Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Yêu Trong Tỉnh Thức

Một chỉ dẫn “yêu không sợ hãi” đầy ngạc nhiên từ bậc thầy tâm linh Osho Những người đói khát trong nhu cầu, những người luôn kỳ vọng ở tình yêu chính là những người đau khổ nhất. Hai kẻ đói khát tìm thấy nhau trong một mối quan hệ yêu đương cùng những kỳ vọng người kia sẽ mang đến cho mình thứ mình cần – về cơ bản sẽ nhanh chóng thất vọng về nhau và cùng mang đến ngục tù khổ đau cho nhau. Trong cuốn sách Yêu, Osho - bậc thầy tâm linh, người được tôn vinh là một trong 1000 người kiến tạo của thế kỷ 20 – đã đưa ra những kiến giải sâu sắc về nhu cầu tâm lý có sức mạnh lớn nhất của nhân loại và “chỉ cho chúng ta cách trải nghiệm tình yêu”. Trong Yêu - Yêu Trong Tỉnh Thức, Gắn Bó Trong Niềm Tin (Tựa gốc: Being in Love), Osho dẫn người đọc vào một hành trình tìm hiểu táo bạo và đầy sôi nổi về “hiện tượng bí ẩn” mang tên tình yêu.  “Điều bạn cần làm không phải là học cách yêu, mà là loại bỏ những cách đánh mất tình yêu”, ông mở đầu. Trước tiên, Osho đưa ra một danh sách những điều “không phải là tình yêu”. Ông phân tích những nhu cầu đi kèm tình yêu thương đã phá hủy tình yêu ra sao, điều này diễn ra kể từ khi con người mới chào đời cho đến khi trưởng thành. Những thói quen đòi hỏi, mong muốn sở hữu người khác, kỳ vọng vào người khác… đều tạo nên sự hủy diệt và xung đột trong mọi mối quan hệ tình cảm, bao gồm cả tình yêu. Theo ông, tình yêu không bao gồm cảm giác ghen tuông, chiếm hữu, cạnh tranh, phụ thuộc, hay việc đòi hỏi người mình yêu phải hoàn hảo. Những điều trên đều khởi nguồn từ cái tôi, và Osho cho rằng: “Khi bạn thật sự yêu ai đó, cái tôi của bạn bắt đầu tan chảy và biến mất”. Thông qua từng chương của cuốn sách, bạn đọc nhận diện những dấu hiệu của một tình yêu đích thực: Sự cho đi và không chờ đợi được nhận lại, sự trưởng thành cá nhân, đặc biệt là sự tỉnh thức khi yêu. “Việc tỉnh táo nhận biết về bản thể của mình là sự khởi đầu của hành trình hướng tới tình yêu”. Trong phần trọng tâm của cuốn sách “Tình yêu là cơn gió mát lành” - Osho dành nhiều thời lượng bàn về những chỉ dẫn yêu đương, tinh tế, thấu cảm, hài hước và nhiệt tình chẳng kém gì một nhà tư vấn tâm lý hiện đại tài ba nhất. Ông hoá giải những trải nghiệm tệ hại mà ta gặp phải khi yêu: Sự hụt hẫng sau những phấn khích ban đầu hay thất vọng về tình dục. Hiếm có một bậc thầy tâm linh nào lại mang ánh sáng của thiền và đạo vào vấn đề tình dục, khoái cảm như Osho và ông đã kiến giải vấn đề này vô cùng uyên bác, thấu đáo và có tính giáo dục cao hơn bất cứ cuốn sách giáo dục giới tính nào trong vấn đề tình dục từng có. Osho cũng thẳng thừng gạt phăng những hiểu lầm, những “ý nghĩ vô nghĩa” về tình yêu như tư tưởng “yêu là đau khổ” hay phụ nữ không nên là người chủ động khi yêu. Sau cùng, Osho đưa ra những “niềm tin mới”, cổ vũ bạn đọc dấn thân vào tình yêu đích thực, thứ tình yêu của những linh hồn trưởng thành để đem đến sự hạnh phúc, khai sáng và chữa lành cho tất cả. Osho cũng đưa ra nhiều lời khuyên đáng giá cho các cặp đôi đang yêu. Chúng ta thường sợ hãi khi nghĩ về tình yêu, ta e ngại những nỗi đau lẫn rắc rối mà nó đem đến. Với “Yêu”, bằng giọng văn cá tính và cuốn hút đặc trưng, Osho đem đến sự thấu hiểu trọn vẹn về tình yêu, đồng thời truyền niềm tin và sự dũng cảm để bạn đọc bước vào trải nghiệm phức tạp này một cách mới mẻ trong thứ ánh sáng tỉnh thức của tâm linh. “Tình yêu chỉ có thể trưởng thành trong tình yêu”, ông nói, “Có điều gì đó thật đẹp đang chờ bạn phía trước. Nếu bạn có thể chờ đợi, nếu bạn có đủ kiên nhẫn và có thể tin tưởng, nó sẽ đến”. *** Trước tiên, Osho đưa ra một danh sách những điều không phải là tình yêu. Ông phân tích những nhu cầu đi kèm tình yêu thương đã phá hủy tình yêu ra sao, điều này diễn ra kể từ khi con người mới chào đời cho đến khi trưởng thành. Những thói quen đòi hỏi, mong muốn sở hữu người khác, kỳ vọng vào người khác… đều tạo nên sự hủy diệt và xung đột trong mọi mối quan hệ tình cảm, bao gồm cả tình yêu. Theo ông, tình yêu không bao gồm cảm giác ghen tuông, chiếm hữu, cạnh tranh, phụ thuộc, hay việc đòi hỏi người mình yêu phải hoàn hảo. Những điều trên đều khởi nguồn từ cái tôi, và Osho cho rằng:  Khi bạn thật sự yêu ai đó, cái tôi của bạn bắt đầu tan chảy và biến mất.  Thông qua từng chương của cuốn sách, bạn đọc nhận diện những dấu hiệu của một tình yêu đích thực: Sự cho đi và không chờ đợi được nhận lại, sự trưởng thành cá nhân, đặc biệt là sự tỉnh thức khi yêu.  Việc tỉnh táo nhận biết về bản thể của mình là sự khởi đầu của hành trình hướng tới tình yêu.    Trong phần trọng tâm của cuốn sách Tình yêu là cơn gió mát lành, Osho dành nhiều thời lượng bàn về những chỉ dẫn yêu đương, tinh tế, thấu cảm, hài hước và nhiệt tình chẳng kém gì một nhà tư vấn tâm lý hiện đại tài ba nhất. Ông hoá giải những trải nghiệm tệ hại mà ta gặp phải khi yêu: Sự hụt hẫng sau những phấn khích ban đầu hay thất vọng về tình dục. Hiếm có một bậc thầy tâm linh nào lại mang ánh sáng của thiền và đạo vào vấn đề tình dục, khoái cảm như Osho và ông đã kiến giải vấn đề này vô cùng uyên bác, thấu đáo và có tính giáo dục cao hơn bất cứ cuốn sách giáo dục giới tính nào trong vấn đề tình dục từng có. Osho cũng thẳng thừng gạt phăng những hiểu lầm, những “ý nghĩ vô nghĩa” về tình yêu như tư tưởng “yêu là đau khổ” hay phụ nữ không nên là người chủ động khi yêu. Sau cùng, Osho đưa ra những niềm tin mới, cổ vũ bạn đọc dấn thân vào tình yêu đích thực, thứ tình yêu của những linh hồn trưởng thành để đem đến sự hạnh phúc, khai sáng và chữa lành cho tất cả. Osho cũng đưa ra nhiều lời khuyên đáng giá cho các cặp đôi đang yêu. Chúng ta thường sợ hãi khi nghĩ về tình yêu, ta e ngại những nỗi đau lẫn rắc rối mà nó đem đến. Với Yêu, bằng giọng văn cá tính và cuốn hút đặc trưng, Osho đem đến sự thấu hiểu trọn vẹn về tình yêu, đồng thời truyền niềm tin và sự dũng cảm để bạn đọc bước vào trải nghiệm phức tạp này một cách mới mẻ trong thứ ánh sáng tỉnh thức của tâm linh.  Tình yêu chỉ có thể trưởng thành trong tình yêu. Có điều gì đó thật đẹp đang chờ bạn phía trước. Nếu bạn có thể chờ đợi, nếu bạn có đủ kiên nhẫn và có thể tin tưởng, nó sẽ đến. Về tác giả Osho là bậc đạo sư gây tranh cãi bậc nhất, đồng thời cũng có ảnh hưởng nhất. Tờ Sunday Times của London mô tả Osho là một trong 1000 người kiến tạo của thế kỷ 20. Còn tờ Sunday Mid-day của Ấn Độ bình chọn Osho là một trong 10 người, cùng với Gandhi, Nehru và Đức Phật, thay đổi vận mệnh của Ấn Độ. Sách của ông đã được dịch ra hơn 60 ngôn ngữ trên thế giới. Osho được biết đến với những đóng góp mang tính cách mạng trong lĩnh vực chuyển hoá nội tâm thông qua thiền định. Phương pháp thiền động của Osho (active meditation) giúp giải toả căng thẳng cho thân và tâm, giúp mọi người dễ dàng trải nghiệm sự an nhiên, tĩnh tại.  *** Tình yêu là gì? Thật tiếc khi phải bắt đầu bằng câu hỏi này. Với những gì diễn ra trong cuộc sống, tưởng chừng như mọi người đều biết câu trả lời cho câu hỏi này, nhưng trên thực tế, chỉ rất ít người biết rõ tình yêu là gì. Tình yêu trở thành một trong những trải nghiệm hiếm hoi nhất. Đúng vậy, người ta nói nhiều về tình yêu. Tình yêu được nhắc đến trong các bộ phim, trong những câu chuyện kể, trong các ca khúc, các chương trình truyền hình, radio, tạp chí – một ngành công nghiệp khổng lồ với vô vàn cách định nghĩa về tình yêu. Thậm chí nhiều người còn làm công việc hỗ trợ người khác hiểu tình yêu là gì. Nhưng tình yêu vẫn là một hiện tượng bí ẩn. Nó gần giống như khi ai đó hỏi “Thức ăn là gì?”. Liệu bạn có bất ngờ khi ai đó đến hỏi bạn câu hỏi trên? Trừ khi người đó bị bỏ đói ngay từ đầu và chưa từng nếm qua mùi vị thức ăn, câu hỏi đó mới được xem là có liên quan. Trường hợp này cũng tương tự như câu hỏi “Tình yêu là gì?”. Tình yêu là thức ăn nuôi dưỡng tâm hồn, nhưng bạn đã bị bỏ đói. Tâm hồn bạn không nhận được tình yêu, cho nên bạn không biết được mùi vị của nó. Cơ thể nhận thức ăn nên cơ thể được duy trì sự sống; còn tâm hồn chưa nhận được thức ăn nên tâm hồn đã chết, hoặc chưa được sinh ra, hoặc luôn ở ngưỡng cửa của cái chết. Ngay từ khi chào đời, chúng ta đều được trang bị khả năng yêu và được yêu. Mỗi đứa trẻ được sinh ra đều chan chứa tình yêu và biết rõ tình yêu là gì. Bạn không cần phải dạy đứa trẻ tình yêu là gì. Nhưng vấn đề nảy sinh bởi vì bố mẹ chúng không biết tình yêu là gì. Đứa trẻ không được chọn người cha, người mẹ xứng đáng với nó – không đứa trẻ nào có được diễm phúc đó; những người cha, người mẹ kiểu đó không tồn tại trên trái đất này. Và vào thời điểm khi trở thành cha, thành mẹ, đứa trẻ cũng đánh mất khả năng yêu. Tôi có nghe kể về một thung lũng nhỏ, nơi những đứa trẻ đều trở nên mù lòa sau khi chào đời được ba tháng. Đó là một cộng đồng nhỏ, vắng vẻ, nơi có một loại bệnh truyền từ ruồi gây mù mắt, do đó cả cộng đồng đều bị mù. Mỗi đứa trẻ tại đây đều chào đời với cặp mắt bình thường, nhưng chỉ tối đa ba tháng, chúng đều bị mù bởi những con ruồi truyền bệnh. Đến một ngày nào đó, hẳn những đứa trẻ này sẽ hỏi: “Mắt là gì? Bạn có thể cho biết nghĩa của từ mắt? Thị lực là gì? Nhìn thấy là gì?”. Khi đó câu hỏi mới có liên quan. Những đứa trẻ này được sinh ra với thị lực bình thường, nhưng thị lực đó đã bị mất đi trong quá trình trưởng thành của chúng. Đó là những gì đã xảy ra với tình yêu. Mỗi đứa trẻ đều được sinh ra với tình yêu chan chứa, tràn đầy, nhiều hơn mức chúng có thể đón nhận. Một đứa trẻ chào đời chính là kết quả của tình yêu; đứa trẻ được tạo thành từ những thứ được gọi là tình yêu. Nhưng cha mẹ không biết trao đi tình yêu. Họ đang chịu đựng dư vị khó tiêu của mình – cha mẹ chúng không bao giờ yêu chúng. Cha mẹ chỉ giả vờ yêu thôi. Họ có thể nói về tình yêu. Họ có thể nói: “Ta yêu con rất nhiều”, nhưng trên thực tế họ không yêu đứa con của mình. Cách họ hành xử, cách họ đối xử với đứa trẻ gây ra cảm giác xúc phạm; không hề có sự tôn trọng nào. Cha mẹ không tôn trọng đứa trẻ. Ai lại đi tôn trọng một đứa trẻ? Một đứa trẻ không được như một con người. Đứa trẻ là vấn đề. Nếu im lặng, nó là đứa trẻ ngoan; nếu nó không la hét hay khiến người lớn khổ sở, tốt; nếu nó không cản trở cha mẹ của nó, càng tốt. Đó là những điều nên có ở một đứa trẻ. Nếu thế thì không có sự tôn trọng và không có tình yêu. Cha mẹ chúng không biết tình yêu là gì. Người vợ không yêu chồng, người chồng không yêu vợ. Giữa họ không tồn tại tình yêu – thay vào đó là sự chi phối, chiếm hữu, ghen tuông, và đủ kiểu độc dược hủy hoại tình yêu. Giống như loại độc dược phá hủy thị giác, độc dược mang tên sự chiếm hữu và ghen tuông cũng sẽ hủy hoại tình yêu. Tình yêu là một bông hoa mong manh. Nó cần được bảo vệ, được chăm bón; chỉ có như vậy nó mới trở nên mạnh mẽ. Tình yêu của đứa trẻ cũng rất mong manh, bởi vì đứa trẻ mong manh, nên cơ thể nó mong manh. Bạn nghĩ liệu đứa trẻ sẽ tồn tại nếu bị bỏ mặc một mình ư? Hãy nghĩ xem một đứa trẻ bơ vơ như thế nào – nếu bị bỏ mặc một mình, đứa trẻ gần như không thể sinh tồn được. Nó sẽ chết – và đó là điều đang xảy ra với tình yêu. Tình yêu bị bỏ mặc, không ai chăm sóc. Cha mẹ không biết yêu, họ không biết tình yêu là gì, họ chưa bao giờ ngụp lặn trong tình yêu. Hãy nghĩ về cha mẹ của bạn, và hãy nhớ, tôi không nói rằng họ phải chịu trách nhiệm. Họ cũng là nạn nhân giống như bạn; cha mẹ của họ cũng tương tự như cha mẹ của bạn. Lời đe dọa luôn có ở đó, và cha mẹ luôn đe dọa tống cổ con cái ra ngoài. “Nếu không nghe lời, nếu không hành xử cho đúng, con sẽ bị đuổi ra khỏi nhà”. Lẽ dĩ nhiên, đứa trẻ lo sợ. Bị ném ra khỏi nhà ư? Phải bước vào giông bão cuộc đời ư? Đứa trẻ bắt đầu thỏa hiệp. Đứa trẻ dần dần bị uốn nắn, và nó bắt đầu chơi trò gian lận. Đứa trẻ không muốn cười nhưng nếu muốn uống sữa khi ở cạnh người mẹ, nó sẽ mỉm cười. Giờ thì đây chính là sự bày mưu tính kế – sự khởi đầu, bài học vỡ lòng của cuộc chiến quyền lực. Tận sâu trong lòng, đứa trẻ bắt đầu ghét cha mẹ bởi vì nó không được tôn trọng; tận sâu trong lòng, đứa trẻ bắt đầu cảm thấy thất vọng bởi nó không được yêu thương như vốn có. Nó được kỳ vọng phải làm những việc nào đó, và chỉ nhờ làm vậy, nó mới được yêu thương. Tình yêu có điều kiện; nó không xứng đáng như vốn có. Đầu tiên, nó phải trở nên xứng đáng, chỉ khi đó nó mới có được tình yêu của cha mẹ. Cho nên, để trở nên xứng đáng, đứa trẻ bắt đầu giả tạo; nó đánh mất cảm nhận về giá trị thật của mình. Nó cũng đánh mất luôn cả sự tự tôn, và dần dần nó bắt đầu cảm thấy rằng mình có tội. Nhiều ý nghĩ chợt thoáng qua trong tâm trí đứa trẻ: “Liệu đây có phải cha mẹ thật của mình không? Có khi nào mình là con nuôi? Có lẽ họ đang lừa dối mình bởi vì dường như không có tình yêu”. Ngàn lẻ một lần đứa trẻ nhìn thấy sự giận dữ trong mắt cha mẹ, những biểu hiện xấu xí trên khuôn mặt họ, và những điều nhỏ nhặt đến mức đứa trẻ không thể hiểu được sao họ có thể trở nên giận dữ như thế. Chỉ vì những điều rất nhỏ mà đứa trẻ nhìn thấy cơn thịnh nộ của cha mẹ – nó không thể tin được, điều đó thật vô lý và không công bằng! Nhưng đứa trẻ phải đầu hàng, phải cúi đầu, phải chấp nhận chuyện này như một lẽ tất yếu. Dần dần, khả năng yêu thương của nó bị hủy diệt. Tình yêu chỉ có thể trưởng thành trong tình yêu. Tình yêu cần có một môi trường yêu thương để nảy nở – đó là nền tảng cơ bản nhất cần phải ghi nhớ. Chỉ ở trong môi trường yêu thương thì tình yêu mới phát triển; nó cần nhịp đập, sự rung động tương tự xung quanh. Nếu người mẹ yêu thương, người cha yêu thương – không chỉ đối với đứa trẻ mà họ còn yêu thương nhau, nếu ngôi nhà tràn ngập bầu không khí yêu thương – đứa trẻ sẽ bắt đầu hành xử như là một người có tình yêu, và nó sẽ không bao giờ đặt câu hỏi “Tình yêu là gì?”. Ngay từ đầu, đứa trẻ sẽ biết tình yêu là gì và tình yêu đó trở thành nền tảng của nó. Nhưng điều đó không xảy ra. Thật tiếc khi phải nói điều này nhưng nó không xảy ra cho đến tận ngày nay. Và trẻ con học theo cách của cha mẹ – cằn nhằn, chì chiết, xung đột. Cứ tự mình quan sát đi. Nếu bạn là phụ nữ, hãy nhìn xem, bạn có thể đang lặp lại, gần như giống hệt cách mẹ bạn từng hành xử. Hãy quan sát khi bạn ở cạnh bạn trai hoặc chồng – Bạn đang làm gì? Bạn không lặp lại cùng một kiểu ư? Nếu bạn là đàn ông, hãy nhìn xem – Bạn đang làm gì? Liệu bạn không hành xử giống như cha của bạn? Bạn sẽ không làm những việc vô nghĩa như ông ấy từng làm? Đã từng có lúc bạn ngạc nhiên tự hỏi: “Sao cha mình có thể làm điều này?”, và giờ bạn đang làm giống hệt ông ấy. Mọi người cứ mãi lặp lại, mọi người đều là những kẻ bắt chước. Bạn cứ lặp lại hành động của cha mình, của mẹ mình, và bạn cần phải từ bỏ điều đó. Chỉ khi đó bạn mới biết tình yêu là gì, bằng không, bạn sẽ mãi biến chất. Tôi không thể định nghĩa tình yêu là gì bởi vì không có định nghĩa về tình yêu. Nó là một trong những thứ không thể định nghĩa được giống như sự chào đời, cái chết, Thượng đế, thiền. Nó là một trong những thứ không thể định nghĩa được – tôi không thể định nghĩa được nó. Tôi không thể nói rằng “Đây là tình yêu”, tôi không thể chỉ ra cho bạn thấy. Nó không phải là một hiện tượng hữu hình. Nó không thể được mổ xẻ, phân tích, nó chỉ có thể được trải nghiệm, và chỉ bằng trải nghiệm, bạn mới biết tình yêu là gì. Nhưng tôi có thể chỉ cho bạn cách trải nghiệm tình yêu. Bước đầu tiên là từ bỏ tiếng nói của cha mẹ vang vọng bên trong bạn, chương trình bên trong bạn, những cuộn băng ghi âm bên trong bạn. Hãy xóa bỏ chúng, bạn sẽ được tự do. Lần đầu tiên, bạn sẽ cảm nhận được lòng trắc ẩn dành cho cha mẹ mình; bằng không, bạn sẽ mãi oán giận họ. Mọi người đều có lúc cảm thấy oán giận cha mẹ của mình. Làm sao bạn lại không oán giận khi họ đã làm quá nhiều điều sai trái với bạn? Nhưng họ đâu chủ ý làm hại bạn – họ chúc bạn có được những điều tốt đẹp, họ muốn làm mọi thứ vì hạnh phúc của bạn. Họ có thể làm gì nữa đây? Bạn không thể khiến điều gì đó xảy ra chỉ bằng cách mong muốn có nó. Những lời cầu chúc tốt đẹp sẽ chẳng khiến cho điều gì xảy ra. Họ là những người giỏi cầu chúc, đó là sự thật. Không có gì phải nghi ngờ. Mọi cha mẹ đều muốn con cái mình có được mọi niềm vui trong cuộc sống. Nhưng họ có thể làm gì? Bản thân họ cũng chưa nếm trải được niềm vui nào. Họ là những con rô-bốt, và dù vô tình hay cố ý, họ sẽ tạo ra một bầu không khí khiến con cái của họ sớm muộn gì cũng biến thành những con rô-bốt. Nếu bạn muốn trở thành con người chứ không phải một cỗ máy, hãy thoát khỏi tiếng nói của cha mẹ vang vọng bên trong bạn. Và bạn phải thận trọng. Đó là một việc khó khăn, gian khổ; bạn không thể làm được điều đó ngay lập tức. Bạn sẽ phải rất cẩn thận trong hành vi của mình. Hãy quan sát và chờ xem khi nào mẹ của bạn ở đó, đang hành xử thông qua bạn, hãy dừng ngay lập tức, thoát khỏi nó. Hãy làm điều gì đó hoàn toàn mới mẻ mà mẹ của bạn thậm chí không thể hình dung nổi. Chẳng hạn như, bạn trai của bạn đang nhìn một người phụ nữ khác với ánh mắt vô cùng ngưỡng mộ. Giờ thì hãy xem bạn sẽ làm gì. Bạn sẽ hành xử như cách mẹ của bạn đã làm khi cha của bạn chiêm ngưỡng người phụ nữ khác? Nếu làm điều đó, bạn sẽ không bao giờ biết được tình yêu là gì, bạn sẽ chỉ đang lặp lại một câu chuyện. Đó sẽ là hành động được diễn bởi nhiều người khác nhau, chỉ có thế; cùng một hành động tồi tệ nhưng được lặp đi lặp lại. Đừng là người bắt chước, hãy thoát khỏi nó. Hãy làm điều gì đó mới mẻ. Hãy làm điều gì đó mà mẹ của bạn không thể tưởng tượng được. Hãy làm điều gì đó mới mẻ mà cha của bạn không thể hình dung được. Sự mới mẻ này phải được mang đến bản thể của bạn, khi đó tình yêu của bạn mới bắt đầu tuôn tràn. Do đó, việc cần làm đầu tiên là thoát khỏi tiếng nói của cha mẹ vang vọng bên trong bạn. Còn đây là việc cần làm tiếp theo. Mọi người cho rằng họ chỉ có thể yêu khi tìm thấy được người xứng đáng – thật vô nghĩa! Bạn sẽ không bao giờ tìm thấy người đó. Mọi người nghĩ rằng họ sẽ chỉ yêu khi tìm thấy một người đàn ông hoàn hảo, hoặc một người phụ nữ hoàn hảo. Thật vô nghĩa! Bạn sẽ không tìm thấy bởi vì người đàn ông hoàn hảo và người đàn bà hoàn hảo không tồn tại. Nếu tồn tại, họ sẽ không bận lòng về tình yêu của bạn. Họ sẽ không quan tâm. ------------------------------------ ∞ ------------------------------------ Tôi được nghe kể về một người đàn ông suốt đời cô độc bởi vì ông ta vẫn luôn tìm kiếm người phụ nữ hoàn hảo. Ở tuổi bảy mươi, ông ấy được hỏi: “Ông đã đi khắp nơi, đã tìm kiếm khắp nơi, từ New York đến Kathmandu, từ Kathmandu đến Rome, từ Rome đến Luân Đôn. Ông vẫn không thể tìm thấy được người phụ nữ hoàn hảo? Không một người nào ư?”. Người đàn ông buồn bã nói: “Có, tôi đã tìm thấy. Vào một ngày cách đây đã lâu, tôi tình cờ gặp một người phụ nữ hoàn hảo”. “Thế điều gì đã xảy ra? Vì sao ông không đến với người đó?” Người đàn ông rầu rĩ đáp: “Biết làm sao đây? Cô ấy cũng đang tìm kiếm một người đàn ông hoàn hảo”. ------------------------------------ ∞ ------------------------------------ Hãy nhớ, khi hai người đều hoàn hảo, nhu cầu đối với tình yêu của họ không giống với nhu cầu đối với tình yêu của bạn. Nó chứa đựng một đặc tính hoàn toàn khác biệt. Bạn thậm chí không hiểu được kiểu tình yêu có thể xảy ra với bạn, nên bạn sẽ không thể nào hiểu được tình yêu xảy ra với Đức Phật, hay tình yêu chan chứa mà Lão Tử dành cho bạn, bạn sẽ không thể nào hiểu được. Trước hết, bạn phải hiểu rằng tình yêu là một hiện tượng tự nhiên. Bạn phải hiểu cái tự nhiên, rồi sau đó mới đến cái siêu vượt. Điều thứ hai cần ghi nhớ là đừng bao giờ tìm kiếm một người đàn ông hoàn hảo hay một người phụ nữ hoàn hảo. Ý tưởng đó cũng được gieo vào đầu bạn, rằng chừng nào chưa tìm thấy được người đàn ông hoàn hảo hay người phụ nữ hoàn hảo, bạn sẽ không thể hạnh phúc. Do đó, bạn cứ mãi tìm kiếm, và vì không tìm thấy nên bạn bất hạnh. Để dâng tràn và trưởng thành trong tình yêu, bạn không cần đến sự hoàn hảo. Tình yêu không liên quan đến điều gì khác. Một người đang yêu chỉ đơn giản là yêu thôi, giống như một người đang sống sẽ hít thở, ăn, uống và ngủ vậy. Bạn không thể nói: “Tôi sẽ không thở chừng nào không khí chưa trong lành”. Bạn vẫn thở dù là ở Los Angeles, hay Mumbai. Bạn không ngừng thở cho dù không khí có bị ô nhiễm, nhiễm độc khắp nơi. Bạn vẫn tiếp tục thở! Bạn không thể ngừng thở chỉ vì không khí không được trong lành. Nếu đói, bạn sẽ ăn vì đói, bất kể là gì. Ở sa mạc, nếu sắp chết khát, bạn sẽ uống bất cứ thứ gì. Bạn sẽ không khăng khăng chỉ uống Coca-Cola, bất cứ thứ gì cũng được, mọi loại đồ uống, chỉ cần là nước, cho dù là nước bẩn. Con người thậm chí còn uống cả nước tiểu của mình. Khi sắp chết khát, anh ta sẽ không bận tâm đó là nước gì, anh ta sẽ uống bất cứ thứ gì để thỏa cơn khát. Con người đã giết cả lạc đà trên sa mạc để lấy nước, bởi vì lạc đà tích trữ nước bên trong cơ thể. Lúc này, tình huống trở nên nguy hiểm, bởi vì giờ đây người đó sẽ phải đi bộ hàng dặm. Nhưng vì khát đến mức họ chỉ nghĩ đến những gì trước mắt – nếu không có nước, họ sẽ chết. Không có nước, cho dù lạc đà còn sống thì họ sẽ đi đâu? Lạc đà sẽ phải mang xác chết đi bởi vì họ sẽ chết vì thiếu nước. Một người còn sống và đang yêu chỉ đơn giản yêu thôi. Tình yêu là một chức năng tự nhiên. Do đó, điều thứ hai cần ghi nhớ là đừng đòi hỏi sự hoàn hảo, bằng không bạn sẽ không tìm thấy chút tình yêu nào tuôn chảy trong bạn. Ngược lại, bạn sẽ trở thành người không có tình yêu. Những người đòi hỏi sự hoàn hảo là những người loạn thần kinh chức năng, không có tình yêu. Cho dù có tìm thấy một người yêu hoàn hảo như họ muốn thì tình yêu ấy cũng sẽ bị hủy hoại bởi vì sự đòi hỏi kia. Khi một người đàn ông yêu một người phụ nữ hoặc một người phụ nữ yêu một người đàn ông, những đòi hỏi sẽ lập tức xuất hiện. Người phụ nữ bắt đầu đòi hỏi rằng người đàn ông phải hoàn hảo, chỉ vì anh ta yêu cô ta. Như thể anh ta đã mắc tội! Giờ thì anh ta phải hoàn hảo, giờ thì bỗng nhiên anh ta phải bỏ hết những mặt hạn chế của mình, chỉ vì người phụ nữ này ư? Giờ đây, anh ta không thể là con người ư? Anh ta hoặc phải trở thành siêu nhân hoặc phải trở thành kẻ lừa dối. Dĩ nhiên là rất khó để trở thành siêu nhân, do đó con người trở thành những kẻ lừa dối. Họ bắt đầu giả vờ, đóng kịch và sử dụng chiêu trò. Nhân danh tình yêu, họ chỉ đang sử dụng chiêu trò. Do đó, điều thứ hai cần ghi nhớ là đừng bao giờ đòi hỏi sự hoàn hảo. Bạn không có quyền đòi hỏi bất cứ điều gì từ ai. Nếu ai đó yêu bạn, hãy cảm thấy biết ơn nhưng đừng đòi hỏi gì cả, bởi vì người kia không có nghĩa vụ phải yêu bạn. Nếu được yêu, đó là một điều kỳ diệu. Hãy để tim bạn rung lên bởi sự kỳ diệu đó. Nhưng con người không rung động. Vì những việc nhỏ nhặt, họ sẽ hủy hoại mọi khả năng yêu thương. Họ không quan tâm nhiều đến tình yêu và niềm vui của tình yêu. Họ quan tâm đến hành trình của cái tôi hơn. Hãy quan tâm đến niềm vui của bạn. Hãy hết lòng quan tâm đến niềm vui của bạn, chỉ quan tâm đến niềm vui của bạn. Mọi thứ khác không quan trọng. Hãy yêu – như là một chức năng hoạt động tự nhiên, giống như hít thở vậy. Và khi bạn yêu một người, đừng đòi hỏi; bằng không, ngay từ đầu, bạn đang đóng các cánh cửa lại. Đừng kỳ vọng bất cứ điều gì. Nếu điều gì đó xảy ra như bạn mong muốn, hãy cảm thấy biết ơn. Nếu không có gì xuất hiện, nó không cần phải xuất hiện, không cần thiết. Bạn không thể kỳ vọng về nó. Hãy quan sát mọi người, nhìn cách họ coi nhau như là điều tất yếu. Nếu người vợ chuẩn bị thức ăn cho bạn, bạn không bao giờ cảm ơn cô ấy. Tôi không nói rằng bạn phải nói ra lời cảm ơn của mình, mà nó cần được thể hiện qua ánh mắt. Nhưng bạn không bận tâm, bạn cho đó là điều hiển nhiên – đó là việc của cô ấy. Ai nói với bạn thế? Nếu người chồng đi làm kiếm tiền, bạn không bao giờ cảm ơn anh ta. Bạn không cảm thấy biết ơn. “Đó là việc mà một người đàn ông nên làm”. Vậy thì làm sao tình yêu có thể phát triển? Tình yêu cần một bầu không khí yêu thương, tình yêu cần một bầu không khí của lòng biết ơn. Tình yêu cần một môi trường không đòi hỏi, không kỳ vọng. Đây là điều thứ hai cần ghi nhớ. Và điều thứ ba là, thay vì nghĩ cách để yêu, hãy bắt đầu cho đi. Nếu cho đi, bạn sẽ nhận về. Không có cách nào khác. Nhưng mọi người quan tâm nhiều đến cách lấy về và nhận về. Mọi người đều muốn nhận về, dường như không ai thích cho đi. Mọi người cho đi một cách miễn cưỡng – nếu phải cho đi, họ cho đi để nhận về, và việc đó gần giống như một thương vụ. Đó là một cuộc mặc cả. Họ luôn theo dõi để đảm bảo rằng mình nhận về nhiều hơn là cho đi, khi đó nó sẽ là một cuộc mặc cả tốt, một thương vụ hời. Và người khác cũng sẽ làm điều tương tự. Tình yêu không phải là một cuộc đổi chác, do đó đừng xem nó như là một thương vụ. Bằng không, bạn sẽ bỏ lỡ cuộc đời mình và tình yêu của mình, đó là tất cả những gì tuyệt đẹp của cuộc sống, bởi vì tất cả những gì xinh đẹp đều không phải là thương vụ. Kinh doanh là thứ xấu xa nhất trên thế giới này – một sự xấu xa cần thiết, nhưng sự hiện hữu không biết gì về kinh doanh. Cây ra hoa, đó không phải là kinh doanh; các vì sao tỏa sáng, đó không phải là kinh doanh, và bạn không phải trả tiền cho nó, không ai đòi hỏi điều gì ở bạn. Một con chim bay đến đậu ở cửa nhà bạn và hót, con chim đó không đòi bạn cấp giấy chứng nhận hay khen ngợi nó. Nó ríu rít rồi hạnh phúc bay đi, không để lại dấu vết nào. Đó là cách tình yêu phát triển. Cho đi, và đừng chờ đợi xem bạn có thể nhận về bao nhiêu. Đúng vậy, nó sẽ đến, nó đến gấp ngàn lần nhưng đến một cách tự nhiên. Tự nó xuất hiện, bạn không cần phải đòi hỏi. Khi bạn đòi hỏi, nó sẽ không bao giờ đến. Khi đòi hỏi, bạn đã giết chết nó. Vậy nên hãy cho đi. Hãy bắt đầu cho đi. Ban đầu, việc này rất khó, bởi vì cả cuộc đời mình, bạn đã được dạy bảo là không cho đi mà nhận về. Ngay từ đầu, bạn sẽ phải chiến đấu với chiếc áo giáp của mình. Cơ bắp của bạn đã trở nên khô cứng, trái tim bạn đã trở nên băng giá. Ngay từ đầu, đây là việc khó khăn, nhưng mỗi bước đi sẽ dẫn bạn đến một bước đi xa hơn, và dần dần dòng suối bắt đầu tuôn chảy. Đầu tiên, hãy thoát khỏi tiếng nói của cha mẹ vang vọng bên trong bạn. Khi thoát khỏi tiếng nói ấy, bạn sẽ thoát khỏi xã hội; khi thoát khỏi tiếng nói ấy, bạn sẽ thoát khỏi sự văn minh, giáo dục, mọi thứ – bởi vì cha mẹ là đại diện cho tất cả những điều đó. Bạn sẽ trở thành một cá thể độc lập. Lần đầu tiên, bạn không còn thuộc về đám đông, bạn có cá tính độc lập của riêng mình. Bạn được là chính mình. Đây chính là sự trưởng thành. Đây chính là những gì một người trưởng thành cần có. Người trưởng thành là người không cần ai để neo bám hoặc dựa dẫm. Người trưởng thành là người hạnh phúc trong chính sự cô độc của mình – sự cô độc của người đó là một ca khúc, là một sự ăn mừng. Người trưởng thành là người có thể tự mình hạnh phúc. Sự cô độc của người đó không phải là sự đơn độc, sự cô độc của người đó là tĩnh lặng, là thiền. Một ngày nào đó, bạn phải bước ra khỏi tử cung của người mẹ. Nếu ở trong đó lâu hơn chín tháng, bạn sẽ chết – không chỉ bạn mà mẹ bạn cũng chết. Một ngày nào đó, bạn phải bước ra khỏi tử cung của người mẹ; rồi một ngày nào đó, bạn phải bước ra khỏi môi trường gia đình – một loại tử cung khác – để đến trường. Rồi một ngày nào đó, bạn phải bước ra khỏi trường học để đi vào thế giới rộng lớn hơn. Nhưng tận sâu trong lòng, bạn vẫn là một đứa trẻ. Bạn vẫn ở trong tử cung! Hết lớp tử cung này đến lớp tử cung khác và tử cung đó cần phải bị phá vỡ. Người phương Đông gọi đó là sự chào đời lần thứ hai. Khi đạt đến sự chào đời lần thứ hai, bạn hoàn toàn thoát khỏi dấu ấn của cha mẹ. Và cái đẹp nằm ở chỗ chỉ người như thế mới cảm thấy biết ơn cha mẹ. Nghịch lý là chỉ người như thế mới có thể tha thứ cho cha mẹ của mình. Anh ta cảm nhận được lòng trắc ẩn và tình yêu dành cho cha mẹ, anh ta cảm nhận một cách vô cùng sâu sắc bởi vì họ cũng đã chịu đựng như những gì anh ta chịu đựng. Anh ta không giận dữ, không giận một chút nào. Anh ta có thể khóc nhưng không giận dữ, và anh ta sẽ làm mọi cách để giúp cha mẹ mình đạt đến trạng thái cô độc đó, tầm cao cô độc đó. Hãy trở thành những cá thể độc lập, đó là việc đầu tiên. Việc thứ hai là đừng kỳ vọng sự hoàn hảo và đừng yêu sách, đòi hỏi. Hãy yêu những con người bình thường. Không có gì sai với những người bình thường. Những người bình thường chính là những người phi thường! Mỗi con người đều là một cá thể độc nhất; hãy tôn trọng tính độc đáo đó. Thứ ba là hãy cho đi, và cho đi một cách vô điều kiện, khi đó bạn sẽ biết tình yêu là gì. Mời các bạn đón đọc Yêu Trong Tỉnh Thức của tác giả Osho & Lâm Đặng Cam Thảo (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thương Lượng Không Nhân Nhượng
Cho dù thích hay không, bạn vẫn là một nhà đàm phán. Đàm phán là thực tế của cuộc sống. Bạn đàm phán việc tăng lương với sếp. Bạn cố gắng thỏa thuận với một người về giá cả ngôi nhà của anh ấy. Hai vị luật sư đã nỗ lực giải quyết vụ án phát sinh từ vụ tai nạn ô tô. Một nhóm các công ty dầu lửa lên kế hoạch thành lập công ty liên doanh khai thác dầu ngoài khơi. Một quan chức thành phố họp với lãnh đạo nghiệp đoàn để ngăn chặn cuộc bãi công. Ngoại trưởng Hoa Kỳ cùng ngồi với người đồng cấp Liên Xô để tìm cách thỏa thuận về hạn chế vũ khí hạt nhân. Tất cả những việc này đều là đàm phán. Hằng ngày, ai cũng đàm phán điều gì đó. Cũng giống như ngài Jourdain của Molière, người sung sướng nhận ra mình đã nói văn xuôi suốt cả cuộc đời, mọi người đàm phán ngay cả khi họ không nghĩ là mình đang làm vậy. Bạn đàm phán với vợ/chồng về việc đi đâu để ăn tối và thỏa thuận với con cái lúc nào thì tắt đèn đi ngủ. Đàm phán là phương tiện cơ bản để đạt được điều bạn muốn từ người khác. Đây là quá trình trao đổi qua lại nhằm tiến tới thỏa thuận khi bạn và đối phương có cùng lợi ích hay mâu thuẫn quyền lợi với nhau. Ngày càng có nhiều trường hợp đòi hỏi phải tiến hành đàm phán và tránh được xung đột là một kỹ nghệ phát triển. Mọi người đều muốn tham gia vào những quyết định có ảnh hưởng đến họ; chẳng mấy ai chịu chấp nhận quyết định do người khác đưa ra. Không ai giống ai và con người dùng đàm phán để giải quyết sự bất đồng. Dù trong doanh nghiệp, chính phủ hay gia đình thì hầu hết mọi người đều ra quyết định thông qua đàm phán. Ngay cả khi ở tòa án, gần như người ta luôn đàm phán cách giải quyết trước khi xét xử. Mặc dù đàm phán diễn ra hằng ngày, nhưng để làm tốt việc này thì lại thật không dễ. Các chiến lược đàm phán thường khiến mọi người thấy không hài lòng, kiệt sức, bị xa lánh – hoặc thường xuyên có cả ba cảm giác này. Con người thường thấy bản thân rơi vào những tình thế khó xử. Họ có hai cách để đàm phán: Mềm dẻo hoặc cứng rắn. Những nhà đàm phán mềm dẻo thường muốn tránh xung đột cá nhân, vì vậy, họ sẵn sàng nhân nhượng để đạt được thỏa thuận. Những người này muốn tiến tới hòa giải; tuy vậy, rốt cuộc họ thường bị lợi dụng nên cảm thấy rất cay đắng. Những nhà đàm phán cứng rắn lại cho rằng mọi tình huống là sự thử thách ý chí, ở đó, bên nào có lập trường cực đoan hơn và giữ miếng lâu hơn sẽ có chiếm ưu thế. Họ muốn giành thắng lợi; tuy vậy, họ thường kết thúc cuộc đàm phán bằng việc tạo ra sự phản ứng không kém phần cứng rắn, gây cạn kiệt sức lực và phương hại tới mối quan hệ với phía bên kia. Các chiến lược đàm phán phổ biến khác nằm giữa loại chiến lược mềm dẻo và loại cứng rắn, nhưng mỗi chiến lược này thường hướng tới sự thỏa hiệp giữa việc đạt được điều bạn muốn và giữ hòa khí với mọi người. Cách đàm phán thứ ba, không thiên về cứng rắn hay mềm dẻo, mà là vừa cứng rắn vừa mềm dẻo. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc được xây dựng trong Dự án Kỹ năng đàm phán của Harvard nhằm giải quyết vấn đề trên cơ sở giá trị chứ không thông qua việc tập trung vào những gì mỗi bên nói sẽ làm hay không làm. Phương pháp này khuyên bạn nên tìm kiếm lợi ích chung bất cứ lúc nào có thể và khi có xung đột về lợi ích thì bạn nên yêu cầu kết quả phải dựa trên cơ sở một số tiêu chuẩn bình đẳng nhất định độc lập với ý chí của hai bên. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc cứng rắn về giá trị nhưng mềm dẻo về vấn đề con người. Phương pháp này không dùng thủ đoạn và điệu bộ. Nó cho bạn biết cách đạt được điều bạn đáng được hưởng mà vẫn tỏ ra lịch thiệp. Nó cho phép bạn cư xử công bằng và bảo vệ bạn chống lại những kẻ nhăm nhe lợi dụng sự ngay thẳng của bạn. Cuốn sách này bàn về phương pháp đàm phán trên nguyên tắc. Chương thứ nhất mô tả những vấn đề phát sinh trong việc áp dụng các chiến lược tiêu chuẩn của kiểu đàm phán quan điểm lập trường. Bốn chương tiếp theo trình bày bốn nguyên tắc của phương pháp đàm phán theo nguyên tắc. Ba chương cuối giải đáp những câu hỏi thường được nêu lên: Điều gì sẽ xảy ra nếu phía bên kia mạnh hơn? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ không tuân thủ luật chơi? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ gian dối. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc có thể được nhà ngoại giao Hoa Kỳ sử dụng ở trong các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí với Liên Xô, khi các luật sư Phố Wall đại diện cho 500 công ty trên Tạp chí Fortune tranh tụng trong các vụ kiện chống độc quyền; và được các cặp vợ chồng dùng để quyết định mọi việc, từ việc đi nghỉ ở đâu cho đến phân chia tài sản như thế nào nếu họ ly dị. Bất cứ ai cũng có thể sử dụng phương pháp này. Không có cuộc đàm phán nào giống nhau, nhưng những yếu tố cơ bản của nó thì không thay đổi. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc có thể được sử dụng để giải quyết một hay nhiều vấn đề; có hai hay nhiều bên tham gia; dù có trình tự được quy định như trường hợp đàm phán tập thể hay không được chuẩn bị trước trong đàm phán với không tặc. Phương pháp này được áp dụng cho dù phía bên kia có nhiều kinh nghiệm hơn hay ngược lại, dù họ là kẻ không khoan nhượng hay là người ôn hòa. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc là một chiến lược áp dụng được cho mọi mục đích. Không giống với phần lớn các chiến lược khác, nếu phía bên kia cũng lĩnh hội được phương pháp này, nó sẽ trở nên dễ sử dụng hơn. Và nếu họ cũng đọc cuốn sách này thì tất cả đều có lợi. *** Đừng bàn cãi về quan điểm Dù là cuộc đàm phán về hợp đồng, cuộc tranh cãi trong gia đình hay thỏa thuận hòa bình giữa các quốc gia, thông thường người ta vẫn hay bàn cãi về vấn đề quan điểm. Mỗi bên đều có lập trường riêng, lập luận để bảo vệ nó và nhân nhượng nhằm đạt được thỏa hiệp. Ví dụ cổ điển về kiểu đàm phán này là cuộc mặc cả diễn ra giữa khách hàng và chủ cửa hàng đồ cũ: Và cuộc mặc cả cứ thế tiếp tục. Có thể họ sẽ đạt được thỏa thuận nhưng cũng có thể không. Mọi phương pháp đàm phán đều có thể được đánh giá công bằng qua ba tiêu chí: Phương pháp này phải mang lại thỏa thuận khôn ngoan nếu có thể, nó phải hiệu quả và cải thiện được hay chí ít thì cũng không làm phương hại đến mối quan hệ giữa hai bên. (Thỏa thuận khôn ngoan được định nghĩa là thỏa thuận đáp ứng quyền lợi hợp pháp của mỗi bên tới mức có thể, giải quyết được xung đột lợi ích hợp lý, lâu bền và có cân nhắc đến lợi ích cộng đồng.) Hình thức đàm phán phổ biến nhất được minh họa bằng ví dụ trên, phụ thuộc vào việc thay phiên nhau đưa ra các lập trường – và sau đó lại từ bỏ các lập trường này. Việc đưa ra các quan điểm, như người khách và chủ cửa hiệu trên, có tác dụng phục vụ cho một số mục đích hữu ích nhất định trong đàm phán. Nó cho phía bên kia biết bạn muốn gì; tạo ra điểm bấu víu trong tình huống không chắc chắn và căng thẳng; và cuối cùng đi đến các điều khoản trong một thỏa thuận có thể chấp nhận được. Nhưng có nhiều cách khác để đạt được. Việc mặc cả về lập trường không thỏa mãn các tiêu chí cơ bản để mang lại thỏa thuận khôn ngoan, hiệu quả và thân thiện. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM CHỈ MANG LẠI NHỮNG THỎA THUẬN THIẾU KHÔN NGOAN Khi các nhà đàm phán mặc cả về quan điểm, họ thường tự giam mình trong những quan điểm này. Bạn càng làm rõ quan điểm của mình và bảo vệ nó khỏi bị tấn công thì bạn càng dính chặt vào nó. Bạn càng cố gắng thuyết phục phía bên kia rằng quan điểm ban đầu của bạn không thể thay đổi thì việc này càng khó có thể thực hiện được. Cái tôi của bạn trở nên đồng nhất với quan điểm của bạn. Bạn hiện có mối quan tâm mới về việc “giữ thể diện” – trong việc thống nhất giữa hành động ở tương lai với lập trường trong quá khứ – khiến khả năng đạt được thỏa thuận nào đó hòa hợp với lợi ích ban đầu của các bên một cách khôn ngoan ngày càng khó thực hiện. Nguy cơ tranh cãi về vấn đề lập trường sẽ cản trở tiến trình đàm phán. Ví dụ điển hình là sự đổ vỡ cuộc đàm phán về việc cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện dưới thời Tổng thống John F. Kennedy. Vấn đề then chốt nảy sinh: Liên Xô và Hoa Kỳ nên được phép thực hiện bao nhiêu cuộc thanh tra tại hiện trường mỗi năm trên phạm vi lãnh thổ nước kia để điều tra những sự kiện chấn động đáng ngờ? Cuối cùng, Liên Xô đồng ý tiến hành ba cuộc điều tra. Hoa Kỳ lại khăng khăng yêu cầu không dưới mười cuộc. Do vậy, các cuộc đàm phán này đã thất bại – do tranh cãi về quan điểm – mặc dù không bên nào hiểu liệu một “cuộc điều tra” sẽ chỉ gồm có một người đi xem xét lòng vòng trong một ngày hay có một trăm người soi mói bừa bãi trong một tháng. Các bên hầu như không nỗ lực xây dựng quy trình điều tra có thể dung hòa được sự quan tâm thẩm tra của Hoa Kỳ với mong muốn của cả hai bên về sự xâm phạm tối thiểu. Khi càng chú ý nhiều đến quan điểm thì người ta lại càng ít quan tâm đến việc đáp ứng những lo ngại cơ bản của các bên. Vì vậy, khó có thể tiến tới thỏa thuận dễ dàng. Các thỏa thuận đạt được lúc này chỉ phản ánh sự phân chia máy móc khoảng chênh lệch giữa những lập trường cuối cùng được đưa ra, chứ chưa phải là giải pháp được tính toán kỹ càng nhằm đáp ứng lợi ích hợp pháp của các bên. Kết quả đạt được thường là thỏa thuận ở mức thấp hơn so với mong muốn của hai bên. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM LÀ KHÔNG HIỆU QUẢ Phương pháp đàm phán thông thường có thể mang lại thỏa thuận, như với trường hợp trả giá cho chiếc đĩa bằng đồng thau hoặc đi đến thất bại, như với trường hợp thống nhất số lượng cuộc điều tra tại hiện trường. Trong cả hai trường hợp, quá trình này đều mất nhiều thời gian. Thương thuyết theo lập trường tạo ra động cơ trì hoãn giải quyết vấn đề. Trong khi tranh cãi về vấn đề quan điểm, bạn cố gắng cải thiện cơ hội đạt được thỏa thuận nào đó có lợi cho mình bằng việc bắt đầu đàm phán với lập trường cực đoan, giữ khư khư quan điểm này, lừa gạt đối phương rằng đó chính là quan điểm thực sự của bạn và chỉ nhân bộ chút ít để giữ cuộc đàm phán tiếp tục diễn ra. Và đối phương cũng làm điều tương tự. Mỗi yếu tố này đều có xu hướng cản trở việc nhanh chóng đạt được cách giải quyết. Các quan điểm ban đầu càng cực đoan và sự nhân nhượng càng ít đi thì mất càng nhiều thời gian và công sức để nhận ra thỏa thuận có thể đạt được hay không. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc cũng đòi hỏi phải có rất nhiều các quyết định riêng lẻ của từng cá nhân vì mỗi nhà thương thuyết quyết định đề nghị gì, bác bỏ gì và có thể nhân nhượng đến mức nào. Việc ra quyết định rất khó khăn và mất thời gian. Khi một quyết định không chỉ là việc phải nhượng bộ đối phương mà còn là sức ép buộc phải nhân nhượng hơn nữa, thì nhà thương thuyết hầu như không có động cơ để tiến nhanh hơn. Chậm chạp lề mề, đe dọa bỏ ra ngoài, cản trở và những chiến thuật khác tương tự đã trở nên cũ rích. Tất cả những chiến thuật này chỉ làm mất thêm thời gian và tiền bạc để tiến tới thỏa thuận cũng như tăng nguy cơ không đạt được thỏa thuận nào cả. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM LÀM HỎNG MỐI QUAN HỆ ĐANG TỐT ĐẸP Việc tranh cãi về quan điểm sẽ trở thành cuộc đấu trí. Mỗi nhà thương thuyết xác nhận những gì anh ta sẽ làm và sẽ không làm. Nhiệm vụ cùng xây dựng giải pháp chung có xu hướng trở thành trận chiến. Mỗi bên đều cố gắng qua sức mạnh ý chí tuyệt đối để gây sức ép buộc phía bên kia phải thay đổi lập trường. “Tôi sẽ không chịu nhượng bộ đâu. Nếu anh muốn đi xem phim với tôi, thì đó phải là phim The Maltese Falcon (tạm dịch: Chim ưng Malta) hoặc chúng ta không xem gì hết.” Hậu quả thường là sự giận dữ và bực tức vì mỗi bên thấy mình phải thuận theo ý muốn cứng nhắc của đối phương trong khi mối quan tâm thích đáng của mình lại bị bỏ qua. Do vậy, việc tranh cãi về quan điểm gây căng thẳng và có khi còn làm tan vỡ mối quan hệ giữa các bên. Các doanh nghiệp thương mại đã từng làm việc với nhau trong nhiều năm có thể cắt đứt quan hệ. Hàng xóm láng giềng có thể không qua lại với nhau. Cảm giác cay đắng từ sự việc này gây ra có thể kéo dài cả đời người. TRONG ĐÀM PHÁN ĐA PHƯƠNG, TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM ĐEM LẠI KẾT QUẢ XẤU Nếu xét một cuộc đàm phán chỉ có hai bên, chỉ có bạn và “phía bên kia”, thì dễ thảo luận hơn, nhưng thực tế, hầu hết mọi cuộc đàm phán đều liên quan đến nhiều bên. Các bên có thể cùng ngồi vào bàn, hoặc mỗi bên ủy quyền cho một người như chóp bu, ban giám đốc hay các ủy ban liên quan. Càng đông người tham gia vào đàm phán, những trở lực do thương thuyết theo lập trường lại càng nghiêm trọng. Nếu khoảng 150 quốc gia cùng đàm phán trong các hội nghị của Liên Hiệp Quốc, thương thuyết theo lập trường gần như không thể thực hiện được. Kiểu thương thuyết có thể làm cho tất cả đều nói “đồng ý”, nhưng chỉ một bên nói “không” thì sự nhượng bộ có đi có lại khó có thể thực hiện: Bạn nhượng bộ ai? Kể cả hàng nghìn cuộc đàm phán song phương cũng không phức tạp bằng một thỏa thuận đa phương. Trong những tình huống như vậy, thương thuyết theo lập trường thường dẫn tới việc hình thành liên minh giữa các bên mà lợi ích chung của họ mang tính tượng trưng hơn là thực chất. Tại Liên Hiệp Quốc, những liên minh này thường tạo ra các cuộc đàm phán giữa “Bắc” và “Nam” hay giữa “Đông” và “Tây”. Do có nhiều thành viên trong một nhóm nên việc xây dựng quan điểm chung lại càng trở nên khó khăn hơn. Tồi tệ hơn, khi họ đã vất vả thiết lập và nhất trí một lập trường thì việc thay đổi lập trường đó lại càng trở nên gian nan hơn nhiều. Việc thay đổi một quan điểm cũng không dễ dàng gì khi các thành viên mới tham gia có quyền hạn cao hơn. Ngay cả khi họ không có mặt tại bàn đàm phán thì những người khác vẫn cần phải có sự chấp thuận của họ.   Mời các bạn đón đọc Thương Lượng Không Nhân Nhượng của tác giả William Ury.
Những Điều Sếp Nói Và Không Nói Với Bạn
LỜI MỞ ĐẦU Chắc hẳn có rất nhiều bạn đã từng trải qua cảm giác không biết phải làm gì, phải hiểu như thế nào mới đúng khi nghe cấp trên bảo rằng “Tôi rất kỳ vọng ở bạn.” Sẽ rất khó để có thể hiểu được rằng liệu đây là lời động viên, tạo áp lực, hay cấp trên yêu cầu ở mình điều gì. Vậy nên có rất nhiều khó khăn trong việc hiểu được ý nghĩa thực sự ẩn sâu trong lời nói của cấp trên. Phần lớn vấn đề nằm ở chỗ nội dung bên ngoài (tatemae) của lời nói được truyền đạt, nhưng sâu bên trong đó lại tồn tại suy nghĩ thực sự (honne) của cấp trên, đó cũng chính là những điều khiến hầu hết các bạn nhân viên lo lắng. Vậy tại sao cấp trên lại phải bỏ công cho những lời nói “ngoài mặt” như thế? Có 2 lý do sau đây. Thứ nhất là có những vị thích cách nói vòng vo hơn là kiểu nói thắng thắn. Bên cạnh đó, cũng có những vị vì vốn từ vựng không đủ nên chỉ có thể diễn đạt những câu nói cơ bản thông thường. Dù là lý do nào đi chăng nữa thì sự khác biệt giữa nội dung bên ngoài lời nói và chủ ý thực sự muốn truyền đạt của cấp trên cũng gây ảnh hưởng ít nhiều đến cấp dưới. Nhân viên nếu không hiểu được suy nghĩ thật sự của sếp từ nội dung bên ngoài của câu nói thì sẽ không nắm bắt được ý định cấp trên muốn truyền tải thực sự là gì. Nếu không hiểu được chủ ý của sếp ta sẽ không thể làm đúng ý, cũng như sẽ dẫn đến những hành động không theo như kỳ vọng của họ, từ đó ta sẽ bị cấp trên đánh giá thấp. Đó là lý do vì sao tatemae và honne của cấp trên lại gây ảnh hưởng tiêu cực đến cấp dưới như vậy. Trên thực tế, theo điều tra cho thấy số người cảm thấy bất công về chuyện này lên đến 82% (Theo tạp chí “Tuần san SPA!”). Nhưng dù cho chúng ta có thấy khó chịu với những người sếp không nói rõ xem mình muốn cấp dưới làm gì thì thực trạng đó vẫn sẽ không thay đổi. Do vậy, làm những việc trong khả năng của mình chính là biện pháp tốt nhất. Những việc nên làm ở đây là những việc tuy đơn giản nhưng ắt hẳn các bạn sẽ không ngờ đến. Đó chính là hiểu được một cách chính xác ý nghĩa thực sự muốn truyền tải của cấp trên trong những cuộc đối thoại hằng ngày. Và đó cũng là nội dung của cuốn sách này. Tôi đang là diễn giả cho những buổi hội thảo về chủ đề giao tiếp trong kinh doanh. Tính đến thời điểm hiện tại, sau khi làm việc cùng với 5.000 nhà điều hành cấp cao và 15.000 nhân viên, tôi đã tìm ra được sự thống nhất trong ý nghĩ của cấp trên và cấp dưới. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chỉ có khoảng 3% trường hợp nhân viên có thể hiểu một cách chính xác những điều mà cấp trên đang kỳ vọng. Tôi biết được là 97% những người nhân viên còn lại mặc dù vẫn tiếp tục công việc nhưng không thể nắm bắt được suy nghĩ, nguyện vọng của cấp trên. Chủ ý của cấp trên chính là những điều tuy không truyền đạt với nhân viên, nhưng tự bản thân nhân viên cần phải suy nghĩ ra. Bản thân tôi trước khi trở thành diễn giả, đã có 15 năm làm nhân viên công ty, và phân nửa thời gian đó tôi làm việc trong ban quản lý. Thời điểm làm trong ban quản lý, tôi cũng rất hay có suy nghĩ là sẽ không truyền đạt hết ý định thật sự của mình với nhân viên. Ví dụ, có một lần tôi nói với nhân viên của mình rằng “Thật đáng tiếc cho anh/chị.” Chủ ý của tôi là nói một câu nhận xét mang tính tiêu cực, tuy nhiên người nhân viên này khi nghe câu đó thì lại cảm thấy vui mừng. Vì những tình huống như thế thường hay xảy ra nên cấp trên luôn muốn cấp dưới phải nghe rõ câu nói của mình, và hiểu xem câu đó được nói với ý nghĩa như thế nào. Đối với những nhà quản lý khi đến tham dự buổi hội thảo của tôi, ắt hẳn ai cũng sẽ hiểu rất rõ những chuyện rất thường xảy ra này. Vì vậy, tôi đã dần hiểu ra rằng cho dù là bất kỳ ai, ở những công ty khác nhau, thì thông thường, suy nghĩ ẩn bên trong những câu nói mà các nhà quản lý sử dụng là như nhau. Chẳng phải sẽ rất tốt nếu đưa ra được những câu nói mà các nhà quản lý hay sử dụng, và truyền tải đến tất cả các nhân viên cấp dưới để họ biết được ý muốn thực sự ẩn sâu trong những câu nói ấy là gì hay sao. Nói một cách đơn giản, tôi nghĩ rằng sẽ thật tuyệt vời nếu tôi có thể dịch nghĩa những câu nói ẩn ý của cấp trên khi họ đối thoại với nhân viên của mình. Ngoài ra, cuốn sách này không chỉ truyền đạt những suy nghĩ của cấp trên mà còn gợi ý cho các bạn nhân viên biết rằng mình nên làm gì để đáp ứng được ý muốn, suy nghĩ của sếp. Khi những suy nghĩ của cấp trên được truyền đạt đến nhân viên, nhân viên sẽ thực hiện đúng theo ý đồ ấy, qua đó khiến việc đánh giá trở nên tốt đẹp hơn như các bạn có thể thấy. Mục đích của cuốn sách này là giúp tất cả mọi người, cả cấp trên và cấp dưới, có thể cảm thấy vui vẻ. Đầu tiên, bạn hãy thử tìm xem câu nói nào trong cuốn sách này mà cấp trên của bạn hay dùng. Sau đó hãy đọc thử xem câu nói ấy hàm ý những suy nghĩ, ước muốn gì của cấp trên nhé. Khi đã hiểu được điều đó rồi, chắc chắn ngày mai bạn sẽ thay đổi hành động của mình. Tháng 6 năm 2015 Hidehiko Hamada *** LỜI CUỐI Thật sự vô cùng cảm ơn các bạn đọc giả đã theo dõi cuốn sách đến chương cuối cùng này, cảm ơn các bạn rất nhiều. Vào lúc bắt đầu viết cuốn sách này, tôi đã nhờ những người cấp trên và cả những người nhân viên cấp dưới đọc qua bản thảo của cuốn sách. Tôi đã được nghe những ý kiến khác nhau từ cả hai đối tượng cấp trên lẫn cấp dưới. Từ ý kiến tích cực của những cấp trên như “Đúng rồi, đúng rồi, ý tôi chính là như vậy đó” đến những ý kiến tiêu cực như “Nhiều khi tôi nói vậy vì muốn bày tỏ những suy nghĩ thật sự chứ không phải mang hàm ý nào khác, và tôi muốn nhân viên hiểu đúng những gì tôi nói nên nếu họ mà cứ nghĩ rằng trong câu nói của tôi luôn ẩn ý gì khác thì sẽ phiền lắm đây.” Ngược lại, những cấp dưới cũng đưa ra một số ý kiến tích cực như “Giờ thì dù có bị nói tôi cũng có thể hiểu được ý của sếp” và những ý kiến tiêu cực như “Sau này chắc lúc nào tôi cũng sẽ nghi ngờ câu nói này ý nọ ý kia quá.” Cho dù là ý kiến nào đi chăng nữa thì đều là những ý kiến vô cùng hợp lý. Tôi không phủ định rằng việc quan sát và đoán ý nghĩa đằng sau ngụ ý thật sự của cấp trên vừa có mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực của nó. Tuy vậy, tôi nghĩ rằng việc quan sát và đoán ý nghĩa thật sự ẩn sau ngụ ý của cấp trên là một việc vô cùng bổ ích. Không chỉ trong công việc, mà việc ta quan sát và đoán ý nghĩa thật sự ẩn sau lời nói của đối phương đều mang những ý nghĩa riêng. Tôi nghĩ rằng có lẽ trong cuộc sống hằng ngày, để không làm tổn thương đến đối phương bởi những lời nói thẳng thắn, các độc giả cũng đã từng thay đổi cách nói của mình đúng không nào? Vào những lúc như vậy, tùy theo đối tượng mà có lúc sẽ xảy ra trường hợp đối phương chỉ hiểu theo bề nổi của câu nói và kết quả là không thể hiểu được ý nghĩa thật sự mình muốn nói. Ngược lại, cũng có những người rất tuyệt vời, họ không chỉ hiểu được ý nghĩa thật sự ẩn trong lời nói mà còn hiểu và cảm thông cho những lo lắng của đối phương nữa. Vì vậy, việc quan sát và đoán những ý nghĩa ẩn sâu trong lời nói của người khác chính là để bản thân có thể trở thành một người tuyệt vời như vậy đó. Tuy nhiên, sự thật thì người nói ra những lời này như tôi đây cũng đã phải vất vả rèn luyện rất nhiều mỗi ngày. Khi ở nhà cũng thường xảy ra việc tôi đoán sai ý nghĩa thật sự trong lời nói của vợ tôi khiến cho bầu không khí trong nhà trở nên căng thẳng và ngượng ngùng. Hoặc nhiều lúc tôi không thể nào thấu hiểu được ẩn ý thực sự trong lời nói của con gái tôi mà phải đợi khi nghe vợ giải thích “Ý của con nó là như vậy đó.” Tôi cũng hiểu rất rõ rằng việc đoán ra ý nghĩa thật sự là một điều không hề dễ dàng. Vì vậy tôi nghĩ việc nỗ lực là vô cùng cần thiết. Lần này, tôi chủ yếu đi sâu vào chủ đề cấp dưới nên đoán ra được những ý nghĩa ẩn sâu trong ngụ ý thật sự của cấp trên nhưng nếu sau này có cơ hội, tôi nghĩ rằng mình sẽ cố gắng đi sâu vào chủ đề cấp trên nên đoán ra được những ý nghĩa ẩn sâu trong lời nói của cấp dưới. Bởi vì nếu cấp trên và cấp dưới có thể hiểu rõ lẫn nhau thì công việc lẫn nơi làm việc cũng sẽ trở nên tốt hơn rất nhiều. Mời các bạn đón đọc Những Điều Sếp Nói Và Không Nói Với Bạn của tác giả Hamada Hidehiko.
Người Chọn Nghề Hay Nghề Chọn Người
Người chọn nghề hay nghề chọn nghề là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Marden, nằm trong số những tác phẩm hay nhất về hướng nghiệp từng được viết. Cuốn sách này nên là tài liệu thiết yếu cho mọi bạn trẻ khi lựa chọn sự nghiệp, bởi vì, như tác giả nói, nhiều khi thứ bạn thực sự lựa chọn chính là lối sống. Hầu hết mọi người đều đưa ra lựa chọn căn bản này mà không có sự chuẩn bị, thậm chí không suy nghĩ gì về hệ quả xa dài từ lựa chọn của họ. Marden nhấn mạnh về bi kịch của “kẻ lạc loài”, về những lựa chọn nghề nghiệp sai lầm, về việc chọn một công việc, sự nghiệp chỉ vì nó “dễ” hay việc làm điều gì đó chỉ để nối bước cha ông. Marden nói, bạn phải tự hào về công việc của mình. Công việc của bạn nên làm tăng giá trị cho bạn – chứ không bao giờ được làm bạn giảm giá trị. Bạn phải hòa nhịp với công việc, sự nghiệp của mình, làm nó với kỷ luật và nỗ lực. Bạn không bao giờ nên cảm thấy mình giống một con cá bị rời khỏi nước. Marden nói, hãy nhớ công việc không phải là “kiếm sống”, mà là “kiếm tìm ý nghĩa cuộc đời”. Cuộc đời của chính bạn. "Có hàng triệu người sống cả đời mà không hề nhận ra con người tuyệt nhất trong mình, họ luôn bất mãn, không vui, thậm chí là những kẻ thất bại, chỉ vì họ ở nhầm chỗ." – O. W. Train *** Orison Swett Marden sinh ra tại Anh năm 1850, Marden trải qua thời thơ ấu khó khăn khi mồ côi cả cha lẫn mẹ từ lúc ông còn rất nhỏ. Bị đẩy từ tay người giám hộ này sang người giám hộ khác, ông phải đi làm thuê để kiếm tiền. Lấy cảm hứng từ một cuốn sách phát triển bản thân thời kỳ đầu của tác giả người Scotland là Samuel Smiles, ông bắt tay vào cải thiện bản thân và hoàn cảnh sống của mình. Ông tốt nghiệp trường Đại học Boston năm 1871, và đã từng học tại Chủng viện Thần học Andover. Vào năm 1881 ông nhận được bằng Dược và năm 1882 là bằng Luật, cả hai đều từ trường Harvard. Sau đó ông theo học Trường Hùng biện Boston. Suốt thời đại học, ông làm phục vụ và quản lý khách sạn, ông làm tốt tới mức dành dụm được số vốn 20.000 đô-la (tương đương khoảng 50.000 đô-la ngày nay) khi hoàn thành các chương trình học chính thức của mình. Ông mua bất động sản trên Đảo Rhode rồi phát triển thành một khu nghỉ dưỡng. Những năm suy thoái kinh tế 1890, sau khi để mất khách sạn của mình, ông chuyển tới Chicago và làm quản lý khách sạn trong suốt thời gian diễn ra Hội chợ thế giới (World’s Fair) năm 1893. Sau đó ông trở về Boston và bắt đầu lại sự nghiệp. Ông không bao giờ chấp nhận bị đánh bại. Trái lại, những thời điểm khó khăn càng tạo cảm hứng cho ông kết nối các ý tưởng – đặc biệt gắn với niềm lạc quan – trong cuốn sách đầu tiên, Pushing to the front (tạm dịch: Vươn tới phía trước), xuất bản vào năm 1894, chỉ hai năm sau khi ông mất hết mọi thứ. Cuốn sách nhanh chóng thành công, một tác phẩm bán chạy đích thực thời đó, với số bản in bán ra cao vượt. Ông tiếp nối thành công đó với hơn 60 cuốn sách, hầu hết về các chủ đề thành công, nuôi dưỡng ý chí, tư duy tích cực; nhưng bên cạnh đó ông cũng viết về sức khỏe, rèn luyện thân thể, đối phó với tuổi già, giáo dục giới tính và bình đẳng cho phụ nữ. Ngoài Samuel Smiles, tư duy của Marden còn chịu ảnh hưởng từ các tác phẩm của Oliver Wendell Holmes và Ralph Waldo Emerson, những người tạo tiền đề cho Phong trào Tư duy Mới những năm 1890. Năm 1897, ông sáng lập Tạp chí Thành công (Success Magazine), sau đó trở thành một người đóng góp thường xuyên cho tạp chí đi theo phong trào Tư duy Mới (New Thought) của Elizabeth Towne là Nautilus trong suốt hai thập niên đầu của thế kỷ XX. Marden, cũng như các tác giả đương thời khác của Tư duy Mới (William Walker Atkinson, Wallace Wattles, Elizabeth và William Towne), tin rằng tư duy của chúng ta ảnh hưởng đến cuộc sống và hoàn cảnh sống của chúng ta. Họ tin rằng “tư duy là vật chất”, và vì Luật Hấp dẫn (những thứ giống nhau sẽ hút lấy nhau), chúng ta phải rất cẩn thận với điều mình nghĩ và cách mình tư duy. Ông nói: “Chúng ta tạo nên thế giới quanh mình và định hình môi trường của chính mình bằng những tư duy của chúng ta.” Thế nhưng dù được biết đến nhiều nhất bởi những cuốn sách về thành công tài chính, ông luôn luôn nhấn mạnh rằng điều đó sẽ xảy ra nhờ việc nuôi dưỡng phẩm chất cá nhân: “Cơ hội vàng mà bạn đang tìm kiếm nằm trong chính con người bạn. Nó không nằm ở môi trường quanh bạn, không nằm ở may mắn, cơ hội, hay sự giúp đỡ của những người khác. Nó chỉ nằm trong chính bản thân bạn.” Những tựa sách của ông đã nhấn mạnh một cách hùng hồn góc nhìn đầy lạc quan, hào hứng và tự tin này. Trung bình ông ra hai cuốn sách mỗi năm, từ Pushing to the front năm 1894 tới cuốn cuối cùng năm 1924, năm đó ông mất ở tuổi 74. Ông vẫn còn số bản thảo khoảng hai triệu từ chưa được xuất bản. Mặc dù đã hàng trăm tuổi, nhưng những cuốn sách của ông mang tính hiện đại tới mức chúng dường như được viết cho chính thời đại của chúng ta ngày nay. Ở thời đại này, hơn bao giờ hết, chúng ta cần sự cân bằng, niềm tin và kiên trì; chúng ta cần hạnh phúc, sẻ chia và sự thật; trên hết, chúng cần HÒA BÌNH và TÌNH YÊU... Kiến thức uyên thâm của Marden từ lịch sử, triết học, thần học và nhiều mảng khác, cùng khả năng cô đọng, truyền tải kiến thức một cách rõ ràng đến kinh ngạc theo cách thức rất thú vị và thu hút đã khiến cho những tác phẩm này trở thành thiết yếu đối với bất cứ ai đang tìm kiếm thành công cho cuộc sống của mình, hay đơn giản chỉ là tìm kiếm những câu trả lời cho cuộc đời này. Hơn 50 cuốn sách của ông đã được xuất bản trong loạt sách Timeless Wisdom. Bạn có thể đọc thông tin tham khảo về ông và các tác giả khác ở cuối sách. *** CHỘP LẤY NGAY CÔNG VIỆC ĐẦU TIÊN ĐƯỢC MỜI "Cần tuyển nam.” – Tấm biển này trông hết sức cuốn hút đối với nhiều chàng trai trẻ mới bắt đầu vào đời kiếm sống. Nó trông như một cánh cửa cơ hội, và với số đông các chàng trai thì đúng là như vậy. Nhưng hãy nghĩ tới vô số thất bại trong đời, tới những kẻ ngồi nhầm chỗ, những thành công nửa vời, những kẻ bị dụ dỗ tới chỗ tầm thường bởi chính tấm biển đó! Công việc đầu tiên của một cậu trai trẻ là yếu tố có tính then chốt trong đời cậu ta. Nó có thể hoàn toàn không phù hợp với bản chất trí tuệ của cậu ta; hơn thế, nó có thể dẫn cậu ta tới một lựa chọn sai lầm khác, bởi vì đám trai trẻ rất háo hức được làm mọi thứ, và tự hào về những công cụ cùng kỹ năng mình học được. Nếu chúng không biết những lợi thế của bất cứ công việc nào khác, chúng có thể tiếp tục làm điều mà tự nhiên đã cấm đoán trong chính cấu trúc não bộ của chúng. Nhưng thường thì một chàng trai trẻ ít nhận ra điều có thể ảnh hưởng tới tương lai của cậu ta khi nhận lấy công việc đầu tiên. Khi tìm kiếm một việc làm, cậu ta nên cân nhắc thật cẩn thận rằng liệu nó có xu hướng tách cậu ta khỏi mọi thứ khác mà mình khao khát không, liệu nó có giúp cậu ta tiến lên trên con đường sự nghiệp thực sự của mình không, hay liệu cậu ta đang chôn chân ở một vị trí thấp kém, nơi có thể chẳng liên quan gì đến lựa chọn sống một cuộc đời tuyệt vời của cậu ta. Một cậu trai trẻ bình thường khi nhận được một công việc sẽ cứ thế làm tới hết đời, và thường thì lựa chọn công việc này được đưa ra một cách hoàn toàn ngẫu nhiên. Rất có thể, cậu ta ứng tuyển vào một vị trí chỉ với suy nghĩ muốn có một công việc để làm, mà không hề nghĩ rằng liệu mình có thực sự phù hợp với nó không, liệu mình có phải là cái vung sắp úp nhầm nồi hay không; nhưng sự thật là “gã đàn ông” về sau sẽ ở nguyên vị trí mà “thằng bé” lúc trước đã đặt ông ta vào. Tất nhiên, cũng có nhiều người thay đổi, nhưng có lẽ phần lớn mọi người vẫn sống với công việc mà mình bắt đầu từ thời trai trẻ. Không có thời điểm nào mà một người cần đến sự dẫn dắt khôn ngoan nhiều như thời điểm đưa ra lựa chọn liên quan đến cả cuộc đời này. Nó là lựa chọn quan trọng nhất, vì nó ảnh hưởng đến vận mệnh của một người. Toàn bộ tương lai của người đó thường đã được vẽ ra và quyết định từ trước khi người đó thực sự có cơ hội lựa chọn. Trước khi trở thành người đàn ông thì gã trai trẻ đã bị cuốn vào công việc đến mức chẳng muốn mất nó nữa. Cậu ta biết rằng những kinh nghiệm này giúp tích lũy sức mạnh và tạo đà tiến cực tốt nếu có thể duy trì, và dù cậu ta thường không cảm thấy lựa chọn lúc đầu là sáng suốt, nhưng nhiều khả năng cậu ta sẽ chẳng bao giờ thay đổi, và sẽ cứ bám chặt lấy nó. " Mối hấp dẫn nhận lấy công việc mà mình không phù hợp chỉ vì được trả lương cao hơn một chút so với việc khác lúc ban đầu, trên hết, chính là nguyên cớ gây ra nhiều kết hợp không vững chắc nhất" Để một cậu trai bước ra đời chỉ với mục đích đơn giản là kiếm một công việc là một vấn đề nghiêm trọng. Dù cậu ta có thể hoàn toàn không phù hợp, nhưng tham vọng của cậu ta sẽ có ảnh hưởng và thị trường có thể cho phép cậu ta có được một khởi đầu tốt đẹp vốn rất dối trá, đặc biệt nếu mức lương tương đối tốt. Ngay cả khi cậu ta cảm nhận được rằng mình bị đặt sai chỗ thì phụ huynh của cậu ta có thể vẫn nói với cậu ta rằng việc nỗ lực biết bao lâu rồi lại vứt hết kinh nghiệm quý báu đi là rất ngu ngốc. Sau đó cậu ta có thể gắng gượng làm công việc tầm thường đó, công việc không hề phù hợp với khả năng của mình, khi mà cậu ta vốn đã có thể làm nên danh tiếng trong một mảng khác phù hợp với khả năng hơn. Thế giới đầy những kết hợp nồi tròn vung méo, những người đàn ông nhờ vào quá trình huấn luyện khắc nghiệt, ngành nghề vất vả, đã gò mình được một cách cực kỳ tốt, thế nhưng nỗi cực nhọc và ý nghĩ không thể làm điều mình được sinh ra để làm lại hoàn toàn phá hỏng cảm giác thỏa mãn của người đó, khiến anh ta cảm thấy ngay cả khi mình kiếm được kha khá để sống thì đời mình vẫn chẳng thích thú gì, và rằng khía cạnh củi-gạo-mắm-muối đó của công việc là khía cạnh nhỏ bé nhất, kém quan trọng nhất. Mối hấp dẫn nhận lấy công việc mà mình không phù hợp chỉ vì được trả lương cao hơn một chút so với việc khác lúc ban đầu, trên hết, chính là nguyên cớ gây ra nhiều kết hợp không vững chắc nhất. Một khi bạn đã vững chỗ thì sẽ rất khó đánh đổi nó để tìm công việc lớn lao hơn, rất khó để quyết định bắt đầu lại từ nấc thang dưới cùng và sẽ mất thêm nhiều năm học tập, rèn luyện. Nếu có thể hòa nhập với công việc chỉ sau ít ngày, hoặc ít tuần, bạn sẽ chẳng giữ được nó dài lâu đâu, bạn chẳng bao giờ biết được khi nào thì có người khác thế chân mình. Nhưng nếu phải mất đến vài năm chuẩn bị cho thứ gì đó cao xa hơn – cho thứ gì đó mà chỉ riêng bạn mới thực sự tương thích, và giữ mình không bị lầm lối, sẵn lòng trả giá cho quãng đường xa thì mối nguy bị thế chỗ của bạn sẽ nhỏ hơn nhiều. Gần đây thành phố New York thực hiện một cuộc điều tra về các cậu bé, cô bé rời khỏi trường học ở độ tuổi hợp pháp nhỏ nhất: 14 tuổi. Trong số 25.000 trường hợp được điều tra, có 23.000 làm những công việc không đòi hỏi nhiều kỹ năng. Báo cáo cho biết: “Chúng tôi khám phá ra trong các công việc mà 10.857 cậu bé và 11.924 cô bé đã rời khỏi nhà trường ở độ tuổi hợp pháp nhỏ nhất đó được thuê làm, hơn chín phần mười là các công việc không đòi hỏi kỹ năng, chẳng hạn như chạy việc vặt, làm việc nhà, thư ký phụ trách các việc lặt vặt, thợ máy, tạp vụ, phụ việc, đóng gói, giao thư, bán báo, v.v..” Các con số của chúng tôi cho thấy cơ hội việc làm duy nhất của những người trẻ rời khỏi trường học trong tình trạng thiếu kiến thức chính là những ngành nghề không đòi hỏi kỹ năng. Tình trạng này thực sự tác động trở lại xã hội, bởi chính những chàng trai, cô gái này rồi sẽ trở thành tầng lớp ăn không ngồi rồi. Đừng bị che mắt bởi số tiền mà người ta kiếm được khi làm những công việc này. Hãy nhớ rằng sự nghiệp của bạn ảnh hưởng tới bạn nhiều hơn bất cứ thứ gì khác, và bạn sẽ không gánh nổi hệ quả của việc đi theo một con đường sự nghiệp vốn không thể giúp bạn phát triển và lớn mạnh. Hãy xem những con người đã lựa chọn kiểu sự nghiệp như thế. Hãy xem những gì mà công việc đem đến cho họ. Vị trí của họ trong xã hội so với những người làm các công việc khác là gì? Họ có được kính trọng, tôn vinh không? Liệu đó có phải là công việc mà anh ta có thể tự hào, điều mà con cái của anh/cô ta sẽ tự hào khi lớn lên? Rất nhiều người trẻ cố tình bó buộc và làm hỏng sự nghiệp của mình, và gần như tự giết mình trong suốt nhiều năm đời họ bằng việc làm các công việc vốn sẽ bức bách và bóp nghẹt đời họ. Điều kiện làm việc của nhiều công việc rất nguy hại cho sức khỏe và việc phát triển bản thân. Sức khỏe tốt, môi trường và điều kiện sống lành mạnh quan trọng với bạn hơn tiền bạc, bạn không nên dấn thân vào việc gây nguy hại cho tinh thần của mình hay tổn hại tới phẩm cách, tác động xấu đến vị thế của bạn. Công việc của bạn không nên là một chướng ngại. Nó nên là nguồn kích thích không ngừng, là sự khích lệ, là động lực hướng tới cuộc sống rộng lớn, vĩ đại mà vì nó bạn được sinh ra. Mời các bạn đón đọc Người Chọn Nghề Hay Nghề Chọn Người của tác giả Orison Swett Marden.
Hướng Nghiệp Trong Thời Đại 4.0
Trong cơn bão công nghệ, dường như mọi phụ huynh đều mong muốn con em mình theo đuổi các ngành học “hái ra tiền” như khoa học máy tính, công nghệ thông tin, lập trình, cơ khí chế tạo... Nhưng liệu các khóa học chuẩn chuyên ngành công nghệ có là con đường thành công duy nhất? Liệu có khả thi khi cho rằng hệ thống giáo dục khai phóng (liberal arts), với phong cách cung cấp tri thức tự do, tổng quát và tập trung vào những kiến thức xã hội vẫn có thể tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cho kỷ nguyên 4.0? Trong tác phẩm “Hướng nghiệp trong thời đại 4.0”, Randall Stross cung cấp cho độc giả một hướng tư duy mới lạ trong việc lựa chọn phong cách học tập và phát triển. Từ trước đến nay, các chuyên ngành giáo dục khai phóng thường bị đánh giá là “thiếu thực tế”, “thiếu kỹ năng”, không cung cấp đủ tri thức để học viên theo đuổi một nghề nghiệp cụ thể. Nhưng định kiến này không chính xác. Khác với kiểu giáo dục định hướng nghề nghiệp cụ thể, nền giáo dục khai phóng hướng tới trang bị cho sinh viên những kiến thức và kỹ năng thỏa mãn mọi ngành nghề. Thực tế đã cho thấy nền giáo dục khai phóng đem tới lợi ích cho các sinh viên theo đuổi chuyên ngành phi công nghệ, cho những bậc phụ huynh lo lắng, và cho cả những nhà tuyển dụng hàng đầu. “Hướng nghiệp trong thời đại 4.0” chứng minh rằng mọi sinh viên đều có thể phát triển tối đa tiềm năng và phát triển mạnh mẽ nếu được trao cơ hội, bất kể họ có theo đuổi một chuyên ngành “cao cấp” hay không. Qua những trải nghiệm thực tế của các sinh viên ngành nhân văn, nhất là công cuộc tìm kiếm việc làm và kinh nghiệm làm việc những ngày đầu của họ, cuốn sách đem tới những minh chứng sống động về sự đa tài của sinh viên được đào tạo theo giáo dục khai phóng. Giữa cuộc cách mạng về việc làm và nhân sự, với sự ra đời của hàng loạt phương pháp hướng nghiệp, làm thế nào để trang bị cho sinh viên kiến thức và kỹ năng đầy đủ nhất để họ bước vào tương lai một cách chuyên nghiệp và bản lĩnh? Tác phẩm độc đáo của Randall Stross sẽ trả lời câu hỏi này, và truyền cảm hứng để bạn có thể tối ưu hóa những tháng năm đại học hết sức ý nghĩa của mình. *** Review Nguyễn Phú Hoàng Nam: Sau nhiều năm học tập, thì nghề nghiệp là kết luận quan trọng nhất trả lời cho câu hỏi bạn đã học được gì. Việc làm không chỉ để nuôi sống bạn mà còn mang đến cho bạn cuộc sống chủ động với các mối quan hệ thân thiện xung quanh. Mặc dù “biết phải làm gì” nhưng không phải ai trong chúng ta cũng “biết làm thế nào”. Nếu đang mông lung trong suy nghĩ ấy, mời bạn tham khảo cuốn sách Hướng Nghiệp Trong Thời Đại 4.0 (A Practical Education: Why Liberal Arts Majors Make Great Empoyees – Hoàng Thiện dịch) của tác giả Randall Stross. Lưu ý trước khi đọc sách Sinh viên Đại học Stanford là nhóm người may mắn nhất. Họ được nhận vào trường đại học có tỷ lệ chọi cao nhất cả nước và tọa lạc ngay trong khuôn viên Edenic, không nơi nào gần với Thung lũng Silicon hơn được nữa. Sinh viên Stanford có vẻ luôn xác định được rõ ràng công việc của mình sau khi tốt nghiệp, mà không cần lo lắng về chuyện tương lai. Những sinh viên được săn tìm nhiều nhất đến từ các chuyên ngành kỹ thuật – những ngành thăng hạng đáng kể trong nhiều thập kỷ vừa qua. Nhưng cuốn sách này đề cập đến những sinh viên không chọn ngành kỹ thuật, mà chọn những ngành không dẫn tới nghề nghiệp cố định khác chỉ vì niềm đam mê học tập. Tôi nhận thấy mình nên có trách nhiệm trích dẫn lại nội dung đầu tiên này trong cuốn sách, bởi nó sẽ giúp độc giả tìm hiểu được thông điệp thực sự trong sách là gì (do phần lớn dung lượng sách đề cập đến các giai đoạn lịch sử hình thành khác nhau của trường đại học Stanford và các câu chuyện sau khi tốt nghiệp của sinh viên nơi đây). Tuy không trực tiếp nói đến “Hướng nghiệp”, và tên của cuốn sách theo nguyên tác tiếng anh thực sự cũng không bàn đến vấn đề hướng nghiệp nhưng hành trình tìm kiếm việc làm theo nguyện vọng bản thân của các sinh viên Stanford, với đủ cả cay đắng lẫn ngọt ngào, cũng có ý nghĩa nhất định trong việc giúp bạn đọc tự khám phá định hướng tương lai nghề nghiệp của chính mình. Ở một khía cạnh khác trong sách, thuật ngữ “Giáo dục khai phóng” cũng được sử dụng thường xuyên tuy nhiên lại không kèm theo giải thích rõ ràng, để sử dụng sách tốt hơn, bạn nên dành thêm thời gian để tham khảo từ các nguồn thông tin khác về hoạt động giáo dục khai phóng.   Ước mơ trên nền ước mơ Chức năng của trường đại học không chỉ là dạy cách kiếm sống. Trên tất cả, đại học là cơ quan điều chỉnh cuộc sống thực và kiến thức sống đang ngày càng tăng, một sự điều chỉnh hình thành nên bí mật của nền văn minh. Trường đại học thực sự sẽ có một mục tiêu muôn đời: Không phải để kiếm miếng ăn, mà để biết kết thúc và mục tiêu của cuộc sống mà miếng ăn đó nuôi dưỡng là gì. Một ngôi trường thật hoành tráng là khởi đầu hoàn hảo cho tương lai hoàn hảo. Không có gì sai khi bạn đưa ra lựa chọn như vậy, bạn bè và cha mẹ của bạn cũng nghĩ như vậy. Sau khi học xong (hoặc trong lúc đang học) một công việc xuất hiện rồi mọi thứ được sắp xếp đâu vào đó. Coi như hoàn thành sự nghiệp, cuộc sống giờ là tháng ngày ổn định thênh thang. Mọi thứ đều đúng và đủ. Chỉ duy nhất có bạn là thừa. Vì rõ ràng nếu không thể biết được lý do tại sao mình theo đuổi một chuyên ngành nào đó hay tại sao mình lại lựa chọn công việc này thay vì công việc khác thì bạn đâu có liên quan đến thứ bạn đang học cũng như bạn đang làm ? Bạn không thực sự tồn tại trong quy trình ấy, vậy nên dù có nghề nghiệp thì bạn vẫn không có sự nghiệp. Chúng ta có thể dễ dàng tưởng tượng tâm thế một người bị buộc phải làm công việc anh ta không thích. Đó là lý do tại sao cần hướng nghiệp. Hướng nghiệp cần được thực hiện từ ngày bạn bắt đầu đến trường (đơn giản có thể bằng cách phát huy sở thích, thế mạnh cá nhân). Thế nhưng hướng nghiệp lại xuất hiện khá muộn, vào đúng lúc bạn quá bận rộn với các kì thi, áp lực kiếm sống và bị so sánh với bạn học. Mọi quyết định nghề nghiệp đến nhanh rồi ra đi chóng vánh. Chưa kể quang thời gian đằng đẵng mơ hồ về công việc của bản thân mình.   Hãy bắt đầu từ lựa chọn đúng công việc bạn muốn làm hoặc đi theo lĩnh vực có hứng thú- thay vì chọn ngành học nào đó chỉ vì tên của nó có liên quan đến mức thu nhập, để đến khi tốt nghiệp mới bắt đầu ngắm bức ảnh kỷ yếu rồi tự hỏi “Tiếp theo là gì đây ?”. Việc chọn ngôi trường phù hợp là yếu tố rất quan trọng khi bạn hướng nghiệp. Cụ thể là ngành học bạn mong muốn có chất lượng đào tạo ra sao, cùng đội ngũ tham gia giảng dạy là những giáo viên thế nào. Đừng chú ý đến “có việc làm hay không”, ngay ở giai đoạn này bạn cần kịp thời nhận ra thứ bạn học được không chỉ nằm ở trong tấm bằng, điểm số mà còn ở cả biểu hiện của bạn-  lý do khiến nhà tuyển dụng chọn bạn. Thường thì bề dày thành tích, lịch sử đào tạo và tên gọi của một cơ sở hoành tráng đôi khi sẽ khiến bạn lạc hướng. Nếu đã từng nghe câu nói: “Đừng đánh giá cuốn sách qua bìa của nó” thì bạn sẽ hiểu thấu việc chọn trường cũng tương tự. Những thứ tưởng chừng rất đẹp đẽ ở bề nổi ấy sẽ chẳng liên quan gì đến lựa chọn về tương lai nghề nghiệp của bạn sau khi bạn học xong- dù cho có thể đem đến cho bạn vài lợi thế về hồ sơ trước nhà tuyển dụng cho đến lúc họ trực tiếp gặp gỡ bạn. Một trường học phù hợp với bạn chính xác mới là khởi đầu đúng đắn, thay vì một trường học danh tiếng. Nơi mà bạn có cơ hội phát huy thế mạnh của bản thân, theo đuổi đam mê và rồi cuối cùng lựa chọn công việc hoàn toàn do bạn quyết định mà không chịu bất kì ảnh hưởng nào bên ngoài. Thực ra, sự trì hoãn của con người rất mạnh, chỉ đến lúc được làm việc mình thích thì bản thân mới thực sự nỗ lực học hỏi và những nỗ lực học hỏi (chấp nhận đối mặt với sai lầm) ấy khởi động những dự định tốt đẹp hơn cùng với định hình con người bạn. Nguyên tắc trong định hướng nghề nghiệp là phải có bản lĩnh, dám thất bại, dám học hỏi và lại tiếp tục cho đến khi tìm thấy điều bạn muốn gắn bó lâu dài. Công chúng cần nhận ra một điều quan trọng rằng, giáo viên, chứ không phải tòa nhà, mới là yếu tố tạo nên một đại học tuyệt vời. Khi mà ước mơ của bạn được xây dựng dựa trên nền ước mơ của một ai đó khác thì bạn vẫn là kẻ mộng du: Làm việc trong tình trạng không cảm xúc, không ý thức và không khát vọng.  Ranh giới kì lạ Vào những năm 1890 và đầu những năm 1900, sinh viên Stanford chọn chuyên ngành Tiếng Anh, lịch sử, triết học, ngôn ngữ và các lĩnh vực khoa học nhân văn khác đã bị coi là không được chuẩn bị tốt cho thế kỷ 20. Sự khác biệt giữa quá khứ và hiện nay chính là, sự sụt giảm lòng tin vào nghệ thuật khai phóng, đặc biệt là khoa học nhân văn, thứ đã bị bào mòn bởi sự trỗi dậy mạnh mẽ của khoa học máy tính Câu chuyện trên không còn là của riêng đại học Stanford nữa mà đang xảy ra ngay lúc này xung quanh chúng ta. Hãy thử nhớ lại thời mà bạn lựa chọn thi khối A và khối C khi vào Đại học thì các bậc phụ huynh và người thân xung quanh bạn đã có biểu hiện ra sao. Khối A thường được hiểu là thứ gì đó thiết thực, mang đến thu nhập lấp lánh còn khối C được coi như khối gì đó rất mơ mộng và thu nhập thì le lói. Cách nghĩ ấy tạo ra nhiều sinh viên thuộc khối khoa học kỹ thuật hơn là khoa học nhân văn. Sự phân biệt hai ngành học này dẫn đến phân biệt về nghề nghiệp và tương lai. Theo kiểu một bên thì tốt và một bên thì không tốt, nghề này có thu nhập cao còn nghề kia không, tương lai này thì sáng sủa còn tương lai kia thì không sáng sủa. Hệ quả là chẳng ai còn thực sự quan tâm đến hướng nghiệp nữa mà thay vào đó chạy theo số đông ào ạt. Về hình thức, đó là hướng nghiệp theo cơ chế thị trường nhưng về bản chất, đó không phải là hướng nghiệp thực sự (vì chẳng thị trường nào cam đoan nó sẽ ổn định vĩnh viễn với các nhu cầu bất biến). Đơn giản nó chỉ là ảo ảnh về ốc đảo giữa sa mạc đối với người khách bộ hành mất phương hướng. Khoa học kỹ thuật chú trọng đến việc tạo ra các giá trị cụ thể còn khoa học nhân văn thì chú trọng đến việc tạo ra một con người tử tế. Và con người tử tế thì có thể học được bất cứ điều gì (họ có cơ hội được dạy bảo nhiều hơn). Như vậy, ngành nhân văn tạo ra những con người có thể thích ứng và học hỏi. Trên thực tế, phẩm chất ứng viên mới chính là điều mà các nhà tuyển dụng luôn cần đến. Nếu ai đó đột nhiên nói rằng: “Vớ vẩn ! tôi khẳng định với tấm bằng tốt nghiệp loại ưu ở một trường danh tiếng, tôi sẽ ung dung đi làm ngay mà không cần học thêm gì cả” thì tôi sẽ cười cho qua chuyện (bạn thấy đấy, phản ứng đó là lý do khiến họ mất đi cơ hội học hỏi). Tính chính xác tuyệt đối trong kỹ thuật tạo nên tư duy luôn đúng và thích kiểm soát nhiều hơn. Họ sẽ phát huy rất tốt nếu được làm các công việc thuộc đúng chuyên môn của mình, thế nhưng để nhận được công việc đó, họ cần phải học cách để được tuyển dụng và chấp nhận sẽ được đào tạo lại, nếu cần thiết. Nhìn chung hướng nghiệp sẽ trở nên vô nghĩa nếu bị chi phối bởi suy nghĩ liên quan đến thu nhập từ quá sớm. Tương tự, việc đặt ra ranh giới khác biệt giữa các ngành khoa học kỹ thuật và khoa học nhân văn, hoặc đề cao bên nào quá mức cũng là một lý do khiến việc hướng nghiệp trở nên rối rắm hơn. Trong khi người trực tiếp có trách nhiệm hướng nghiệp là chính bản thân các bạn sinh viên tỏ ra hờ hững hoặc chỉ đến lúc tốt nghiệp mới quan tâm xem mình sẽ làm gì, thì hàng ngày, hàng giờ có vô số thông tin khích lệ các bạn đi theo việc này hoặc việc kia. Mong các bạn lưu ý, chọn nghề nghiệp không giống với mua hàng trên mạng: mua thứ gì đó chỉ vì tần suất quảng cáo, giá thành và sự thuận tiện. Hãy chấp nhận thử thách, luôn sẵn sàng học hỏi và đừng phớt lờ nghề nghiệp bản thân mình muốn gắn bó, dù cho mọi khởi đầu luôn rất khó khăn.  Joshua Landy, giáo sư tiếng Pháp và văn chương so sánh trong bài giảng đã nói” “ Tôi muốn gửi tới các bạn một lời khuyên từ tận đáy lòng: Đừng theo chuyên ngành kinh tế. Hãy theo chuyên ngành kinh tế nếu bạn yêu kinh tế. Nhưng đừng học chuyên ngành kinh tế nếu đó là bởi cha mẹ bạn bảo bạn như vậy hay bạn nghĩ mình sẽ không thể có được công việc tốt nếu thiếu nó. Do đó tôi đề nghị rằng, các bạn hãy học ngành mà các bạn thực sự quan tâm, bao gồm cả kinh tế. Nếu bạn theo chuyên ngành khoa học nhân văn, thì có một câu mà mọi người luôn hỏi bạn, Bạn sẽ làm gì với nó ? Và ý họ muốn hỏi là, bạn sẽ kiếm tiền bằng cách nào ?” Landy thừa nhận rằng đây là “một câu hỏi khá sâu sắc”. Nhưng ông nói rằng, ông muốn hỏi những sinh viên không theo chuyên ngành khoa học nhân văn một câu: “Khi bạn kiếm được tiền, bạn sẽ làm gì với nó ?...Bạn sẽ tiêu nó thế nào ? Đâu sẽ là cách tốt nhất để làm cho bản thân bạn hạnh phúc và viên mãn ?”    Những cuộc phiêu lưu không định trước của những sinh viên đến từ Stanford như Michael Crandell (học chuyên ngành tôn giáo, gây dựng sự nghiệp trong ngành công nghiệp phần mềm); Stephen Hayes (chuyên ngành lịch sử, gây dựng sự nghiệp trong lĩnh vực nhân sự); Jennife Ockelmann (chuyên ngành lịch sử, gây dựng sự nghiệp trong lĩnh vực marketing) v.v…là ví dụ tham khảo hữu ích cho thấy việc bạn làm gì không quan trọng bằng việc bạn có thực sự muốn làm nó hay không. Thay cho lời kết Hướng nghiệp là một sự nghiệp cao cả. Khi bạn hiểu biết chính xác bản thân muốn gì và có đủ can đảm theo đuổi nó thì bạn xứng đáng trở thành người hướng nghiệp tốt nhất cho chính mình. Thử thách bản thân ở nhiều lĩnh vực khác nhau là phương pháp hữu hiệu để giúp bạn tìm ra một vị trí phù hợp cho cả hiện tại và tương lai. Sự nỗ lực học hỏi luôn là điều kiện tiên quyết để có thể khám phá ra thế mạnh của bản thân và không ai đưa đến ngay cho bạn công việc thực sự phù hợp nếu bạn không chủ động lên đường tìm kiếm nó. Bài học về hướng nghiệp khiến tôi nhớ đến tác phẩm Ông già và biển cả của tiểu thuyết gia Ernest Hermingway. Năm đó, chính vào những tháng hè oi ả của kì thi, cô giáo dạy văn cấp 3 đã nhắc đi nhắc lại câu nói nổi tiếng: “Hãy cố thêm lần nữa” trích trong tác phẩm, để khích lệ chúng tôi. Đến bây giờ,  dù bạn đang còn đang đi học, chuẩn bị tốt nghiệp hoặc đã tốt nghiệp mà vẫn chưa có việc làm, tôi mong muốn được dành tặng lại bạn sự khích lệ ấy. Sách Hướng nghiệp trong thời đại 4.0 là tập hợp những mẩu chuyện có tính nhân văn và nên được đọc trước khi bạn quyết định đưa ra lựa chọn về nghề nghiệp trong tương lai. Mời các bạn đón đọcHướng Nghiệp Trong Thời Đại 4.0 của tác giả Randall Stross.