại..40 2. Hành thâm Bát-nhã...47 3. Chiếu kiến ngũ uẩn giai không...55 4. Vượt qua khổ ách..66 III. Phương tiện chấm dứt khổ đau...67 Chương III: Cắt lớp cái tôi...69 I. Cái “Tôi” và sự vật...71 1. Ngã và Pháp.71 2. Tướng và thực-tướng...72 II. Tương liên giữa cái tôi và thực tướng của nó...73 1. Sự vật hiện hữu vốn không thực thể...74 2. Năm uẩn và khổ ách.76 3. Thực tướng của năm uẩn...77 III. Tính vô ngã của mọi hiện tượng.79 1. Khổ ách vốn không thực thể..79 2. Bốn trình tự thể nhập tánh Không...80 IV. Tính vô ngã của cái tôi...82 1. Thân thể hay sắc uẩn vốn không có thực thể..83 2. Cảm thọ vốn không thực thể..88 3. Ý tưởng vốn không thực thể.92 4. Tâm lý vốn không thực thể...96 5. Tâm thức vốn không thực thể..98 V. Kết luận.100 MỤC LỤC • vii Chương IV: Cắt lớp thực tại..103 I. Phân tích ngữ cảnh..105 1. Ý nghĩa chân thực của câu văn.105 2. Ba lớp cắt của thực tại..107 II. Phân tích thực tại.107 1. Mục đích.107 2. Thực tại và ý niệm.108 III. Phân tích ba lớp cắt của thực tại.. 112 1. Không sanh, không diệt.. 112 2. Không tăng, không giảm...121 3. Không dơ, không sạch.127 IV. Kết luận...131 Chương V: Phá chấp bằng phủ định.135 I. Phủ định là phương tiện.137 II. Buông bỏ mọi chấp mắc...138 1. Ý nghĩa nguyên văn...138 2. Ý nghĩa của từ phủ định “vô”...140 3. Nhu cầu buông bỏ mọi chấp mắc...141 III. Phủ định để buông bỏ ngũ uẩn..143 1. Phủ định để buông bỏ sắc uẩn.144 2. Phủ định để buông bỏ thọ uẩn..145 3. Phủ định để buông bỏ tưởng uẩn.146 4. Phủ định để buông bỏ hành uẩn..147 5. Phủ định để buông bỏ thức uẩn...147 6. Kết luận về sự chấp ngũ uẩn.148 IV. Phủ định để buông bỏ 18 giới...148 1. Phủ định để buông bỏ 6 giác quan.149 2. Phủ định để buông bỏ 6 đối tượng giác quan..165 3. Phủ định để buông bỏ 6 thức giác quan..165 V. Phủ định để buông bỏ chấp trước 12 nhân duyên...167 1. Các yếu tố thuộc quá khứ..167 viii • TINH HOA TRÍ TUỆ 2. Các yếu tố thuộc hiện tại.168 3. Hai yếu tố tương lai...170 4. Phủ định để buông bỏ 12 nhân duyên..171 VI. Kết luận...179 Chương VI: Phá chấp khổ và chứng đắc...181 I. Phá chấp về tứ đế..183 1. Đối tượng áp dụng..184 2. Mục đích của phá chấp khổ và chứng đắc.184 II. Phá chấp về khổ.186 1. Không có khổ đau thực sự..186 2. Không có khổ khi già..189 3. Không có khổ do bệnh tạo ra...190 4. Không có khổ do ái biệt ly.191 5. Không có khổ do cầu bất đắc...191 III. Phá chấp về nguyên nhân của khổ..194 IV. Phá chấp về niết bàn...196 V. Phá chấp về con đường tuyệt đối..198 VI. Phá chấp về trí tuệ...202 1. Phá chấp không có trí tuệ...202 2. Nội hàm của trí tuệ.203 3. Đỉnh cao của trí tuệ...206 VII. Phá chấp sự chứng đắc...207 VIII. Kết luận.212 Chương VII: Trí tuệ vượt sợ hãi..213 I. Sở đắc và quái ngại...215 II. Vượt qua các trở ngại.219 1. Trở ngại từ nghịch cảnh...219 2. Trở ngại về tâm lý..220 3. Trở ngại về thái độ..221 4. Trở ngại về lười biếng..221 5. Trở ngại về thói quen tiêu cực..222 MỤC LỤC • ix 6. Trở ngại do vô minh và cố chấp..222 III. Sử dụng trí tuệ vượt qua sợ hãi.223 IV. Vô hữu khủng bố..226 V. Viễn ly điên đảo mộng tưởng...230 VI. Cứu cánh niết bàn...235 Chương VIII: Phép mầu của tuệ giác..241 I. Tuệ giác không sợ hãi...243 II. Trí tuệ là mẹ sinh các đức Phật...245 III. Trí tuệ là đỉnh cao nhất của sáu năng lực...247 IV. Ba năng lực tuệ giác..249 V. Tuệ giác là phép mầu.252 VI. Tuệ giác Ba-la-mật khác.257 VII. Kết luận..265Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Thích Nhật Từ":Nghệ Thuật Hạnh Phúc Trong Thế Giới Phiền NãoTinh Hoa Trí TuệKinh Phật Cho Người Mới Bắt ĐầuHạnh Phúc Giữa Đời ThườngChuyển Hóa Cảm XúcChuyển Hóa Sân HậnChìa Khóa Hạnh Phúc Gia ĐìnhPhật Giáo Nam Tông Tại Vùng Nam BộKinh Vu Lan Bồn - Vu Lan Báo HiếuĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tinh Hoa Trí Tuệ PDF của tác giả Thích Nhật Từ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.