Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc đưa ta đến lời giải cho bí mật của hạnh phúc nơi làm việc. Sau tất cả, Barry Schwartz đã chứng minh cho chúng ta thấy gốc rễ của thành công trong lao động hiếm khi được khuyến khích, trong khi chúng ta lại cố gắng làm những việc chỉ đem lại kết quả xấu. Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Nhưng câu hỏi tưởng như thật đơn giản và ai cũng dễ dàng trả lời. Nhưng Giáo sư Barry Schwartz lại chứng minh rằng thật ra câu trả lời chi nó lại vô cùng phức tạp, đáng kinh ngạc và vô cùng khẩn cấp. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Nhiều người làm việc vì họ thấy vui. Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Những người khác làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Nhiều người làm việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? *** Vấn đề mấu chốt Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Thật là câu hỏi ngớ ngẩn. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Người nào hài lòng với công việc thì lao động say mê. Họ làm việc quên mình. Tất nhiên không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng đủ để điều đó trở thành đặc điểm nổi bật của họ. Những người này được khơi gợi tinh thần thử thách. Công việc buộc họ phát huy khả năng – bước ra ngoài vùng an toàn của mình. Những người may mắn này cho rằng làm việc thật là vui, vui như chơi trò đoán ô chữ hay Sudoku vậy. Con người làm việc còn vì lẽ gì nữa? Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Công việc cho họ phương tiện để có quyền độc lập và tự quyết. Và họ sử dụng quyền ấy để nâng cao khả năng của bản thân. Họ học những điều mới mẻ, phát triển bản thân cả trong công việc lẫn đời sống. Những người này làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Họ làm nhiều việc với tư cách là một thành viên nhóm, và ngay cả khi làm việc một mình, trong những lúc tĩnh lặng, họ vẫn có nhiều cơ hội tương tác với bên ngoài. Cuối cùng, những người này hài lòng với công việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Có thể là, công việc của họ khiến thế giới thay đổi. Nó khiến cuộc sống của những người khác tốt đẹp hơn. Và thậm chí theo những cách đầy ý nghĩa. Tất nhiên, chẳng có nhiều công việc, và tôi nghi ngờ là không có công việc nào, lúc nào cũng hội tụ tất cả những đặc điểm này. Nhưng những đặc trưng nghề nghiệp như thế này chính là điều sút ta ra khỏi nhà, thúc ta cõng việc về nhà, huých ta nói về công việc của mình với những người khác, và khiến ta ngần ngừ không muốn nghỉ hưu. Ta sẽ không làm việc nếu không được trả công, nhưng đó không phải là lý do mấu chốt. Và ta hay nghĩ vật chất là một lý do làm việc chẳng đẹp đẽ gì. Thật vậy, khi nói ai đó “làm việc vì tiền”, ta không chỉ đơn thuần là giới thiệu, mà còn có ý đánh giá nữa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? Những người làm kiểu công việc này – dù trong nhà máy, cửa hàng thức ăn nhanh, kho hàng bán theo yêu cầu, hay quả thực, trong những công ty luật, lớp học, phòng khám và văn phòng – là làm vì tiền. Dù có cố gắng tìm kiếm ý nghĩa, thử thách, và không gian để được tự quyết đến đâu, thì họ cũng phải đầu hàng trước điều kiện làm việc. Cách thức công việc của họ được tổ chức thực sự chẳng cho họ một lý do ý nghĩa nào ngoại trừ tiền lương. Theo một báo cáo diện rộng do Gallup, một tổ chức thăm dò ý kiến có trụ sở tại Washington, D.C xuất bản vào năm 2013, số người lao động “chống đối” trên thế giới nhiều gấp đôi so với những người lao động “gắn bó” với công việc của mình. Gallup đã đo lường sự hài lòng với công việc trên toàn cầu trong gần hai thập kỷ. Tổng cộng họ đã khảo sát 25 triệu người lao động ở 189 quốc gia khác nhau. Trong những phiên bản mới đây nhất, họ thu thập thông tin từ 230.000 người lao động làm việc toàn thời gian và bán thời gian ở 142 quốc gia. Nhìn chung, Gallup đã nhận ra chỉ có 13% số người cảm thấy gắn bó với công việc của mình. Những người này làm việc đam mê và dành trọn thời gian để thúc đẩy công ty, doanh nghiệp mình tiến lên. Phần lớn chúng ta, khoảng 63%, không cảm thấy yêu công việc. Chúng ta lờ đờ, nửa tỉnh nửa mê lê lết qua hết một ngày dài, chẳng đầu tư công sức gì lắm cho công việc. Và số người còn lại thì làm việc cực kỳ chống đối, thực sự ghét việc. Nói cách khác, công việc thường xuyên là một nguồn khó chịu hơn là nguồn vui sướng cho gần 90% người lao động trên thế giới. Hãy nghĩ đến sự lãng phí các dịch vụ xã hội, lãng phí cảm xúc và có lẽ lãng phí cả tiền bạc mà con số thể hiện. 90% người trưởng thành dành một nửa thời gian thức để làm những việc họ không muốn làm và ở những nơi mà họ không muốn ở. Những câu hỏi khảo sát của Gallup đã nắm bắt được nhiều lý do làm việc mà tôi vừa liệt kê. Những khía cạnh công việc mà bài khảo sát nói đến là: cơ hội làm việc một cách “tương xứng”, hết sức mình; cơ hội để có hứng thú học hỏi và phát triển bản thân; để cảm thấy cảm kích, vui vẻ với đồng nghiệp và quản lý; để cảm thấy được tôn trọng ý kiến; để cảm thấy công sức mình bỏ ra là cần thiết; và để có những người bạn tốt ở nơi làm việc. Và đối với phần đông áp đảo, công việc của họ thiếu – thiếu nhiều – những điều đó. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao? Cuốn sách này sẽ đưa ra một câu trả lời. *** Quan niệm sai lầm Hơn hai thế kỷ nay, cả xã hội và từng cá nhân chúng ta đã thấm nhuần một số quan niệm sai lầm về quan hệ của con người với công việc. Đó là một nguyên lý kinh tế học đã được chấp nhận từ lâu, được một số học thuyết tâm lý bồi thêm cho vững chắc. Nguyên lý ấy là: nếu bạn muốn có một ai đó – nhân viên, sinh viên, quan chức chính phủ hay con cái của bạn – làm một việc gì đó, thì bạn phải đền bù xứng đáng cho họ. Con người làm việc vì được thúc đẩy, vì phần thưởng, vì tiền. Bạn có thể thấy quan điểm này vận hành trong phương pháp “cà rốt và cây gậy”, một phương pháp chủ yếu trong những nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính hiện thời của thế giới. Để tránh tình trạng khủng hoảng tài chính tái diễn, người ta cho rằng cần phải thay thế những động cơ làm việc “ngớ ngẩn”, thủ phạm dẫn tới tình trạng khủng hoảng đó, bằng những động cơ “thông minh hơn”. Chúng ta phải có những động cơ đúng. Những thứ khác không thực sự quan trọng. Quan niệm này đã làm sống lại quan niệm của người phát kiến ý tưởng về thị trường tự do, Adam Smith. Trong cuốn Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations), xuất bản năm 1776, ông viết: Con người ta vốn thích được sống sung sướng nhất có thể; và nếu tiền lương vẫn như vậy dù anh ta có làm việc chăm chỉ hay không, thì anh ta sẽ lơ là và lười biếng vì được cho phép. Nói cách khác, con người làm việc vì tiền – chẳng hơn mà cũng chẳng kém. Niềm tin của Smith vào sức mạnh thúc đẩy của đồng tiền dẫn ông tới chỗ bênh vực cho cách thức phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, lặp lại dễ dàng, cơ bản là vô nghĩa. Miễn là được trả lương, còn lại công việc đó tạo ra sản phẩm gì thì người ta chẳng quan tâm nhiều lắm. Và bằng cách phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, xã hội sẽ đạt được năng suất làm việc khổng lồ. Để tán dương lợi ích của chuyên môn hóa, Smith đưa ra một ví dụ nổi tiếng, miêu tả một nhà máy sản xuất đinh: Một người kéo sợi dây ra, người khác lần theo nó, người thứ ba cắt, người thứ tư chộp lấy mẩu cắt ấy, người thứ năm tán cái đầu nó ra để tạo phần mũ... Tôi đã nhìn một phân xưởng nhỏ làm việc kiểu ấy, họ chỉ thuê có 10 người... Bọn họ có thể làm ra được hơn 48.000 cái đinh một ngày... Nhưng nếu cho làm việc riêng rẽ và độc lập... thì chắc mỗi người không làm nổi được 20 cái. Như chúng ta sẽ thấy sau này, quan điểm của Smith về loài người tinh vi hơn, phức tạp hơn và giàu sắc thái hơn nội dung vừa trích dẫn. Ông ta không tin rằng “con người trong công việc” nói lên toàn bộ câu chuyện, hay thậm chí là chuyện mấu chốt nhất, về bản chất con người. Nhưng dưới bàn tay những kẻ hậu bối của Smith, quan niệm đó đã mai một đi phần lớn độ tinh vi và khía cạnh phức tạp của nó. Hơn một thế kỷ sau, các quan điểm của Smith đã dẫn đường chỉ lối cho cha đẻ của cái được gọi là phong trào “quản lý khoa học”, Frederick Winslow Taylor. Taylor nghiên cứu tỉ mỉ về thời gian và cử động để tinh giản nhà máy, như cách Smith hình dung, để biến nhân công thành một bộ phận của một bộ máy vận hành trơn tru. Và ông ta đã đặt ra những cơ chế khen thưởng để thúc đẩy nhân công làm việc chăm hơn, nhanh hơn, và chính xác hơn. Không lâu sau đó, quan điểm của Smith đã tác động đến suy nghĩ của một nhân vật tiếng tăm trong giới tâm lý học giữa thế kỷ 20, B. F. Skinner. Các nghiên cứu của Skinner trên chuột và bồ câu – qua những thí nghiệm đơn giản, lặp lại, hết lần này đến lần khác, với phần thưởng là thức ăn hoặc nước uống – đã khoác lên một cái áo mang màu sắc khoa học đúng đắn và phương pháp luận cho những cải cách môi trường làm việc do Taylor phát triển. Skinner đã chỉ ra rằng hành vi của con vật có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ và được kiểm soát chặt chẽ bằng cách điều khiển số lượng phần thưởng và tần số thưởng mà hành vi đó đem lại. Giống như Taylor phát hiện ra chế độ trả lương khoán theo sản phẩm (một số tiền cố định cho mỗi sản phẩm hoàn thành) đã nâng cao năng suất làm việc ở nhà máy, Skinner nhận ra rằng con chim bồ câu trong phòng thí nghiệm cũng nghe lời hơn với hình thức khoán tương tự. Bạn có thể hỏi tại sao lại có ai đó đi chọn làm việc trong xưởng đinh của Smith, tán đầu đinh hết phút này đến phút khác, giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác cơ chứ. Câu trả lời của Smith là, tất nhiên rồi, phàm là người thì chẳng ai thích làm việc trong xưởng đinh. Nhưng phàm là người thì cũng chẳng ai thích làm việc cho dù ở bất cứ đâu. Smith đang nói với chúng ta rằng lý do duy nhất cho việc người ta làm bất kỳ thể loại công việc nào chính là số tiền mà nó đem lại. Và miễn là số tiền ấy xứng đáng thì bản thân công việc ra sao lại chẳng thành vấn đề. Adam Smith đã nhầm về thái độ và động lực làm việc của chúng ta. Nhưng khi chủ nghĩa tư bản phát triển dưới ảnh hưởng của ông, bằng một bước xoay mình uyển chuyển của “lý thuyết động cơ cho vạn vật”, người ta đã cải tiến ra một mô hình làm việc bỏ qua hoặc xóa sổ tất cả những yếu tố tiềm năng khác có thể khiến con người ta hài lòng với công việc. Và dần dần, cả hành tinh này đều vận hành theo mô hình như thế, nên mỗi sáng người ta lê bước đi làm mà trong lòng đã chết đi mầm mống ý nghĩa công việc mình làm, đã nguội lạnh lòng thiết tha hay phai tàn những cảm giác hứng khởi do được thử thách khả năng. Vì chẳng có lý do gì để làm việc ngoại trừ tiền, nên họ sẽ làm việc vì tiền. Vậy là quan điểm sai lầm của Smith về lý do làm việc của con người đã trở thành đúng. Ở đây, tôi không định nói rằng trước cuộc cách mạng công nghiệp, lao động là việc vui vẻ. Không hề. Tuy nhiên, lao động của những nông dân, thợ thủ công, và người bán hàng, mặc dù có thể đã từng vất vả, nhưng người ta lại khá tự do, có quyền tự quyết và công việc cũng khá phong phú. Họ có cơ hội sử dụng tài khéo léo của mình để giải quyết các vấn đề phát sinh và tìm tòi những cách thức làm việc hiệu quả hơn. Tất cả những cơ hội này đã rớt lại phía sau khi người ta bước qua cánh cửa nhà máy. Biến những quan niệm sai thành đúng Có thể bạn đồng ý với Smith. Có thể bạn tin rằng với hầu hết mọi người, về cơ bản, công việc chỉ xoay quanh tiền lương và chẳng là gì hơn. Chỉ có “giới tinh hoa” mới muốn có công việc thử thách, ý nghĩa và sự gắn bó và chỉ có họ mới có thể trông đợi những điều đó từ công việc. Không chỉ là có phần hợm hĩnh, quan điểm này còn không đúng. Nhiều người làm những việc mà chúng ta vẫn cho là tầm thường – quản gia, công nhân nhà máy, nhân viên trực tổng đài – quan tâm đến nhiều yếu tố hơn là chuyện tiền lương. Trong khi nhiều chuyên gia lại làm việc chỉ vì tiền. Những điều mà mọi người tìm kiếm phần lớn phụ thuộc vào những gì công việc của họ có thể mang lại. Và điều kiện lao động ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp, được kéo dài mãi một phần nhờ vào các lý thuyết từ các ngành khoa học xã hội, đã tước đoạt một cách có hệ thống niềm hạnh phúc lao động của họ. Để làm được như thế, chúng đã cướp mất của con người một nguồn vui quan trọng – và trả về những công nhân tồi tệ. Bài học ở đây là tầm quan trọng của sự khích lệ vật chất đối với con người sẽ phụ thuộc vào cấu trúc vận hành của nơi làm việc. Và nếu chúng ta tổ chức môi trường làm việc dựa trên quan điểm sai lầm rằng con người làm việc chỉ vì tiền, thì chúng ta sẽ tạo ra một nơi làm việc khiến cho quan điểm sai lầm này trở thành đúng. Bởi vậy, chuyện “người lao động không làm việc vô tư nữa” là không đúng. Cái đúng là bạn sẽ không còn có thể nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình nữa nếu bạn chỉ giao cho người ta một kiểu công việc chán chường và tẻ nhạt. Để mọi người “hỗ trợ nhiệt tình” bạn cần giao cho họ công việc mà họ muốn làm. Và ta sẽ thấy việc người lao động làm việc hết mình, vô tư, không phải vì tiền không còn là mộng tưởng kiểu “bánh vẽ”. Viễn cảnh ấy nằm ngay trong tầm với của chúng ta. Cũng nên nói rằng nhiều năm qua, lý thuyết và thực tiễn về quản lý đã đi qua những giai đoạn công nhận – thậm chí còn ca ngợi – các động lực làm việc đa dạng của con người, và các nhà quản lý được khuyến khích tạo ra một đời sống công sở có khả năng vun đắp tình cảm gắn bó và ý nghĩa công việc, vì lợi ích của cả nhân viên lẫn của tổ chức. Nửa thế kỷ trước, “Thuyết Y” của Douglas McGregor(1) đã là một nỗ lực có tầm ảnh hưởng lớn trong dòng phát triển này, còn Stephen Barley và Gideon Kunda đã xuất bản một bài báo quan trọng liệt kê diễn biến thịnh suy theo thời gian của những quan điểm quản lý công việc này. Nhưng không hiểu sao, những quan điểm như thế này chưa bao giờ hoàn toàn tàn lụi. Phong cách làm việc thoải mái và khác người của Google cùng các công ty đang phát triển như diều gặp gió khác ở thung lũng Silicon có thể sẽ khiến người ta có ấn tượng rằng những công việc lao dịch theo dây chuyền đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng giống như lực hút trái đất, quan niệm người ta làm việc chỉ vì tiền đã hết lần này đến lần khác kéo những hi vọng về những mục đích làm việc cao cả hơn dúi dụi trở về mặt đất. Qua nhiều thế kỷ, người ta đã nhận ra những quan niệm của Adam Smith về bản chất con người quả thật rất dai dẳng. Các quan điểm hoặc lý thuyết về bản chất con người có một vị trí độc nhất trong các ngành khoa học. Chúng ta không phải lo lắng rằng trật tự vũ trụ sẽ bị biến dạng do những giả thuyết của chúng ta về vũ trụ. Các hành tinh thực sự không quan tâm đến quan niệm hoặc lý thuyết của chúng ta về chúng. Nhưng chúng ta nên lo lắng rằng bản chất con người sẽ bị thay đổi bởi các lý thuyết chúng ta đưa ra về bản chất con người. Bốn mươi năm trước, nhà nhân chủng học lỗi lạc Clifford Geertz đã nói rằng loài người là “động vật chưa hoàn thiện”. Ý ông là bản chất con người chính là sản phẩm của xã hội xung quanh chúng ta. Rằng con người tạo ra chứ không phải phát hiện ra bản chất của mình. Chúng ta “thiết kế” bản chất con người, bằng cách thiết kế nên những tổ chức mà mình sống trong đó. Bởi vậy ta nên tự hỏi bản thân là mình muốn góp phần thiết kế nên loại bản chất nào. Nếu muốn góp phần tạo nên một kiểu con người tìm kiếm những thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa, và sự thỏa mãn trong công việc, chúng ta phải bắt đầu từ việc xây dựng một con đường thoát khỏi cái hố sâu mà gần ba thế kỷ những hiểu lầm về động lực và bản chất chất con người đã đẩy chúng ta vào, và giúp bồi dưỡng những mảnh đất làm việc mà trong đó thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa và sự thỏa mãn có thể đâm chồi. Mời các bạn đón đọc Vì Sao Chúng Ta Làm Việc của tác giả Barry Schwartz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nghệ Thuật Lắng Nghe Trong Giao Tiếp
Việc trở thành một người lắng nghe tốt hơn có ý nghĩa thế nào đối với bạn? Cuộc đời bạn sẽ thay đổi ra sao nếu bạn biết lắng nghe hơn? Trong thế giới hiện đại ngày nay, dường như chúng ta đã quá quen với việc chạy theo những lợi ích cá nhân và dần quên đi sự quan trọng của việc dừng lại và lắng nghe. Khả năng lắng nghe người khác thực sự có thể được coi là kỹ năng quan trọng nhất, giúp thay đổi cuộc đời của bạn và những người xung quanh bạn. Trong giao tiếp đời thường, kỹ năng lắng nghe sẽ giúp bạn xây dựng các mối quan hệ dựa trên nền tảng tiếp nhận thông tin; trong công việc, lắng nghe không chỉ giúp bạn tiếp nhận kiến thức, kinh nghiệm từ những người có chuyên môn, mà còn giúp bạn thấu hiểu đồng nghiệp hơn và từ đó có thể giúp đỡ nhau cùng phát triển, đạt hiệu suất cao. Với những ví dụ sinh động, các kỹ thuật dễ học và bài tập thực tế, hãy cùng học lại cách lắng nghe hiệu quả từ bậc thầy về giao tiếp – Dale Carneige thông qua cuốn sách “Nghệ thuật lắng nghe trong giao tiếp”. Bạn có thể tự đánh giá khả năng lắng nghe của bản thân thông qua bài kiểm tra “Bạn có nghe tôi nói không?”. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng sẽ giới thiệu các đặc điểm thường thấy từ bảy lọai hình người nghe để từ đó gợi ý cho bạn cách thức giao tiếp sao cho phù hợp. Trong chương 3, tác giả sẽ phân tích bốn kiểu lắng nghe, bao gồm: Giả vờ lắng nghe, lắng nghe để đáp trả, lắng nghe học hỏi và lắng nghe đồng cảm.Tất nhiên, đây không phải là danh sách tuyệt đối về các loại hình lắng nghe. Chỉ cần lướt nhanh một vòng trên Internet là bạn có thể thấy hằng hà sa số những cái tên và những mô tả cho các loại hình lắng nghe khác nhau. Tuy nhiên bốn loại hình trên đây có thể bao hàm cho các loại còn lại. Hãy tận hưởng trong quá trình đọc và đắm chìm trong những kiến thức chứa đựng trong cuốn sách này. Món quà tuyệt vời nhất mà bạn có thể dành tặng cho người khác chính là trở thành phiên bản tốt hơn của chính bản thân bạn. Và điều đó bắt đầu với việc trở thành một người lắng nghe hiệu quả hơn. *** [Bookademy] Review Sách Có khi nào bạn cảm thấy không muốn nói chuyện với bố mẹ hay người thân vì họ không lắng nghe bạn không? Có khi nào bạn cãi nhau với đứa bạn thân vì hiểu sai ý nhau không? Hay có bao giờ từ bỏ một mối quan hệ vì không thể giao tiếp? Frank Tyger, nhà báo và nhà vẽ tranh biếm họa người Mĩ, từng nói: “Thính giác là một trong năm giác quan của con người. Nhưng lắng nghe là cả một nghệ thuật.” Thật vậy. Nhiều người cho rằng việc nghe dễ hơn nói bởi họ không phải nghĩ nên và không nên nói gì. Những người không biết cách trò chuyện lại càng lấy cớ lắng nghe để đẩy trách nhiệm cho đối phương. Tuy nhiên, việc lắng nghe cũng quan trong như việc nói vậy, bởi để giao tiếp thành công cần có sự tương tác hai chiều giữa hai bên đối thoại. Người nghe cần thấu hiểu, hay ít nhất là nắm bắt được chủ đề người nói đang đề cập tới, từ đó khiến người nói có cảm giác thoải mái và tạo dựng được một mối quan hệ tốt đẹp. Lắng nghe, trên thực tế, là một kĩ năng khó. Nhưng cuốn sách “Kĩ năng lắng nghe trong giao tiếp” của Hiraki Noriko sẽ dạy bạn mọi thứ bạn cần để dành 50% chiến thắng trong đời. Tại sao lắng nghe lại quan trọng? Mới đây thôi, tôi đã cắt đứt quan hệ tình bạn với một người. Có nhiều lí do dẫn đến kết quả này, nhưng một trong số đó lại là vấn đề giao tiếp giữa chúng tôi. Tôi đã qua tuổi 18, em vẫn còn là một đứa nhỏ cần sự quan tâm và thấu hiểu. Tôi có thể lờ đi mọi thứ khiến bản thân bực bội, em thì thích để chúng vào mắt. Tôi ở một góc độ nào đó đã thấu hiểu sự bất công của thế giới, em thì lại quá nhạy cảm. Mỗi lúc trông thấy tôi, em sẽ quấn quit kể về những điều em trông thấy, cảm thấy và những chuyện xảy ra trong ngày hôm đó. Sẽ không có gì đáng nói nếu tôi không càng ngày càng phát ngán với những câu chuyện tưởng chừng bất tận về cùng hay vài chủ đề luẩn quẩn. Em hay kể những chuyện khiến em không thoải mái, những điều tôi chẳng quan tâm, những thứ tôi đã dặn em đừng làm nữa nhưng em vẫn ngang bướng không nghe. Và tôi bắt đầu hờ hững với em, hờ hững lắng nghe những câu chuyện em kể. Có quá nhiều khác biệt giữa chúng tôi khiến việc chấm dứt chỉ là vấn đề thời gian. Nhưng tôi đã nghĩ đến một cái kết trong êm đẹp, chứ không phải bắt đầu bằng việc tổn thương em bởi sự hờ hững ích kỉ này. Thế đấy, bạn của tôi ạ, lắng nghe quan trọng bởi nó có thể giúp bạn giữ lại dù chỉ một chút kỉ niệm đẹp về đối phương, để bạn không phải ngày ngày canh cánh trong lòng hai chữ “xin lỗi”, và nếu bạn không phải là một kẻ xấu xa như tôi, có thể bạn sẽ hàn gắn được mối quan hệ đang rạn nứt này với tình yêu thương và tấm lòng thông cảm, bao dung. Như đã đề cập ở trên, lắng nghe là một trong hai chiều của giao tiếp. Nếu việc nói giúp bạn bộc lộ bản thân và chia sẻ quan điểm thì việc nghe giúp bạn hiểu đối phương, từ cách suy nghĩ đến tính cách và thái độ của người đang cùng bạn trò chuyện, rồi dựa vào đó mà khéo léo tạo dựng được những mối quan hệ phù hợp, có thể khiến bạn được yêu mến nữa (Bởi là thôi nào, có ai mà không yêu mến người khiến mình thoải mái trò chuyện và được thấu hiểu chứ?)  Như Johann Wolfgang von Goethe có nói: “Nếu bạn muốn hiểu tư duy của ai đó, hãy nghe anh ta nói.” Tác giả Hiraki Noriko cũng cho biết: Những người không biết cách lắng nghe, không nắm bắt được chủ đề đối phương đang nói, tuy không phải là người xấu nhưng cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong giao tiếp. Nói một cách cực đoan thì họ sẽ không tạo dựng được mối quan hệ với mọi người trong gia đình, bạn bè hay đồng nghiệp, thậm chí những việc đơn giản như mua đồ tại cửa hàng cũng trở nên khó khăn với họ. Hơn thế nữa, những người như vậy cũng khó có thể hi vọng rằng mình sẽ có một mối quan hệ thân thiết hay sự đồng cảm sâu sắc với người khác. Từng ấy lí do đã đủ khiến lắng nghe trở nên quan trọng chưa? Về đối tượng hướng đến Theo từ điển Oxford, giao tiếp (communication) là hành động hay quá trình cung cấp thông tin, diễn đạt suy nghĩ và cảm xúc đến mọi người. Trong tiếng Anh, “communication” (giao tiếp) và “community” (cộng đồng) có cùng từ gốc Latin “communis”, mang nghĩa chung, phổ biến. Bên cạnh đó, tiếng Latin còn có từ “communicare”, nghĩa là khiến cái gì đó trở nên phổ biến với nhiều người, chia sẻ, truyền đạt, chia ra. Do vậy, ta có thể suy ra bản chất của giao tiếp chính là sự sẻ chia. Theo tâm lý học, giao tiếp là hoạt động xác lập, vận hành các mối quan hệ giữa người với người nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định. Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội, là nhu cầu sớm nhất của con người từ khi tồn tại đến khi mất đi. Con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa, đạo đức, chuẩn mực xã hội thông qua giao tiếp. Như vậy, con người không thể tồn tại mà không có giao tiếp, và ai cũng cần quan tâm đến cách lắng nghe. “Kĩ năng lắng nghe trong giao tiếp” của Hiraki Noriko phù hợp với mọi đối tượng. Dù bạn là cô gái tuổi đôi mươi hay đã là phụ huynh của hai nhóc tì, thậm chí là một ông lão tóc bạc trắng, dù bạn có đang gặp khó khăn trong giao tiếp nói chung và kĩ năng lắng nghe nói riêng hay không, dù bạn có muốn thay đổi hay không, bạn vẫn có thể đọc hiểu và áp dụng cuốn sách này. Ở mỗi chương đều có những hình minh họa tóm tắt và ví dụ cụ thể mà người đọc dễ dàng liên hệ vào thực tế. Càng đọc những lời khuyên của Hiraki Noriko, tôi càng nhận ra bản thân đã mắc quá nhiều lỗi trong việc lắng nghe như thế nào, dù tôi luôn nhận mình là đứa giỏi nghe hơn nói. Chà, nghe mỉa mai nhỉ? Nhưng đó là sự thật. Bởi tôi đã nhầm tưởng về việc lắng nghe như bao người ngoài kia. Tôi nhận ra, nghe và hiểu điều đối phương muốn đề cập không phải là tất cả, đáp lại đối phương như thế nào cũng vô cùng quan trọng. Nếu bạn đã từng gắt gỏng với bố mẹ, từng không muốn trò chuyện với gia đình vì không ai hiểu cách suy nghĩ của bạn hay từng đánh mất một mối quan hệ và cách lắng nghe là một trong nhiều vấn đề dẫn đến rạn nứt, giống như tôi, thì bạn nên ra hiệu sách và mang cuốn này về, bởi nó sẽ giúp bạn nhiều hơn bạn tưởng tượng về một cuốn sách kĩ năng. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Lắng Nghe Trong Giao Tiếp của tác giả Dale Carnege & Ngân Nga (dịch).
Nghệ Thuật Làm Vợ
Nghệ thuật làm vợ là nghệ thuật biến một người phụ nữ bình thường thành niềm ao ước của đại đa số đấng mày râu. Một nửa thế giới còn lại mong muốn gì về những người vợ như chúng ta? Làm vợ, đơn giản là trở thành một hình mẫu lý tưởng trong lòng các quý ông chồng. Vậy, bạn có đang nằm trong Top những người vợ lý tưởng ? Người vợ như thế nào là người vợ đáng để mơ ước. Làm vợ là cả một nghệ thuật và người phụ nữ trong thế giới hiện đại luôn hướng tới chuẩn mực nhất định. Sự dịu dàng, thông minh, đảm đang, ngăn nắp hay biết nấu ăn,.. chưa hẳn là yếu tố làm vợ, làm mẹ một cách hoàn hảo. Làm vợ được trải qua thời gian khá dài, làm tròn bổn phận và trách nhiệm của một người vợ khiến ai ai cũng phải ngưỡng mộ quả là điều không đơn giản. Cuốn sách này chắt lọc kinh nghiệm của những "người vợ" đi trước, là cẩm nang hữu ích giúp bạn trở thành người vợ đảm đang trong gia đình hạnh phúc. *** Làm vợ! Hai tiếng ngắn gọn và giản dị đó bao hàm biết bao trọng trách thiêng liêng của người phụ nữ. Ngay từ lúc cúi lạy trước bàn thờ tổ tiên là đôi lứa đã cảm thấy cuộc đời cả hai thuộc về nhau rồi. Cũng từ giây phút ấy, bạn sẽ không còn nghĩ và làm cho riêng cá nhân nữa, và chồng bạn cũng vậy... Hai con người riêng rẽ đã tiến đến bên nhau để cùng đi chung một cuộc đời. Bạn và chồng bạn phải cùng nhau gánh vác nhiệm vụ xây dựng gia đình mà trong đó cả hai sẽ cùng nhau chia sẻ niềm vui lẫn nỗi buồn, phải hòa hợp với nhau cả tâm hồn và thể xác. Cuộc sống ấy không hoàn toàn thơ mộng đẹp đẽ như bạn tưởng tượng trước đó, nhưng nó cũng sẽ là một "mái ấm vô cùng tuyệt vời" cho bạn và chồng bạn nếu cả hai cùng yêu thương, cảm thông nhau và cùng có một nghị lực phấn đấu trước các chông gai thử thách của cuộc đời. Nhưng để được như vậy, trước hết bạn phải làm đủ trọng trách của một người làm vợ. Hãy làm sao cho căn nhà của bạn là một tổ ấm mà chồng bạn phải nhớ tới, phải cần tới để được thoải mái nghỉ ngơi, làm cho mọi người cảm thấy được hạnh phúc bên nhau... Tất cả là do nghệ thuật làm vợ của bạn. Cuốn Nghệ Thuật Làm Vợ sẽ phân tích và hướng dẫn cho các bạn rõ những vấn đề trên. Với Nghệ Thuật Làm Vợ, mong rằng khi bạn đã trao tay cho chàng đeo nhẫn là bạn đã quên tất cả để sống với chồng cho trọn vẹn, và là lúc bạn sẽ đem tất cả sự khôn ngoan, tế nhị cũng như lòng nhân ái vốn có của phụ nữ làm hành trang đi vào đời. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Làm Vợ của tác giả Lan Anh (biên soạn).
Kỷ Luật Bản Thân Nền Tảng Cho Thành Công
“Một ngày sẽ dài bất tận cho những ai biết cách trân trọng và sử dụng nó.” (Goethe) Tất cả chúng ta đều có cùng số giờ dành cho mình trong một ngày, nhưng một số người có thể hoàn thành nhiều việc hơn trong 24 giờ so với những người khác. Chìa khóa dường như nằm ở việc kiểm soát thời gian đó thay vì để nó kiểm soát bạn. Nói cách khác, sự khác biệt là do quản lý thời gian. Cố tổng thống mỹ Benjamin Franklin từng nói: “Nếu thời gian là thứ đáng giá nhất, phí phạm thời gian hẳn phải là sự lãng phí ngông cuồng nhất.” Cuốn sách “Kỷ luật bản thân nền tảng cho thành công” sẽ mang đến cho các bạn các mẹo và kỹ thuật đã được chứng minh để giúp bạn xem xét và đánh giá việc quản lý thời gian của mình và áp dụng các phương pháp làm việc mới để cải thiện nó. Nó bao gồm các ý tưởng tiết kiệm thời gian tuyệt vời, các giải pháp thực tế và danh sách công việc phải xem xét, cùng với lời khuyên về: kiểm soát thủ tục giấy tờ; sắp xếp các email; ủy nhiệm và làm việc với những người khác; ưu tiên tập trung vào những vấn đề trọng tâm; sắp xếp và duy trì tổ chức. Cuốn sách có nhiều bài tập thực tế hơn, các vì dụ hữu ích và các mẹo hàng đầu để giúp bạn giảm thiểu sự lãng phí và gián đoạn thời gian, đồng thời tập trung vào các ưu tiên sẽ dẫn đến thành công trong công việc và sự nghiệp của bạn. “Kỷ luật bản thân nền tảng cho thành công” sẽ cung cấp cho bạn các công cụ để trở nên hiệu quả và hiệu quả hơn. “Kỷ luật bản thân nền tảng cho thành công” nằm trong bộ sách “Tạo dựng Thành công” cực kỳ phổ biến được viết bởi các chuyên gia dành cho các nhà quản lý và nhà lãnh đạo mới và đầy tham vọng. Được kết hợp với tư duy nhạy bén, lời khuyên thông minh và hàng loạt các kỹ năng để thành công thực sự mang lại hiệu quả bất ngờ, bạn sẽ đạt được tiến bộ rõ rệt, nhanh chóng đạt được mục tiêu và tạo ra thành công lâu dài trong sự nghiệp của mình. Hãy luôn nhớ rằng: “Chúng ta không bao giờ có đủ thời gian để làm mọi việc mình muốn, nhưng chúng ta luôn có đủ thời gian để làm những việc quan trọng nhất” (Brain Tracy). *** Bạn là một người trẻ hiện đang vùng vẫy trong công việc và cuộc sống? Bạn dường như không bao giờ đủ thời gian để làm mọi thứ? Bạn có quá nhiều công việc cần làm mà chẳng bao giờ hoàn thành? Hay bạn chỉ đang trên con đường đi tìm một cách để quản lý thời gian hiệu quả, tăng năng suất, chất lượng cho công việc của bạn. Tuy nhiên,  bạn có thể không những làm nhiều thứ hơn, năng suất hơn, hiệu quả hơn. Và khi ấy, cuốn sách Kỷ luật bản thân, nền tảng cho thành công là dành cho bạn.  #1. Tổng quan cuốn sách Cuốn sách được chia là 9 chương bao gồm: Chương 1: Thời gian, nguồn lực chính yếu ”Các cơ hội và khó khăn” Chương 2: Bước đầu của việc quản lý thời gian hiệu quả Chương 3: Đạt được (và duy trì) sự tổ chức  Chương 4: Đối đầu với các tác nhân tiêu tốn thời gian Chương 5: Email: Lối tắt hay lỗ đen thời gian? Chương 6: Điều tiên quyết đầu tiên  Chương 7: Kiểm soát giấy tờ Chương 8: Làm việc với người khác Chương 9: Lời cuối cùng “Vĩnh cửu là một suy nghĩ khủng kiếp. Ý tôi là nơi mà nó sẽ kết thúc?”-Tom Stoppard- Chín chương này sẽ giúp bạn mở ra cuộc sống mới cho bạn, thành công trong công việc và thư thái nghỉ ngơi.   #2. Bước đầu của việc quản lý thời gian và đạt được và duy trì sự tổ chức Tác giả đưa ra cách kết hợp công việc của bạn và đánh giá việc hiện tại của bạn, đặt ra mục tiêu của bạn thật rõ ràng và thông tin, cách dành thời gian để tiết kiệm thời gian, cũng như tự thưởng cho bản thân và hơn cả vậy nữa. Từ đó mang lại hiệu quả bất ngờ, giúp bạn có được tiến bộ rõ rệt, nhanh chóng đạt được mục tiêu và tạo ra thành công lâu dài.  Bạn có thể tạo nên sự thay đổi và mọi sự thay đổi đều có giá trị, nó có thể ảnh hưởng triệt để đến cả công việc lẫn sự nghiệp. Đừng nhầm lẫn, hiệu quả của việc nắm bắt cách thức quản lý thời gian rất đáng kể và đa dạng. Nó có thể: Ảnh hưởng đến năng suất, hiệu quả, kết quả của bạn điều này chỉ ra thái độ của bạn với việc quản lý thời gian vô cùng quan trọng, vì nó ảnh hưởng đến công việc của bạn từng ngày, từng giờ, mọi lúc. Điều chỉnh áp lực đi kèm với bất cứ công việc nào. Tạo cho bạn một tầm nhìn tích cực. Quản lý thời gian sẽ thay đổi cách bạn được nhìn nhận từ mọi người trong tổ chức. Việc quản lý thời gian tốt là một yếu tố quan trọng có thể phân biệt được những người có tài và có khả năng tương đương nhau, khiến nhiều người sẽ thành công hơn về mặt nghề nghiệp so với những người khác.   Do đó mặc dù có thể mất nhiều thời gian, nhưng việc nắm bắt được hệ thống quản lý thời gian cá nhân của riêng bạn là vô cùng quan trọng. Quản lý thời gian phải được xem như là việc tự quản lý bản thân; nó đòi hỏi kỉ luật, những kỷ luật được cùng cố bởi một thói quen. Mặt khác, tin tốt là nó sẽ trở nên dễ dàng hơn khi bạn thực hành chúng. Những thói quen tốt giúp bạn có cách tiếp cận có tổ chức trong quá trình lên kế hoạch và thực hiện công việc. Mặt khác, những thói quen xấu-như nhiều người trong chúng ta nhận thức được - rất khó thay đổi. Việc này thay đổi thói quen là điều vô cùng cần thiết đối với kết quả của việc đánh giá lại cách làm việc của bạn.   Bất kể công việc của bạn là gì cho dù bạn là người quản lý hay điều hành, bất kể loại hình tổ chức nào bạn đang làm việc và lĩnh vực bạn tham gia, bạn chắc chắn có nhiều việc phải làm. Những thứ này là sự khác biệt về bản chất và sự phức tạp liên quan đến khung thời gian khác nhau. Chúng bao gồm 1011 thứ, từ việc soạn thảo một bức thư hay một báo cáo về kế hoạch di dời các tổ chức đến một văn phòng mới đến việc ra mắt một sản phẩm mới. Hơn thế nữa, bạn có thể gặp phải các trường hợp như có quá nhiều thứ diễn ra cùng một lúc cũng như các yêu tiên chồng chéo lên nhau, dẫn đến sự xung đột thông thường công việc cũng như việc tung hứng ở ví dụ trước và tầm với của bạn - Bao nhiêu việc bạn có thể giữ để chạy cùng lúc? Nếu bạn vượt quá tầm với như những người tung hứng, điều nguy hiểm là bạn phải đối mặt không chỉ đơn giản là cách đánh rơi một ngọn đuốc mà là một vài trong số chúng, điều này quản lý tất cả một cách hiệu quả.   Có rất nhiều cách để làm điều này, nhưng chỉ có bốn cách phân loại có thể mang đến một thứ tự cụ thể cho việc này: 1. Lập kế hoạch: đây là điều tiên quyết cho tất cả hành động những việc phải làm sẽ liên quan đến nghiên cứu điều tra phân tích và thử nghiệm với những người khác nhau. Điều này cũng sẽ liên quan tới việc tham vấn ý kiến cuối cùng là truyền đạt được kế hoạch, tất nhiên, là chìa khóa để đưa ra quyết định. 2. Thực hiện: nói một cách đơn giản, làm mọi việc với tất cả các loại - Cho dù là những việc vô hình (trong đó có việc ra quyết định thuộc về người khác) hay hữu hình. Nhiệm vụ cụ thể được chia làm hai loại: Thứ nhất, nhiệm vụ cá nhân. Đây là các công việc không theo một khuôn mẫu nào. Chúng có thể là nhiệm vụ lớn hoặc nhỏ. Ví dụ, một công việc viết có thể là sợ một meo dài hai dòng hoặc một báo cáo 20 Trang. Thứ hai, các nhiệm vụ mang tính chất tiếp diễn hàng loạt các hành động được liên kết chặt chẽ với nhau để đạt được một hoạt động tổng thể. Di dời văn phòng sẽ bao gồm nhiều hoạt động và các công việc này có thể dễ dàng hình dung hơn là mô tả chúng - Thực sự một sơ đồ sẽ cung cấp sự hữu ích và hiệu quả về thời gian hơn khi phải xử lý những công việc này. Các nhiệm vụ ở cả hai loại để lên được gắn chặt với nhiệm vụ kế hoạch ở bất kỳ quy mô nào. 3. Giám sát và kiểm soát: việc kiểm tra có thể là điều cần thiết để đảm bảo mọi thứ đã được thực hiện theo cách tốt nhất và mang lại kết quả mong muốn việc kiểm tra có thể đơn giản, chẳng hạn như việc chỉnh sửa lại bản nháp của báo cáo hoặc sử dụng một phần mềm kiểm tra chính tả. Hay phức tạp hơn, có nhiều hệ thống kiểm soát tài chính. 4. Giao tiếp và thương mại với người khác: điều này rõ ràng sẽ trên ngang vào các hoạt động của ba mục kia, nhưng nó lại luôn tồn tại trong công việc của hết mọi người. Rất ít, những người làm việc tách biệt với những người khác, và hầu hết giao tiếp với người khác là một phần thiết yếu trong công việc và chiếm phần lớn thời gian của mọi người. Trong tất cả bốn mục, sẽ có học nên có một liên kết mạnh mẽ với mục đích là thành quả của các kết quả đạt được. Tất cả các nhiệm vụ và hành động nên tập trung vào mục tiêu tổng thể và thường sẽ mang tính chất kém quan trọng hơn. Sự hiệu quả được đo lường bằng thành tích.   Mời các bạn đón đọc Kỷ Luật Bản Thân Nên Tảng Cho Thành Công của tác giả Patrick Forsyth & Trương Minh Hoàng (dịch).
Đường Đến Thành Công
15 biển báo từ Napoleon Hill giúp bạn không bị lạc đường trên hành trình tìm kiếm sự thành công trong cuộc sống Tại sao thành công luôn mỉm cười với tất cả mọi người, còn với mình thì lại không? Tại sao việc đạt được điều bản thân mong muốn luôn trông dễ dàng với người khác, còn mình dù có nỗ lực bao nhiêu thì hai từ “thành công” vẫn cứ xa tầm với? Có bao giờ trong phút giây chán nản vì những thất bại, bạn đã than thở những điều trên? Hãy khoan thất vọng, sự thành công không phải là điều quá xa xỉ nếu như bạn nắm bắt được cách vận hành của mọi thứ diễn ra quanh mình, cũng như biết được cách thay đổi bản thân để có thể thích ứng với chúng. Trăn trở này cũng đã từng lóe lên trong đầu Napoleon Hill khi ông còn là một cậu thiếu niên. Nó đã ngự trị trong tâm trí ông một thời gian rất dài. Có lẽ cũng vì vậy mà Napoleon Hill đã dành cả đời mình để theo đuổi và tìm đáp án cho câu hỏi ấy. Kết quả là, ông không những đã đi được đến tận cùng của vấn đề, mà bản thân ông còn trở thành một người có sức ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ nhất trong lĩnh vực truyền cảm hứng thành công trong lịch sử thế giới. Ông nói: “Chúng ta không thất bại khi cố gắng thực hiện nhiệm vụ của mình, chúng ta chỉ thất bại khi xao nhãng nhiệm vụ đó”. “Đường đến thành công” là cuốn sách chứa đựng những ghi chép của Napoleon Hill, về những giá trị cốt lõi mà ông đã tìm thấy và chiêm nghiệm được khi theo đuổi sự thành công. Cuốn sách gồm bốn phần. Trong đó, phần một là trọng tâm, chứa đựng 15 biển báo, tượng trưng cho 15 sự chỉ dẫn, giúp bạn đọc không bị lạc đường trên hành trình khám phá cuộc sống và mưu cầu sự thành công của mình. Phần hai, ba và bốn đem lại cho độc giả nhiều thông tin bổ ích khi bàn luận chuyên sâu về việc lãnh đạo, sự thành công trong lãnh đạo, cũng như khả năng nhìn xa trông rộng về những điều sẽ xảy đến trong đời mình. “Những điều vĩ đại đạt được dễ dàng, nhưng chính những năm, những giờ, những thời khắc chuẩn bị mới là điều quan trọng”. Thomas Edison phải dành cả đời mình để khám phá ra loại dây tóc tốt nhất và thất bại cả ngàn lần trước đó. Vậy nên, muốn chinh phục được đỉnh thành công, bạn phải chấp nhận đi trên một hành trình dài, và không phải bạn cứ ra sức tiến về phía trước là sẽ đạt được nó ở nơi cuối con đường. Điều bạn cần phải làm là chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, đó là một phương hướng đã được hoạch định một cách rõ ràng. Với tư duy của một tác giả được mệnh danh là “người tạo ra các nhà triệu phú” nhờ những chia sẻ về triết lý thành công, cùng những câu chuyện có thật từ cuộc đời của những người có tên tuổi trong lịch sử nhân loại, như nhà bác học Edison, hay nhà phát minh và khai thác dầu bông vải Eli Whitney… độc giả có thể tự mình vạch ra một lộ trình rõ ràng với những mục tiêu cụ thể, cũng như hướng đi chi tiết để chinh phục được những ước mơ của đời mình thông qua cuốn sách “Đường đến thành công”. Về tác giả: Napoleon Hill (1883-1970) là tác giả có ảnh hưởng sâu rộng và mạnh mẽ nhất trong lĩnh vực thành công cá nhân, hơn bất kỳ nhân vật nào trong lịch sử. Với công trình nghiên cứu kéo dài gần 30 năm của mình, ông trở thành nhà truyền cảm hứng nổi tiếng bậc nhất thế giới khi chia sẻ triết lý thành công dựa trên phương pháp Tư duy tích cực cho hàng triệu người trên toàn cầu. Các tác phẩm của ông bổ sung và phát triển triết lý này, trở thành những cuốn sách kinh điển, không thể bỏ lỡ trong lĩnh vực phát triển bản thân, tiêu biểu như “Nghĩ giàu và Làm giàu”, “Tư duy làm giàu”, “Để thế giới biết bạn là ai”, “Phụ nữ hiện đại - Nghĩ giàu và Làm giàu”, và “Những nguyên tắc vàng của Napoleon Hill”. Tác phẩm: 13 Nguyên tắc Nghĩ Giàu Làm Giàu - Napoleon Hill Chiến Thắng Con Quỷ Trong Bạn - Napoleon Hill Kế Hoạch Làm Giàu 365 Ngày - Napoleon Hill Những Quy Tắc Vàng của Napoleon Hill - Napoleon Hill Bí Quyết Làm Giàu của Napoleon Hill - Napoleon Hill Cách Nghĩ Để Thành Công - Napoleon Hill Chiến Thắng Con Quỷ Trong Bạn - Napoleon Hill Làm Giàu ... *** Tôi còn thiếu điều gì để thành công? Đâu là sự khác biệt giữa người thành công với những người còn lại? Có một lộ trình đáng tin nào để con đường dẫn đến thành công bớt ngoằn ngoèo, để người ta bớt lạc lối, bớt đâm vào những ngõ cụt thất bại? Tôi còn thiếu điều gì để thành công? Đâu là sự khác biệt giữa người thành công với những người còn lại? Có một lộ trình đáng tin nào để con đường dẫn đến thành công bớt ngoằn ngoèo, để người ta bớt lạc lối, bớt đâm vào những ngõ cụt thất bại? Những câu trả lời xác đáng nhất chắc chắn phải đến từ “nhà nghiên cứu về người thành công” lỗi lạc nhất lịch sử – Napoleon Hill. Trong suốt sự nghiệp kéo dài hàng thập kỷ, ông đã “gõ cửa” Thomas Edison, Henry Ford và những cá nhân giàu có, đạt thành tựu lớn lao nhất thời đại mình, phỏng vấn họ và khám phá những phẩm chất khiến họ khác biệt với số đông. Bộ sách “Quy luật của thành công” và cuốn “Nghĩ giàu và làm giàu” của ông phổ biến trên khắp thế giới, ảnh hưởng đến hàng tỷ độc giả, biến những cá nhân bình thường thành người thành đạt. Napoleon Hill được mệnh danh là “người tạo nên những triệu phú”.  Đường đến thành công (tựa gốc: Road to Success) được viết vào những ngày đầu sự nghiệp của Napoleon Hill. Cuốn sách tổng hợp 15 năng lực của người thành công, được chắt lọc từ quá trình nghiên cứu của ông. “Con đường dẫn đến thành công đã được khám phá, đã được nghiên cứu và những tấm biển báo đã được đặt trên lộ trình. Những tấm biển này sẽ cho bạn biết những gì bạn cần thực hiện”, Napoleon Hill chia sẻ.  15 biển báo của “Đường đến thành công” bao gồm những đức tính tối quan trọng như: Tính chủ động, lòng nhiệt tình, sự kiên trì…cũng như những phẩm chất có tính quyết định nhưng không phải ai cũng đánh giá đúng mức, như làm nhiều hơn mức lương được trả, tính cách cuốn hút, lòng khoan dung… Đi qua con đường với những tấm biển báo này, chúng ta sẽ thấy được giá trị của một tầm nhìn vượt trội, một tâm trí “thu hút thành công” hay một tấm lòng sẵn sàng cho đi.  “15 yếu tố được đề cập ở đây đều là những bước chuẩn bị cho việc tổ chức những nỗ lực hoặc năng lực thật phù hợp để chắc chắn mang lại thành công đích thực – loại thành công bao gồm cả hạnh phúc”, Napoleon Hill cho hay. Theo ông, với hầu hết mọi người, một phần trong tổng số 15 yếu tố đó đã trong tầm kiểm soát, và điều ta cần làm là bổ sung những phẩm chất chưa xây dựng được. 15 biển báo này như một tấm gương mà ta có thể nhìn vào đó, soi rọi mình, nhìn thấy ngay những gì bản thân cần phải cải thiện. “Dù bạn nghĩ thành công là sự tích lũy về mặt của cải hay một việc cao cả, lớn lao cho nhân loại, hay cả hai, bạn sẽ không thể nào đạt được nó nếu không có một phương hướng đã được hoạch định rõ ràng”, tác giả khẳng định. Cuốn sách này sẽ vạch ra cho bạn một lộ trình rõ ràng, hiệu quả để bạn tiến tới chinh phục những mục tiêu lớn nhất mà bạn đã đặt ra trong cuộc sống. Điểm cộng lớn nhất của cuốn sách nằm ở văn phong cuốn hút, thuyết phục - một trong những tài năng nổi bật nhất của ngài Hill. Đặc biệt, bạn đọc sẽ được truyền nghị lực từ những hành trình đi tìm thành công có thật mà tác giả dẫn ra. Như câu chuyện của Edwin C. Barnes - người cộng tác kinh doanh giàu có của Thomas Edison, người mà khi khởi đầu sự nghiệp còn không có đủ tiền mua vé xe lửa tới nơi làm việc. Hay chuyện Eli Whitney đã sử dụng óc sáng tạo để thu lợi từ lượng hạt bông vải khổng lồ bị bỏ đi của các nông dân Mỹ.  Cá nhân Napoleon Hill cũng có cho mình một câu chuyện có sức lay động lớn. Sinh ra ở miền núi hẻo lánh thuộc vùng Tây Bắc, Virginia, thuở thiếu niên, mức thù lao kỳ vọng của ông khi làm việc ở mỏ than là một đô la một ngày và “chưa từng nghĩ về điều gì to tát hơn 2,5 đô la một ngày”. Không có bất kỳ điều gì thời bấy giờ là điềm báo cho thấy ông sẽ trở thành một người thành đạt trong tương lai. Nhưng nghị lực, tầm nhìn và một con đường đúng đắn đã đưa Hill tới thành công ngoài sức tưởng tượng. “Edison thường nói với tôi, những người vẫn được mọi người tôn vinh là thiên tài vốn dĩ không phải vậy - anh ta chỉ là một người lao động cần cù đã vạch ra được một kế hoạch đúng đắn rồi bám vững theo nó mà hành động thôi”, Hill chia sẻ. Cuốn sách đơn giản mà giá trị của Napoleon Hill trao cho bạn đọc niềm tin rằng, bất cứ ai, với bất cứ xuất phát điểm nào, nếu có lộ trình phù hợp và liên tục hoàn thiện mình thì sẽ đạt đến đích đến thành công, hạnh phúc như mong đợi.  “Luôn tồn tại điểm khác biệt giữa đòi hỏi thành công và chỉ đơn thuần ao ước nó. Bạn phải tìm ra cho được điểm khác biệt này là gì và triệt để tận dụng nó” - Napoleon Hill. Mời các bạn đón đọc Đường Đến Thành Công của tác giả Napoleon Hill & First News (dịch).