Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bàn Về Văn Minh (Fukuzawa Yukichi)

FUKUZAWA YUKICHI VÀ CÁCH LỰA CHỌN CỦA NHẬT BẢN

Trong cuốn sách của Fukuzawa Yukichi bạn đang cầm trên tay, ở chương “Bàn về tri thức và đạo đức của một nước”, tại tiểu mục “Lý do thành công thực sự của cuộc Minh Trị Duy Tân”, có một câu rất lạ. Fukuzawa viết, như reo lên: “May thay, Phó Đề Đốc Perry đã đến Nhật vào năm Kaei (tức năm 1853)!” Perry là ai? Vì sao việc ông đến Nhật năm 1853 được Fukuzawa, một trong những nhân vật quan trọng nhất có công sáng lập nên nước Nhật hùng cường ngày nay, chào đó như một tin vui lớn? Matthew C. Perry là một viên tướng xâm lược, năm 1853 được phái đến trước cảng Edo (tức Tokyo ngày nay) với cương vị Phó Đề Đốc Hải quân, chỉ huy một hạm đội hùng mạnh, mang theo bức thư của Tổng thống Hoa Kỳ Milliard Fillmore đòi Nhật Bản, thời bấy giờ đang triệt để thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng của chế độ Mạc phủ Tokugawa, phải mở cửa giao thương, hẹn một năm sau sẽ trở lại để thấy đòi hỏi được thực hiện. Nhưng rồi không chờ tới một năm, chỉ bảy tháng sau, đầu năm 1854, Perry đã quay lại, với hạm đội đông gấp đôi, lại có thêm liên quân hùng hổ của Anh, Pháp, Hà Lan, Nga…

Chúng ta nhớ một sự kiện gần như hoàn toàn tương tự đối với Việt Nam cũng đúng vào thời ấy. Đây là lúc chủ nghĩa tư bản phương Tây chen nhau đi tìm thị trường ở phương Đông. Hoa Kỳ, Anh, Hà Lan… thèm thuồng đổ vào Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản…

Pháp, chậm chân hơn, nhắm đến Việt Nam. Năm 1858, tức chỉ năm năm sau sự kiện Perry đến Edo, Đô Đốc hải quân Pháp Rigault de Genouilly, sau nhiều lần không thành công ở Trung Quốc, cho hạm đội chuyển hướng về Nam, ngày 30 tháng Tám đến cửa Đà Nẵng, gửi một tối hậu thư cho vua Tự Đức buộc mở cửa cho hạm đội của ông ta. Bị từ chối, hai ngày sau Genouilly nổ súng tấn công Đà Nẵng. Trên thành Điện Hải ở cửa Đà Nẵng, tướng Nguyễn Tri Phương, dưới sự chỉ đạo ráo riết của Tự Đức, tổ chức chống cự quyết liệt, buộc Genouilly phải bỏ Đà Nẵng, chuyển vào chiếm Sài Gòn và Nam Bộ, xong mới trở ra đánh chiếm Huế và Đà Nẵng. Và lần này thì triều đình Huế phải ký hiệp ước đầu hàng. Pháp thống trị Việt Nam, và cả Đông Dương từ đó, kéo dài gần một thế kỷ.

Trước nguy cơ sống còn đến từ phương Tây hai thế kỷ trước, Nhật Bản mà Fukuzawa Yukuchi là tiêu biểu, và Việt Nam mà Nguyễn Tri Phương với Tự Đức cũng có thể coi là tiêu biểu, đã có hai thái độ và hai cách ứng xử hoàn toàn đối nghịch. Một bên vũ trang chống cự quyết liệt và anh hùng. Một bên vui mừng chào đón như một vận may lớn… Tìm mua: Bàn Về Văn Minh TiKi Lazada Shopee

Tại sao?

Để hiểu rõ đôi chút những điều vừa nói, cần trở lại dù chỉ rất vắn tắt lịch sử và tình thế xã hội Nhật Bản hồi bấy giờ. Nhật Bản là một đất nước có lịch sử lâu dài. Thủ đô đầu tiên được thành lập tại Nara năm 710. Hoàng tộc, đứng đầu là Thiên hoàng, nổi lên khoảng năm 700, nhưng đến năm 1868 vẫn có uy tín cao nhưng thực tế còn rất ít quyền lực. Vào năm 1550, đất nước được chia thành vài trăm đơn vị kiểm soát tại địa phương, hoặc các khu vực thuộc quyền kiểm soát lãnh chúa, với lực lượng của riêng mình là các chiến binh samurai.

Tokugawa Ieyasu lên nắm quyền năm 1660, phong đất cho những người ủng hộ ông, thành lập Mạc phủ ở Tokyo, đàn áp các hoạt động Kito giáo và thực hiện chính sách “tỏa quốc”, cắt đứt gần như mọi tiếp xúc với thế giới bên ngoài… Đến giữa thế kỷ 19, sau hơn hai trăm năm thống trị, chế độ Mạc phủ lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Nhật Bản vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu dựa trên nền tảng phong kiến. Dân làm ruộng phải chịu tô thuế nặng, lại bị mất mùa, lâm cảnh bần cùng… Trong khi đó thương nghiệp lại bùng phát với lợi điểm hải cảng lớn, nhà buôn phát giàu nhanh chóng… Về mặt xã hội, Nhật Bản lúc bấy giờ vẫn duy trì chế độ đẳng cấp với quyền bính do các đại danh (daimyō) và võ sĩ (samurai) nắm cả… Giai cấp tư sản tư sản công thương nghiệp ngày càng giàu lên nhưng không có quyền lực về chính trị, lại bị đánh thuế nặng nên xung khắc với thống trị của Mạc phủ chuyên chế. Yêu cầu lật đổ Mạc phủ, cải cách xã hội bùng lên, nhưng còn chưa đủ sức…

Chính trong tình thế giằng co đó, “Phó Đề Đốc Perry đã đến”.

Mạc phủ Tukugawa phải ký nhiều điều ước rất bất lợi với các quốc gia phương Tây. Sau lời reo “May thay”, Fukuzawa viết: “Sự kiện này là một cơ hội tốt cho cải cách… người dân bắt đầu nhận ra chính sách của Mạc phủ nhu nhược và thiếu hiệu quả như thế nào.

Mặt khác, qua việc tiếp xúc trò chuyện với những người nước ngoài, đọc sách phương Tây và các bản dịch từ tiếng phương Tây, người dân hiểu được rằng, một chính quyền như Mạc phủ, kể cả có bạo ngược hung tàn đến mấy chăng nữa, sức người cũng hoàn toàn có thể đánh đổ được. Việc này cũng giống như thể một người điếc và mù lòa đột nhiên nghe rõ được âm thanh, nhìn thấy được ánh sáng.”

Như vậy đấy, nếu ở Việt Nam mối đe dọa đến từ phương Tây gây ra sự kháng cự bằng cả vũ trang, thì Nhật Bản lại tìm thấy cơ hội thức tỉnh để lật đổ chuyên chế kìm hãm, và cả ánh sáng của triển vọng phát triển thành văn minh, để giữ được độc lập. Hai lựa chọn khác nhau, sẽ đưa đến kết quả trái ngược.

Tuy nhiên, sự thức tỉnh không diễn ra đơn giản một chiều. Nó cần những bước rèn luyện dần từ tự phát cảm tính bồng bột ban đầu trở thành chuyển động căn bản của đất nước và xã hội, đầy ý thức, có thể làm thay đổi căn bản tình thế và vận mệnh dân tộc.

Sáng suốt và sâu sắc, Fukuzawa phân tích: “Kể từ thời lập quốc, đây là lần đầu tiên dân chúng trong nước tiếp xúc với người nước ngoài. Việc này cũng giống như thể đang từ trong màn đêm tịch mịch đột nhiên lọt vào giữa buổi trưa chói chang náo nhiệt; mọi thứ đập vào mắt họ đều kì quặc quái dị, chẳng có thứ gì mà họ ưa cho nổi.” Nên thoạt tiên trong dân chúng đã bùng phát một tình cảm và một phong trào bài ngoại triệt để. Fukuzawa gọi đó là kiểu “tinh thần yêu nước nhưng thô ráp” của “những con người chưa trưởng thành, nhưng khi sự phồn thịnh của tổ quốc đã trở thành mục đích của họ, họ trở thành những công dân hoàn toàn vì cái chung”. Trong lúc đó, Mạc phủ vì vai trò của mình, buộc phải đứng ra giao thiệp và nhượng bộ với nước ngoài. Càng khiến dân chúng phẫn nộ, Mạc phủ lâm vào tình thế lưỡng nan, bị kẹp vào giữa chủ trương bài ngoại và người nước ngoài. Phong trào bài ngoại ngày càng lớn, không còn gì ngăn cản nổi. Họ nêu khẩu hiệu “bài ngoại”, “phục cổ”, “tôn hoàng”, “đảo Mạc”. Cuộc cách mạng đánh đổ Mạc phủ, khôi phục vị trí của Thiên hoàng, mà Fukuzawa gọi là “nguyên nhân gần” của công cuộc Minh Trị Duy Tân, đã diễn ra như vậy. “Tuy vậy,” ông viết tiếp, “việc bài ngoại mà lẽ ra sẽ là việc tiếp theo ngay tức khắc sau thành công của công cuộc cách mạng [lật đổ Mạc phủ] đã không diễn ra”, bởi vì “cái đích [của cuộc cách mạng] ấy không phải là phục hồi vương quyền, cũng chẳng phải là bài ngoại. […] lý do của cuộc cách mạng không phải là vì Hoàng gia, và kẻ địch cũng không phải là Mạc phủ. Đây là cuộc chiến giữa trí lực [của giai cấp tư sản và nhân dân đang lên] và sự chuyên chế [của Mạc phủ kìm hãm]. Đó là nguyên nhân xa.” Nguyên nhân chính.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bàn Về Văn Minh PDF của tác giả Fukuzawa Yukichi nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Dẫn Luận Về Nietzsche (Michael Tanner)
Triết gia Đức Friedrich Nietzsche (1844-1900) là nhân vật mà tên tuổi vẫn được những người theo các quan điểm đa dạng và trái ngược nhất viện đến để tìm cách biện minh cho mình, những người tìm được nguồn cảm hứng từ các tác phẩm của ông, những người vô chính phủ, những nhà nữ quyền, những kẻ quốc xã, những người sùng bái tôn giáo, những người ăn chay, những nghệ sĩ tiền phong, những tín đồ của văn minh vật chất, những người bảo thủ và nổi loạn trong chính trị và triết học… nhưng danh sách này chắc chắn không dừng lại ở đó. Hầu như không có một nhân vật văn hóa hay nghệ thuật nào ở Đức và nói chung toàn bộ thế giới phương Tây trong chín mươi năm qua lại không thừa nhận đã chịu ảnh hưởng từ ông, kể từ Thomas Mann cho đến Jung và Heidegger. Trong Dẫn Luận Về Nietzsche, Michael Tanner đã trình bày một bức chân dung của triết gia lừng lẫy này với nhiều mảng sáng tối tương phản và gợi mở nhiều suy nghĩ về hành trạng con người ở thế kỷ của Nietzsche cũng như trong hiện tại. *** Triết gia người Đức Friedrich Nietzsche (1844-1900) gần như bị người đời làm ngơ trong những năm tháng khi ông còn khỏe mạnh, nhưng cuộc sống đó đã kết thúc đột ngột vào đầu năm 1889. ‘Nietzsche’ là nhân vật mà tên tuổi vẫn được những người theo các quan điểm trái ngược nhất viện đến để tìm cách biện minh cho mình. Một nghiên cứu xuất sắc về ảnh hưởng của ông ở nước Đức giữa những năm 1890 và 1990 (Aschheim, 1992) đã liệt kê những loại người tìm được nguồn cảm hứng từ các tác phẩm của ông, ‘những người vô chính phủ, các nhà nữ quyền, những kẻ quốc xã, những người sùng bái tôn giáo, những người xã hội chủ nghĩa, những người ăn chay, những nghệ sĩ tiền phong, những tín đồ của văn minh vật chất, những người bảo thủ và nổi loạn trong chính trị và triết học…’, nhưng danh sách chắc chắn không dừng lại ở đó. Hầu như không có một nhân vật văn hóa hay nghệ thuật Đức nào trong chín mươi năm qua lại không thừa nhận đã chịu ảnh hưởng từ ông, kể từ Thomas Mann cho đến Jung và Heidegger.Câu chuyện trong ‘Anglosaxony’, sử dụng thuật ngữ ở tiêu đề của một cuốn sách viết về ông, lần theo dấu vết ảnh hưởng của ông trong thế giới phương Tây nói tiếng Anh (Bridgwater, 1972), cũng không khác gì ở nước Đức. Những làn sóng của chủ nghĩa Nietzsche, lớp sau nối lớp trước, lan khắp thế giới phương Tây, cho dù có những giai đoạn bị đình hoãn, khi ông bị coi là người truyền cảm hứng cho chủ nghĩa quân phiệt Đức, và vì vậy bị phỉ báng tại các nước Đồng minh. Trong những năm đầu của thế kỷ 20, Nietzsche được dịch rất nhiều (và rất không chính xác) sang tiếng Anh, hay đúng hơn là một thứ ngôn ngữ xa lạ có liên hệ với nó. Tất cả cũng vì cái lối bắt chước cổ văn kì cục của nó, hoặc một phần là vì thế, mà đó là bản dịch duy nhất nhiều tác phẩm của Nietzsche trong gần năm mươi năm. Tìm mua: Dẫn Luận Về Nietzsche TiKi Lazada Shopee Thế rồi, khi tiếng tăm của Nietzsche ở Anh và Mỹ đã xuống đến mức thấp nhất thì Walter Kaufmann, một giáo sư triết học di cư tại Đại học Princeton, bắt đầu dịch lại nhiều tác phẩm quan trọng của ông. Kaufmann mở đầu công việc khó khăn này bằng một cuốn sách, mà trong nhiều năm kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1950, đã có ảnh hưởng quyết định đối với cách nhìn nhận về Nietzsche (Kaufmann, 1974). Kaufmann giới thiệu một triết gia là nhà tư tưởng theo kiểu truyền thống hơn là người truyền cảm hứng cho những kẻ vô chính phủ hay những người ăn chay… Công chúng ngạc nhiên, và không kém phần tán thành, Nietzsche hóa ra là một người hiểu lý lẽ, thậm chí còn là một nhà duy lý. Kaufmann tìm cách xác minh triệt để sự xa lạ của Nietzsche với những kẻ quốc xã, với tất cả những phong trào phản duy lý đã tuyên bố ông là nguồn cội của họ, và với chủ nghĩa lãng mạn trong nghệ thuật. Với bản dịch mới này, thật khó thấy tất cả những ồn ào đó là về cái gì. Vậy là bắt đầu việc nghiên cứu học thuật về Nietzsche, một triết gia trong số những triết gia khác, để so sánh và đối chiếu ông với Spinoza, Kant, Hegel, và những tên tuổi hàng đầu khác trong truyền thống triết học phương Tây. Được bảo chứng bởi sự uyên bác của Kaufmann, các triết gia Mỹ, và sau đó ngày càng nhiều các triết gia nói tiếng Anh, đã lấy ông làm điểm khởi đầu cho những nghiên cứu về Nietzsche của họ, về tính khách quan, bản chất của chân lý, mối quan hệ của Nietzsche với tư tưởng Hy Lạp, bản chất của tự ngã, và nhiều chủ đề khác, ở mọi mức độ như được xử lý trong các cuốn sách và bài báo của họ. Trong khi đó, tại châu Âu, nơi ông chưa bao giờ bị ghét bỏ, từ sau Thế chiến II, Nietzsche tiếp tục trở thành đối tượng nghiên cứu và chiếm hữu với các nhà hiện sinh, các nhà hiện tượng học, và sau đó, vào những năm 1960 và 1970, ngày càng trở thành trung tâm chú ý cho các nhà lý luận phê bình, các nhà hậu cấu trúc và giải cấu trúc. Khi hai phong trào sau lần đầu tiên đặt chân vào Mỹ, rồi bao trùm cả đất nước này, Nietzsche một lần nữa lại được công nhận là nguồn cảm hứng chính của họ. Một số triết gia phân tích cũng thấy ông không quá xa cách với những quan tâm của họ như họ vẫn tưởng, và theo cung cách có đi có lại đặc trưng cho cuộc sống học thuật, họ ca ngợi ông vì đã có, dưới dạng phôi thai, một số thấu thị của họ, đồng thời tự thuyết phục mình về những thấu thị này bằng cách cầu viện đến uy quyền của ông. Hiện ngành kinh doanh Nietzsche đang có chiều hướng phát đạt, và hầu như chắc chắn mỗi năm sách về ông xuất hiện nhiều hơn bất cứ một nhà tư tưởng nào khác, nhờ vào sức lôi cuốn của ông với quá nhiều trường phái tư tưởng và phản tư tưởng khác nhau. Chẳng ích gì để cho rằng Nietzsche sẽ không hài lòng chút nào với hiện tượng này. Trong suốt cuộc đời mình (và trừ khi được nói rõ, còn không tôi sẽ luôn có ý nói đến đoạn đời đã đột ngột kết thúc khi ông phát điên vào năm 1889, mười một năm trước khi qua đời), Nietzsche gần như hoàn toàn bị người đời làm ngơ. Và mặc dù chuyện đó cũng chẳng làm cho ông cay đắng thêm, vì hầu như không có gì làm được điều này, nhưng nó vẫn khiến ông đau đớn vì ông tin rằng mình có những chân lý sống còn để truyền đạt cho những người đương thời mà họ đã bỏ qua với cái giá khủng khiếp - một trong những lời tiên tri chính xác nhất của ông. Tuy nhiên, ông có thể khinh miệt nhìn vào hầu như tất cả mọi thứ được viết hoặc được làm dưới cái ô che chắn của ông, và việc tiếp quản thành công của thế giới học thuật, mặc dù không thể so sánh được về mức độ kinh dị với một số sự chiếm đoạt khác mà ông phải chịu đựng, với ông nó có vẻ rất giống với một thất bại chung cuộc, bởi vì bằng mọi giá ông không muốn bị đồng hóa với thế giới học thuật, nơi tất cả mọi thứ đều trở thành vấn đề để bàn cãi mà không có gì để hành động. Trước khi chuyển sang giải thích về những quan điểm của Nietzsche, cũng đáng cho chúng ta dừng lại một chút để tìm hiểu xem tác phẩm của ông có cái gì mà hấp dẫn đến thế với đủ loại phong trào và trường phái đa dạng. Chỉ sau này một câu trả lời rõ ràng hơn mới xuất hiện. Nhưng sơ bộ xem xét thì có vẻ như chính khí chất đặc biệt trong bút pháp là thứ đầu tiên làm người ta thấy thích thú. Những cuốn sách của ông sau các cuốn đầu tay Sự ra đời của bi kịch (The Birth of Tragedy) (1872) và Những suy ngẫm không đúng thời (Untimely Meditations) (1873-6), thường gồm các bài luận ngắn, thường dài không quá một trang và viết theo thể cách ngôn, mặc dù, như ta sẽ thấy, có sự khác biệt quan trọng với cách ngôn về cách chúng được sáng tác và đánh giá theo lối thông thường: tức là, những đoạn tóm lược gói gọn trong một hai dòng về bản chất của kinh nghiệm con người, buộc phải chấp nhận qua sự tin chắc như tạc bằng đá của chúng. Số lượng các chủ đề được thảo luận rất rộng lớn, bao gồm nhiều chủ đề mà thật đáng ngạc nhiên khi chúng được đề cập bởi một triết gia - những vấn đề như khí hậu, chế độ ăn uống, tập thể dục, và Venice. Và thường suy tư của ông không theo một trật tự đặc biệt nào. Điều đó có nghĩa là người ta có thể đọc lướt qua dễ dàng hơn nhiều so với hầu hết các triết gia khác, và sự ghét bỏ các hệ thống được ông thể hiện thường xuyên có nghĩa là người ta cũng có quyền làm như thế với ông mà không cảm thấy áy náy. Nhiều trong những thứ gần như cách ngôn của ông rất cấp tiến về mặt nội dung, và mặc dù người ta có lẽ chỉ có một ấn tượng mơ hồ về những gì ông ưu ái bênh vực, nhưng chắc chắn sẽ tìm ra rất nhiều điều ông không thích, hầu hết được thể hiện bằng lời lẽ vừa dí dỏm vừa cực đoan. Những gì ông dường như không thích là mọi khía cạnh của nền văn minh đương thời, đặc biệt nhất là văn minh của người Đức, và vì lớp độc giả bám lấy nó. Quan điểm cơ bản của ông là nếu không thực hiện một khởi đầu mới quyết liệt thì chúng ta sẽ diệt vong, vì chúng ta đang sống trong đống đổ nát của những ý tưởng cơ bản là sai lầm về hầu hết mọi thứ quan trọng trong hơn hai ngàn năm qua - trong sự suy đồi của những thứ bất luận thế nào cũng gây chết người - cung cấp tấm giấy khống chỉ (carte blanche) cho những ai ưa thích ý tưởng về một sự đoạn tuyệt hoàn toàn với toàn bộ di sản văn hóa thừa kế của họ. Nietzsche không hề ảo tưởng về tính chất bất khả thi của một sự đoạn tuyệt như thế. Mặc dù vậy, sự đa dạng trong những diễn giải về các tác phẩm của ông cần được giải thích thêm. Những diễn giải này thay vì ít dần đi sau vài thập kỷ, dường như lại được nhân lên, cho dù ít mang hình thức khải huyền hơn trước. Những người không chuyên môn có lẽ sẽ cho rằng Nietzsche phải đặc biệt mơ hồ, và có lẽ mâu thuẫn nữa. Ở đây có chút gì đó thuộc cả hai loại. Nhưng chúng có vẻ ấn tượng hơn và đáng chỉ trích hơn nếu như người ta không nhận ra và không lúc nào quên rằng, trong suốt mười sáu năm viết những tác phẩm trưởng thành, từ BT trở đi, ông đã phát triển quan điểm của mình với một tốc độ không ai sánh bằng, và rằng ông ít khi bận tâm đến việc chỉ ra sự thay đổi trong tư tưởng của ông. Điều ông thường làm hơn là cố gắng xem xét các tác phẩm trước đây của mình dưới một ánh sáng mới, khảo sát văn nghiệp của mình theo cách cho thấy ông từng nghĩ rằng không thể hiểu những tác phẩm sau này nếu không biết gì về những tác phẩm trước đây, để thấy ông đã thay đổi như thế nào; và do đó lấy chính mình làm hình mẫu về con người hiện đại, bị giam hãm trong văn hóa mục nát của thế kỷ 19, có thể chuyển từ phục tùng nó sang nổi loạn chống lại nó và gợi ý cho một sự chuyển đổi triệt để. Đặc biệt là vào năm 1886, khi ông đang tiến sát đến giai đoạn sáng tạo cuối cùng, mặc dù không biết điều đó, ông đã đổ rất nhiều công sức cho những cuốn sách đã viết trước đây, viết những lời giới thiệu mới cho chúng - đôi khi phê phán gay gắt - và trong trường hợp cuốn Hiểu biết vui vẻ (The Gay Science),ông còn viết mới thêm cả một phần cuối dài. Không nghi ngờ gì, đây là một phần trong dự định của ông để cho thấy rằng chẳng có gì trong quá khứ của người ta mà phải hối tiếc, rằng không có gì là phí phạm, nhưng nhiều nhà bình luận bị lạc lối vì ngạo mạn cho rằng điều đó cho phép họ xử lý tất cả các tác phẩm của ông như thể chúng được viết ra cùng một lúc. Một yếu tố khác dẫn đến những hiểu lầm và bóp méo là hậu quả của một thực tế rằng ngay từ năm 1872, có thể còn trước đó nữa, Nietzsche đã phải dành hầu hết thời gian để viết. Chỉ cần kiểm số đầu sách được xuất bản là đủ ấn tượng. Tuy nhiên, những ghi chép của ông ít nhất cũng nhiều như những gì được ông biên soạn thành các cuốn sách, và không may là nhiều trong số những văn bản chưa được công bố này (Nachlass) đã sống sót. Sẽ may mắn hơn nếu có một nguyên tắc phương pháp luận được chấp nhận phổ biến là những gì ông đã không xuất bản thì trong mọi trường hợp nên được phân ranh giới rõ ràng với những gì ông đã công bố, nhưng hầu như không ai tuân thủ cái nguyên tắc sơ đẳng đó cả. Ngay cả những người tuyên bố sẽ tuân thủ nguyên tắc đó cũng thường sa vào việc trích dẫn không ghi rõ nguồn lấy từ khối Nachlass khổng lồ ấy, khi chúng củng cố cho mạch tư tưởng mà họ đang nói về ông. Điều khiến cho nó là một cách làm việc đặc biệt nguy hiểm là ở chỗ với một số khái niệm trung tâm, trong đó Ý chí Quyền lực và Quy hồi Vĩnh cửu có lẽ là những khái niệm quan trọng nhất, thì tư tưởng của ông vẫn còn rất sơ khai. Nietzsche vẫn thường tin chắc là đã đào đúng mạch vàng triết học đến mức ông ghi lại rất nhiều suy nghĩ, nhưng để chúng dưới dạng chưa được triển khai. Điều này cung cấp cho nhà bình luận khả năng theo đuổi những ý tưởng được gán cho Nietzsche mà không bị cản trở bởi những phát biểu rõ ràng của ông. Một số người thậm chí còn đưa ra quan điểm cho rằng Nietzsche ‘thật sự’ phải được tìm trong các ghi chép, còn những công trình được xuất bản chỉ là một hình thức che giấu tinh vi. Thái độ vô lý đó được Heidegger thực hiện, và do đó ông ta có thể rao giảng triết lý riêng của mình như là được rút ra từ Nietzsche và cũng là sự phê phán triết học của Nietzsche. Cũng như tất cả các nhà bình luận khác về Nietzsche, thỉnh thoảng tôi cũng sẽ trích dẫn từ Nachlass, nhưng sẽ nói rõ khi làm điều đó. Nietzsche đã bỏ nhiều công sức cho hình thức hoàn thiện của những gì ông xuất bản, và ông là người cuối cùng nghĩ rằng phong cách chỉ là một lựa chọn phụ thêm. Vì ông là người chú trọng văn phong theo bản tính, những đoạn ghi nhanh của ông còn tao nhã hơn cả những tác phẩm đã hoàn thiện của hầu hết các triết gia. Nhưng một khi so sánh những tư tưởng được xuất bản của ông với phiên bản dự thảo về chúng, sự khác biệt là đủ ấn tượng để khiến cho bất cứ ai cũng phải thận trọng khi coi chúng như là những gì tương đương, như nhiều người có thể đã nghĩ. Tôi nhấn mạnh điểm này bởi vì, như ta sẽ thấy, chính việc nhào nặn những gì Nietzsche đã viết là một yếu tố quan trọng trong việc tạo ra huyền thoại về ông. Không có gì trong số này giải thích một cách thỏa đáng làm thế nào mà Nietzsche lại có thể được miêu tả như Người Sầu Bi, hoặc trong nhiều vỏ bọc khác. Vì tất cả sự mơ hồ và thiếu cẩn thận của ông trong việc xác định một tư tưởng, người ta có thể nghĩ là có những giới hạn đối với mức độ xuyên tạc có thể xảy ra. Tất cả những gì tôi có thể nói một cách cẩn trọng là ở đây hiển nhiên không thấy có một giới hạn nào cả. Nếu một ai đó có được một danh tiếng rộng rãi như danh tiếng mà ông nhanh chóng có được, một khi ông không còn có thể làm bất cứ điều gì về nó nữa, thì có vẻ như ông sẽ bị lợi dụng không ngần ngại để cung cấp chứng chỉ cho bất kỳ phong trào cần đến một biểu tượng. Ở đây, cũng như trong một số vấn đề khác, ông đã, với sự mỉa mai lạ lùng, trở nên giống như nhân vật đối lập hoàn toàn của mình, ‘một kẻ bị đóng đinh câu rút’. Hầu như những lời cuối cùng ông viết là, ‘Tôi có bổn phận chống lại cái là thói quen của tôi, thậm chí còn hơn niềm tự hào về bản năng, sự nổi loạn tận cùng: Hãy lắng nghe tôi! Vì tôi là thế đấy. Và trên hết, đừng lầm tôi với những gì không phải tôi! (EH, Lời nói đầu, 1). Trong suốt một thế kỷ kể từ khi ông viết những lời này, ít ai trong số những độc giả của ông, và những người đã nghe nói về ông thì còn ít hơn nữa, đã làm bất cứ điều gì khác.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Dẫn Luận Về Nietzsche PDF của tác giả Michael Tanner nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Da Thịt Trong Cuộc Chơi (Nassim Nicholas Taleb)
Một công trình mới đầy táo bạo từ tác giả Thiên nga đen, thách thức những quan điểm truyền thống của chúng ta về rủi ro và phần thường, chính trị và tôn giáo, tài chính và trách nhiệm cá nhân. Trong cuốn sách mới nhất này thuộc bộ INCERTO (Tính bất định), Taleb, một trong những tư tưởng gia hàng đầu của thời đại chúng ta, chỉ ra một lối tư duy mới mẻ, độc đáo, và thiết thực để tìm hiểu thế giới, thành công trong công việc, đóng góp xây dựng một xã hội công bằng, phát hiện ra những điều ngớ ngẩn, và tạo ảnh hưởng tới người khác. Với nguồn dẫn chứng vô cùng phong phú, cả về chiều rộng địa lý lẫn chiều dài thời gian, từ Hammurabi tới Seneca, từ Thần Ăng-tê trong truyền thuyết cho đến Donald Trump ở thời hiện đại, Nassim Nicholas Taleb đã chỉ ra rằng thái độ sẵn sàng chấp nhận rủi ro cá nhân là một thuộc tính không thể thiếu của các vị anh hùng, các vị thánh, đồng thời giúp phát triển xã hội con người.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Da Thịt Trong Cuộc Chơi PDF của tác giả Nassim Nicholas Taleb nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Da Thịt Trong Cuộc Chơi (Nassim Nicholas Taleb)
Một công trình mới đầy táo bạo từ tác giả Thiên nga đen, thách thức những quan điểm truyền thống của chúng ta về rủi ro và phần thường, chính trị và tôn giáo, tài chính và trách nhiệm cá nhân. Trong cuốn sách mới nhất này thuộc bộ INCERTO (Tính bất định), Taleb, một trong những tư tưởng gia hàng đầu của thời đại chúng ta, chỉ ra một lối tư duy mới mẻ, độc đáo, và thiết thực để tìm hiểu thế giới, thành công trong công việc, đóng góp xây dựng một xã hội công bằng, phát hiện ra những điều ngớ ngẩn, và tạo ảnh hưởng tới người khác. Với nguồn dẫn chứng vô cùng phong phú, cả về chiều rộng địa lý lẫn chiều dài thời gian, từ Hammurabi tới Seneca, từ Thần Ăng-tê trong truyền thuyết cho đến Donald Trump ở thời hiện đại, Nassim Nicholas Taleb đã chỉ ra rằng thái độ sẵn sàng chấp nhận rủi ro cá nhân là một thuộc tính không thể thiếu của các vị anh hùng, các vị thánh, đồng thời giúp phát triển xã hội con người.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Da Thịt Trong Cuộc Chơi PDF của tác giả Nassim Nicholas Taleb nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cuộc Đời Của Lenin (Maria Prilezhayeva)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cuộc Đời Của Lenin PDF của tác giả Maria Prilezhayeva nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.