Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Mẫu

Nguyên tác: 79 Park Avenue Tác giả: Harold Robbins Dịch giả: Khánh Dân Một câu chuyện từ bậc thầy kể chuyện Harold Robbins. Marja bắt đầu từ gái gọi ở các đường phố chính của New York. Tham vọng và định hướng, theo thời gian cô chuyển từ gái gọi đường phố thành vũ nữ thoát y, sau đó ra mắt với cái tên Maryann Flood, nữ hoàng của thế giới giải trí. Từ văn phòng sang trọng ở Park Avenue của mình, Maryann cung cấp những người phụ nữ thú vị và gợi cảm để thỏa mãn mong muốn của người đàn ông mạnh mẽ nhất của New York. Tất cả đều tốt đẹp cho đến khi Maryann phải đối mặt với sự hủy diệt khi chạy trốn sự trừng phạt của pháp luật và đế chế của mình . Bị bắt vì mua sắm, tống tiền, và hối lộ, cô phải đối mặt với công tố viên Mike Keynes, người được hưởng lợi rất nhiều từ việc buộc tội cô nhưng cũng phải đối mặt với một tình thế khó xử chính mình. Anh ta yêu thương Maryann, và cô ấy cũng yêu anh ta. Bây giờ anh phải đối mặt với một sự lựa chọn: dành tình cảm cá nhân của mình vì lợi ích của công lý, hoặc gục ngã trước sự quyến rũ Maryann và phản bội công việc của đời mình. Truyện là nguồn cảm hứng cho miniseries cùng tên được đánh giá cao 79 Park Avenue, 1977.   *** Harold Robbins sinh năm 1916 tại thành phố New York, ông là một trong những tác giả người Mỹ đứng trong danh sách các tác giả có tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại với 750 triệu bản được bán ra. Nổi tiếng từ những tin đồn hoang đường về ông và gia đình (ví dụ như tin đồn người vợ đầu tiên của ông là một vũ công người Trung Quốc đã chết vì bị vẹt cắn). Vì vậy, ông biết được giá trị của xu hướng gây giật gân trong văn học. Tác phẩm đầu tiên Never love a Stranger (Đừng yêu người lạ) xuất bản năm 1948, đã nhanh chóng trở thành vấn đề gây tranh cãi và cũng trở thành tiểu thuyết bán chạy nhất. Ông viết các tác phẩm với tốc độ nhanh, diễn tả được một cách chân thực cảm xúc của người đọc. Không sáng tác nhiều như các nhà văn trong danh sách, nhưng ông thành công bởi chính tài năng thực sự của mình, một nhà văn có tài là người biết viết như thế nào để tạo ra sự giật gân cho các vấn đề hấp dẫn như: cuộc sống, tình dục và sự sợ hãi. Các tác phẩm của nhà văn Harold Robbins được dịch sang 32 ngôn ngữ khác nhau, ước tính tiêu thụ được 750 triệu bản và nhờ đó ông lọt vào top những nhà văn khoa học viễn tưởng có tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại. *** Tôi lái chiếc xe vào bãi đỗ phía bên kia đường đối diện với toà hình sự, chưa kịp tắt máy người gác bãi đã mở sẵn cửa xe cho tôi rồi. Tôi không ưa cái kiểu hầu hạ khúm núm này, cho nên trước khi xuống xe tôi ngồi yên một lúc rồi mới vớ lấy cặp tài liệu và chui ra khỏi xe. - Thời tiết hôm nay đẹp quá, thưa ngài Keyes. - Anh ta nói và đi cạnh tôi ra cổng. Tôi ngước nhìn lên trời anh ta nói đúng, nhưng chỉ đúng với người thích ngày ảm đạm của tháng mười hai. Tôi gật đầu: - Đúng như vậy, Jerry. Trên khuôn mặt anh ta nở một nụ cười. Anh chàng chằng cần nói ra tôi cũng đã thấy là anh ta đã biết tất cả rồi. Tôi sang đường đi vào toà án. Vụ này tôi được biết trước đây hai mươi phút trong căn phòng của một bệnh viện cách đây tám dặm, thế mà mọi người ở đây đều đã biết cả. Lúc đó khuôn mặt ông già tái đi vì đau ngước lên nhìn tôi từ chiếc gối trắng toát. - Anh phải đảm nhiệm việc này thôi. - ông thều thào. Tôi lắc đầu: - Không đâu bác John ạ, tôi không thể làm được. - Tại sao không? Giọng của ông pha chút lo ngại. - Ngài biết rõ là tại sao rồi đó. - Tôi trả lời và ngừng một lát, tôi tiếp tục. - Ngài giao việc ngày cho người khác đi, ngài vẫn còn các nhân viên khác cơ mà, sao lại cứ phải tôi. Giọng thều thào của ông chánh sự trở nên gay gắt đột ngột. - Tất cả đều ảnh hưởng đến chính trị vì vậy anh là người duy nhất tôi tin tưởng. Anh là người duy nhất mà tôi đã tự mình nhận vào làm việc, còn tất cả những người khác đều do họ tròng vào cổ tôi. Cái đó anh đã hoàn toàn rõ. Tôi không trả lời ông, mặc dù biết rằng sự thật không hoàn toàn như vậy. Cái mà ảnh hưởng duy nhất đến chính trị trong toà thượng thẩm là những mưu đồ danh vọng của ông ta. John Dewit Jackson. Đôi mắt ông ta dán chặt lấy tôi: - Anh còn nhớ chứ khi anh đến gặp tôi lần đầu tiên? Hồi đó anh còn ở bên cảnh sát, chân đi ủng trông như hai que diêm. Anh cầm trong tay tấm bằng luật sư và tự giới thiệu mình là "Michael Keyes" anh ấp úng nói không nên lời khi ngỏ ý xin làm việc ở chỗ tôi. Tôi có hỏi anh: "Tại sao anh muốn làm ở văn phòng của tôi". Anh còn nhớ là anh đã trả lời như thế nào không? Tôi còn nhớ rõ vả lại đó là lần duy nhất tôi không xứng đáng với cái tên mọi người thường gọi mình là Mike. - Tôi muốn nhắc lại cho anh nghe anh đã nói gì với tôi khi ấy. Ông nhấc đầu ra khỏi gối. - anh nói: "Tôi ở bên cảnh sát, thưa ngài Jackson và đối với tôi chỉ có một lựa chọn là đứng về phía pháp luật". Tôi đã nhận anh vào làm vì tôi tin tưởng ở anh. - Ông già mệt mỏi ngả đầu xuống gối và giọng nói trở lại thều thào. - Thế mà bây giờ anh lại định bỏ rơi tôi. - Tôi không muốn bỏ rơi ngài, ngài John ạ. Tôi nóng nảy cải lại. - Nhưng vụ này tôi không thể đảm đương được. - Tôi không yêu cầu gì hết và chỉ nghĩ rằng như thế cũng chẳng làm ngài vừa lòng. Ngay từ đầu tôi đã nói thẳng với ngài rồi cơ mà. Ông quay mặt đi chỗ khác một lúc. - Cái ruột thừa chết tiệt này! Sao nó không cố nhịn thêm một vài tuần nữa? Ngay trong khi thều thào giọng ông vẫn có vẻ cương quyết khiến tôi phải bật cười. Ông lôi ra một đống các tờ bệnh án. - Ngài biết bác sĩ đã nói rồi đấy, lần này họ không thể để nguyên được nữa đâu. Tôi đáp bằng một giọng thương cảm theo lịch sự khi xem qua các tờ bệnh án. Ông già gật đầu chán nản: - Hừ đúng là mấy cha bác sĩ! Lại rơi đúng vào lúc xảy ra vụ kiện quan trọng nhất trong sự nghiệp của tôi mới chết chứ. Tôi biết ngày ông già nghĩ gì. Trong một vài tháng tới, các đảng phái trong toàn bang sẽ kéo nhau về họp. Và ngay sau khi họ mở các cửa của những phòng kín trong các nhà hàng để cho mùi whisky và khói thuốc lá bay bớt ra thì sẽ có một thống đốc mới lên ngôi. Ông già chọn thời điểm cho vụ xử án rất khéo. Không quá sớm để mọi người có thể quên và không muộn quá khi mọi sự đã rồi. Nhưng hiện tại ông đang lo cho cơ hội của ông. Ông già nhìn lướt qua tôi xuống phía cuối giường: - Mike! Ông thì thầm. - Anh không như những người khác. Anh đối với tôi như là con trai. Anh là người duy nhất trong cơ quan làm tôi tự hào. Anh là người mà tôi tin. Tôi đã suy tính tất cả mọi điều, nếu có thất bọi thì tôi cũng chẳng oán thán gì, vì đó là ý trời. - Ông khẽ nhú vai nếu không chú ý thì không nhận ra. Yên lặng một chút ông nói với giọng đanh lại. - Nhưng tôi không muốn cái bọn chó đẻ, trơn tuột như lươn, làm vương làm tướng sau lưng tôi. Mời các bạn đón đọc Người Mẫu của tác giả Harold Robbins.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cây Dâu Tằm - Jude Deveraux
Trời đất quay cuồng, nỗi buồn, sự hụt hẫng đã nhấn chìm Lillian Manville. Cái chết bất ngờ của James Manville để lại trong lòng người vợ trẻ một sự trống vắng không gì bù đắp nổi. Trong khi hàng tá luật sư sẵn sàng lao vào cuộc chiến giành gia sản vì nàng thì Lillian chỉ lặng lẽ ôm nỗi đau để nhớ thương người chồng quá cố. Nhà tỉ phú James Manville để lại cái gì cho vợ trong bản di chúc sau cùng? Không gì cả. Người vợ yêu của ông ta không được gì trong đống tài sản trị giá hàng tỉ đô ngoài căn nhà nông trại rách nát, bẩn thỉu chưa từng thấy tại một làng quê hẻo lánh, xa xôi nhất. Lillian đã từ chối khởi kiện và cả đống tài sản kếch xù thuộc về anh,chị của James - 2 con người mà có cải sinh đến mấy lần vẫn không thay đổi được bản tính kinh khủng của họ. Lillian tin rằng James luôn luôn làm điều đúng và có mục đích. Và lần này mục đích của chàng là gì khi trao căn nhà đổ nát này lại cho vợ, cùng lời nhắn cho người bạn thân:"Nàng sẽ hạnh phúc ở nơi này". Phải chăng căn nhà này có liên quan đến tuổi thơ đầy bí ẩn của nhà tỉ phú? Hay là chính cuộc đời của Lillian? Lillian bước vào cuộc sống mới với cái tên mới: Bailey. Nàng tìm thấy sự bình yên, thanh thản, và cuộc sống mới đầy ắp khó khăn nhưng cũng chan chưa tình người và tình yêu. Nàng tìm ra tình yêu mới và cũng tìm ra bí mật của ngôi nhà nông trại mà chồng nàng để lại. Một bí mật... một bi kịch. Cuối cùng, cái gì là của mình thì vẫn là của mình, người bạn thân đồng thời cũng là luật sư của chồng nàng đã âm thầm thay nàng đòi lại công bằng. Lillian Manville một lần nữa lại trở thành người đàn bà giàu có chăng?... *** Jude Deveraux là một tác giả người Mỹ về những chuyện tình lịch sử. Deveraux đã viết hơn 40 cuốn tiểu thuyết, nhiều trong số đó đã nằm trong danh sách bán chạy nhất của Thời báo New York, bao gồm các tựa như A Knight in Shining Armor and Remembrance; cô đã bán được hơn 50 triệu bản vào năm 2016. Mời các bạn đón đọc Cây Dâu Tằm của tác giả Jude Deveraux.
Mộng Kinh Sư - Phan Du
"Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân." - Chỉ một lời điểm chỉ của Trạng Trình đã biến Nguyễn Hoàng đang hoang mang như “chó nhà có tang” thành Chân chủ một phương, vạch đôi sơn hà. Ngôi cổ tự linh thiêng mang tên Linh Mụ đã gắn liền với chín chúa mười ba vua nhà Nguyễn như thế nào? Truyền thuyết về Trích tiên của xứ này không phải ai cũng biết! "Bắc Tuyên phi, Nam Tống thị" - Đặng Thị Huệ dùng nhan sắc khuynh đảo Phủ chúa Đàng Ngoài như thế nào, thì nàng Tống thị Đàng Trong với tuyệt chiêu "vòng kết trăm hoa" hút hồn nam nhân từ nam chí bắc. Hai bên kẻ hô người ứng, nhất tiếu khuynh thành, tái tiếu khuynh quốc, gây nên bao nỗi đoạn trường ra sao? Quyền thần Trương Phúc Loan để sổng một Giáo Hiến, mà di lại cái họa Tây Sơn; Quận công Hoàng Ngũ Phúc bỏ sót Hoàng tôn Dương, nên Gia Long có cơ quật khởi. Bánh xe lịch sử xoay vòng lặp lại thế nào? Mộng Kinh Sư sẽ đem lại cho độc giả câu trả lời đầy đủ! Gói gọn trong hơn 200 trang sách, Mộng Kinh Sư tái hiện những bước hưng vong thăng trầm của dòng họ Nguyễn ở Đàng Trong qua các đời chúa, mỗi chúa với những đặc điểm và công trạng riêng; song song với quá trình hình thành và phát triển của ngôi chùa Thiên Mụ (Linh Mụ) được cho xây cất bởi Nguyễn Hoàng. Tác phẩm ngoài giá trị khảo cứu còn có giá trị lớn về mặt văn học. Một tác phẩm mà những người đam mê lịch sử, những bạn yêu thích tiểu thuyết, những tín đồ của tò mò chủ nghĩa sẽ không thể bỏ qua! *** LINH MỤ TỰ VÀ DÒNG HỌ CHÂN CHỦ PHƯƠNG NAM Khắp cả một vùng Hương Ngự non thanh, nước đẹp, thắng cảnh thực chẳng hiếm gì và chùa chiền không phải là ít ỏi. Trong số trên tám mươi đền chùa có tên tuổi tọa lạc đó đây trong toàn tỉnh, vẫn còn có nhiều danh lam có thể chinh phục được lòng ái mộ và tình lưu luyến của du khách hoặc bằng cảnh trí đặc sắc, hoặc với lối kiến trúc quy mô hay với những kỳ tích về nguồn gốc, chứ không riêng gì Linh Mụ tự. Nhưng dù sao, Linh Mụ tự vẫn chiếm được cái ưu thế trội vượt hơn hết, không những vì cái cảnh trí thơ mộng nơi này, nhưng còn vì một đặc điểm mà các danh lam khác không làm sao có được. Đó là những yếu tố phong thủy của cuộc đất nó chiếm cứ, yếu tố đã tạo nên một liên hệ thiêng liêng, mật thiết và bền bỉ, giữa ngôi chùa với dòng họ chân chủ phương Nam. Số là xưa kia, Tiên Chúa Nguyễn Hoàng, tức Thái Tổ Gia Dũ Hoàng đế (1558 -1613)[1] sau khi vào trấn đất Thuận Hóa - bắt đầu từ tháng Mười năm Mậu Ngọ, tức năm Chính Trị nguyên niên thời Lê (1558), với niềm tin tưởng vững chắc ở sức bảo trợ huyền nhiệm của một dãy Hoành Sơn hùng tráng theo lời truyền bảo của Bạch Vân cư sĩ - tuy lập Dinh ở làng Ái Tử, thuộc huyện Đăng Xương, phủ Triệu Phong (nay thuộc tỉnh Quảng Trị), nhưng cặp mắt yêu chuộng phong thủy của Tiên Chúa lại thường soi rọi địa hình, địa vật khắp cả một vùng Thuận Hóa[2]. Chẳng có núi nào, sông nào, chẳng có những cuộc đất lạ nào mà Tiên Chúa không tìm đến, không thăm dò, vì mục đích chiêm ngoạn cái khí tượng vạn thiên của các nơi danh thắng cũng có, mà phần chính là vì cái chủ đích khám phá những địa thế có khí mạch của núi non ngưng kết, cần cho công cuộc khai cơ, hưng nghiệp. Gót phiếm du của vị chúa phương Nam, một hôm, đã dừng lại trước một ngọn đồi đột khởi giữa một cánh đồng ở thôn Hà Khê, xã An Ninh, huyện Hương Trà[3]. Đồi có hình rất lạ. Giữa khoảng bình địa, nó hiện ra như một con rồng quay đầu nhìn lại dãy núi chính, nơi nó phát xuất. Phía trước, ngay dưới chân đồi, là một dòng sông uốn khúc uyển chuyển, xinh mềm như vòng tay ngọc nữ, và, phía sau, đồi tiếp giáp với một cái hồ, mặt nước phẳng lặng như tờ. Dưới cái nhìn sành sỏi của các nhà địa lý, cảnh trí có cái đặc tính giai thắng này nhất định phải là nơi từng có linh khí ngưng tụ. Tiên Chúa lại tiến lên đỉnh đồi, nhìn ngắm quanh vùng. Trước mắt là cả một bức tranh sơn thủy vô cùng ngoạn mục, huyền ảo chẳng kém gì cảnh sắc trong tranh thủy mặc trên quạt của Mã Viễn đời Tống hay trên lụa của Ngô Đạo Tử đời Đường. Trông về phương nam, một vòng sông thanh tú, và bên kia sông, một ngọn gò thuộc xã Nguyệt Biều, gò Thọ Khang - về sau này được mang tên là gò Thọ Xương hay Long Thọ Cang[4] - nơi mà những canh gà từng được coi như là một trong những yếu tố đã tạo thành cái nguồn thi vị bàng bạc khắp cả một bầu trời Hương Ngự: Gió đưa cành trúc la đà. Tiếng chuông Linh Mụ, canh gà Thọ Xương[5]. Cùng với gò, một bãi hoang phù sa phô trương cái sức sinh sôi rất mực sung thiệm[6] của loài thảo mộc. Xa hơn là cánh đồng Nguyệt Biều phì nhiêu, êm ả. Trông về phương tây, dòng sông, sau khi vừa rẽ qua một khúc quanh, dàn rộng cõi lòng hầu như mênh mông với mặt nước phẳng lì, bóng bẩy như một bức định kính tráng bằng chất ngọc lưu ly vừa đông lại. Xa xa, án ngữ chân trời, một dãy núi xanh huyền ảo, chạy dài phía sau màn sương thoang thoáng, điểm chuyết, cùng với sông kia, gò nọ, cho cảnh trí nơi này cái vẻ lồng lộng, bao la, sáng lạn và thanh khiết của một cõi trời đã lau sạch bụi trần. Nhưng có thể cặp mắt của vị chân chủ phương Nam đã phải để ý đến một điểm đặc biệt hơn các thức đẹp kết hợp thành cái toàn bộ cảnh trí thơ mộng này. Đó là một đường hào - đào khá sâu - cắt đứt chân đồi tàn nhẫn như dấu vết lưỡi gươm sắc bén của tên đao phủ thiện nghệ còn lưu lại trên cổ tử tù. Bàn tay thô bạo, ngu xuẩn nào đã vô tình làm cái chuyện rất đáng kiêng kỵ về mặt phong thủy đó? Xén ngang chân đồi thì có khác gì là cắt đứt long mạch, làm phân tán cái khí thế của núi non ngưng tụ! Hoặc giả đã có tay tổ nào trong giới phong thủy bày ra cái trò yểm trừ này chăng? Chúa phương Nam liền mở cuộc dò la, thăm hỏi đám bô lão, để tìm hiểu và khám phá cho ra nguyên do. Và quả đúng như điều nghi hoặc của Tiên Chúa, hào đào là nhằm mục đích yểm trừ, và tác giả của cái công trình phá hoại này lại không ai khác hơn là tướng Cao Biền, một tay địa lý đại danh từng có chủ trương triệt tiêu tất cả mọi yếu tố phong thủy có thể giúp cho chân mạng đế vương xuất hiện ở phương Nam.[7] Các vị bô lão hiểu chuyện đã tường trình cùng Tiên Chúa rằng: vì biết được tại đồi này có một nữ thần thường hiện ra, lại xem xét kỹ, thì lòng gò có linh khí đáng ngại, nên Cao Biền đã dùng phép thuật yểm trừ và cho đào hào để dứt tuyệt long mạch. Từ đấy, ngọn đồi vắng bóng nữ thần. Dân làng qua lại đồi này, dù vào lúc giữa trưa đứng bóng hay trong đêm vắng canh khuya, cũng chẳng bao giờ còn được mục kích sự hiển hiện của thần linh như trước. Lạ hơn là cái hồ ở phía sau đồi - về sau được mang tên là Bình Hồ - nước cứ ngày càng đỏ ra như máu[8]. Một hồ máu rõ ràng! Phải chăng là máu của Rồng thiêng? Và như thế rất nhiều năm qua, không ai còn nhắc đến chuyện nữ thần, nhưng rồi, một đêm kia, có đám hành giả, nhân đi ngang qua đồi vào khoảng quá giờ Tý, đã tình cờ trông thấy, dưới bóng trăng khuya mới mọc, một bà lão, tóc và chân mày bạc phơ, ngồi ở chân đồi. Áo dài của bà cụ đỏ chói màu ráng pha, nổi bật trên chiếc quần màu lục rất tươi. Ánh trăng tuy còn lơ mơ, nhưng dường như đã được pha lẫn một nguồn ánh sáng huyền diệu nào đó, để soi tỏ được không những y phục, mà cả cái dáng mạo phúc hậu, trang nghiêm của bà cụ, cùng những đường nét thêu trổ tuyệt mỹ trên đôi hài gấm đế trắng và chiếc nón thúng - cũng cùng một màu trắng - có quai lụa hồng. Bà cụ nhìn vào đường hào, nhìn lên đỉnh đồi, rồi nói lớn, như có ý để những lời tiên tri của mình được lọt trọn vẹn vào tai đám hành giả đã tán loạn cả hồn phách vì cuộc gặp gỡ bất thần và đáng hãi hùng này: “Cao Biền vì ác ý muốn dứt tuyệt long mạch ở phương Nam, nhưng làm sao có thể nghịch lại sự định phận của Thiên Thư. Sơn hà nào có chân chủ nấy. Long mạch tuy bị dứt, nhưng chưa tuyệt. Máu Rồng còn tươi. Một ngày kia chuyện buồn rồi cũng chấm dứt. Bàn tay của chân chủ phương Nam sẽ lấp hào đi để cho linh khí tụ lại, long mạch nối liền. Một con Linh Quy, để được thoát kiếp, sẽ hút sạch máu trong lòng hồ. Nước hồ trong ra, cõi trời Nam càng thêm hưng thịnh, trăm họ vui khúc âu ca.” ... Mời các bạn đón đọc Mộng Kinh Sư của tác giả Phan Du.
Hồng Nhan Thượng Hải - Thời Thanh Xuân - Trương Hiền Lượng & Trần Đan Yến
Hồng Nhan Thượng Hải – Thời Thanh xuân là 2 truyện dài của 2 nhà văn nổi tiếng Trung Quốc – Trần Đan Yến và Trương Hiền Lượng.​ Truyện dài Hồng nhan Thượng Hải (Trần Đan Yến) là một câu chuyện lấy bối cảnh Thượng Hải từ năm 1944 qua lời kể của nhiều người về cuộc đời của Diêu Diêu - ra đời vào mùa hè năm 1944. Diêu Diêu là con gái thứ hai của một ngôi sao điện ảnh nhưng sống hòa đồng với bạn bè và chịu sự giáo dục nghiêm khắc và nóng nảy của mẹ. Cô giống mẹ ở tính muốn có danh tiếng nhưng lại lựa chọn chính trị. Song tiền đồ chính trị của cô luôn gặp khó khăn, trắc trở vì mẹ cô là ngôi sao của giai cấp tư sản vì vậy Diêu Diêu đã phải chịu những hy sinh, mất mát ngay cả những người mà cô yêu thương nhất... Truyện dài Thời Thanh Xuân của nhà văn Trương Hiền Lượng viết về những khoảnh khắc, ký ức và những câu chuyện được định nghĩa là “thời thanh xuân” mà tác giả cũng chính là nhân vật “tôi” đã trải qua, đã cảm nhận được trong thời gian đi cải tạo ở thời kỳ bài trừ phái hữu, cải cách văn hóa của Trung Quốc.​ *** Thưa cụ, cụ có thể kể cho cháu về mùa hè Thượng Hải năm 1944, về những câu chuyện bình thường mà ngày ngày đã xảy ra ở đây. - Tôi tìm đến Ngụy Thiệu Xương, được sinh hạ, lớn lên và gần như cả một đời người đã gắn bó với cái thành phố đông dân nhất này của Trung Quốc. Giờ là mùa xuân, cách năm 1944 phải đến 56 năm rồi, trời mưa và cả Thượng Hải đượm màu xám nhạt, các góc phố có phần tối hơn, giống như tàn thuốc điểm vài chấm đen, bóng những khuông cửa in lên tường mờ nhòa, loang lổ. Những ai chưa quen với Thượng Hải dầm dề mưa xuân thì khó có thể cảm thụ cùng vẻ đẹp mềm mại, mây khói của màu trời mùa này, và tương tự khó lòng thể hội một cái gì đó thương cảm nhè nhẹ ẩn chứa trong hơi mưa ẩm ướt. Mưa rả rích, liên miên, chẳng biết đến lúc nào mới tạnh, và đến lúc nào mới nghe được tiếng sấm đầu xuân. Cụ già Ngụy nhớ như in, thời tiết năm 1944 cũng giống thế này, cụ còn kể chuyện năm 1932, khi người Nhật ném bom Thượng Hải với cảnh tượng ở “Thương vụ ấn thư quán” trên đường Bảo Sơn, thiêu trụi một nhà in và một thư viện lớn nhất Đông Á. Bốn mươi vạn cuốn sách, trong đó có sáu vạn cuốn đặc biệt và toàn bộ số giấy chuẩn bị in sách đều trở thành tro bụi. Trời Thượng Hải ngập trong mưa tuyết, những cánh tuyết màu đen từ Bảo Sơn theo gió mùa đông bắc bay khắp thành phố, rơi xuống, phủ lên áo quần phơi ngoài ban công mọi con đường, nhất là Nam Kinh đông lộ. Ngụy Thiệu Xương có vẻ mỉm cười, thần sắc đổi thay khi kể chuyện cháy sách ở “Thương vụ ấn thư quán”, nhưng khi cụ ngẩng lên, hất mái đầu bạc trắng thì bạn sẽ nhìn thấy một gương mặt gắng gượng, chịu đựng và vô cùng nhẫn nại với dĩ vãng, cụ chẳng cười chút nào, cụ hơi ngạc nhiên vì sao tôi lại muốn biết những gì về năm 1944 ở Thượng Hải. - Dạ thưa, cháu đang viết sách, kể chuyện một người mà năm đó đã sinh ra ở đây, cháu muốn biết những tình tiết chân thực khó có thể tìm thấy trong sử sách, tân văn báo chí, thậm chí cả các truyện ký hay hồi ức của các bậc vĩ nhân, bởi vì nhân vật của cháu là cô gái rất bình thường. - Tôi trả lời và cảm thấy, cô ta như hạt bụi dính trên pho sách sử, nhưng tôi muốn hạt bụi đó vĩnh viễn không bị quét đi, rơi mất. ... Mời các bạn đón đọc Hồng Nhan Thượng Hải - Thời Thanh Xuân của tác giả Trương Hiền Lượng & Trần Đan Yến.
Thiên Thần Nổi Loạn - Anatole France
“Thiên thần nổi loạn” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của A. France, thời kỳ sau này. Arcade một thiên thần hộ mệnh giáng phàm, trên con đường  tìm kiếm tri thức khoa học và chân lý đã đảo tung một trong những thư viện tư lớn nhất Châu Âu. Anh cùng các đồng bạn thiên thần xây dựng một đạo quân “ô hợp bát nháo” cùng hướng đến một mục tiêu chống lại thiên giới và hệ thống tín điều Ki tô thủ cựu; chống lại sự giam hãm, áp đặt tư tưởng của Thiên Chúa; phá vỡ xiềng xích niềm tin để nhận thức được thăng hoa.  “Thiên thần nổi loạn” như muốn đưa một thông điệp với loài người bé nhỏ: đức tin là cần thiết, nhưng đấy phải là một đức tin được thanh lọc bằng những hoài nghi khoa học, bằng tinh thần thánh thiện, bằng chủ nghĩa nhân văn, bằng một thời đại với sự cải cách phục hưng mới. Với kiến thức uyên bác về lịch sử Pháp, lịch sử tôn giáo, đặc biệt am hiểu về văn chương, hội họa xuyên suốt từ cổ đại, trung cổ, phục hưng tới cận đại, với văn phong trác tuyệt, A.France đã khéo léo lồng ghép cái triết lý hoài nghi của mình vào tiểu thuyết, đưa học thức uyên bác kết hợp với nghệ thuật đả kích châm biếm đưa trí tưởng tượng kết hợp với hiện thực xã hội, đưa biên niên sử tôn giáo kết hợp với phóng tác văn chương, đưa Dionysus gặp gỡ các thánh Tông Đồ, đưa những linh vật giao du cùng ngoại đạo, tất cả những điều ấy đã đưa ông thành một nghệ sĩ bậc thầy về kể chuyện, đưa đến cho người đọc những áng văn tuyệt vời, làm người đọc đắm say. *** Anatole France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, ông sinh ở Paris ngày 16 tháng 4 năm 1844, ngày 13 tháng 10 năm 1924 ở Tours, Indre-et-Loire, Pháp. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì "những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực"… Đến năm 1922, sách của ông đã nằm trong danh sách cấm của Giáo Hội Công Giáo La Mã, bởi trước tác của ông chống lại sự mê hoặc tôn giáo, giáo điều chủ nghĩa; dưới ngòi bút châm biếm đả kích, trào lộng, A. France mỉa mai những luận điệu thần thánh, những thiết chế Nhà nước, những thối nát của nhà thờ cùng với sự đớn hèn của loài người.  Anatole France sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học). Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì "những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực".. A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire. Một số tác phẩm của tác giả Anatole France: Sách Của Bạn Tôi Không Đời Nào! Bông Huệ Đỏ Thiên Thần Nổi Loạn Các Hung Thần Lên Cơn Khát ... Mời các bạn đón đọc Thiên Thần Nổi Loạn của tác giả Anatole France.