Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Câu Chuyện Dòng Sông (Hermann Hesse)

Cạnh những con thuyền, dưới ánh nắng ven sông, trong bóng cây cổ thụ và trong khu rừng vàng nhạt,

Tất Đạt, người con trai Bà La Môn đĩnh ngộ ấy đang lớn lên cùng bạn chàng là Thiện Hữu. Nắng nhuộm màu “bồ quân” đôi vai thon đẹp khi chàng tắm lễ “thánh tẩy”. Mắt chàng thoáng những nét trầm tư mỗi lúc chàng dạo chơi trong khu rừng xoài, khi nghe mẹ hát, trong những buổi học với cha, hay khi chuyện trò cùng những người thức giả. Tất Đạt từ lâu đã sớm dự phần trong các cuộc đàm luận của những bậc tri thức, thường tranh biện với Thiện Hữu và cùng bạn thực tập suy tư quán tưởng. Chàng có thể đọc tiếng “Om”* trong im lặng - nói tiếng ấy trong tâm khi thở vào và thở ra, với tất cả tâm hồn, vầng trán chàng chói ngời tia sáng trí tuệ.

Cha chàng rất sung sướng vì con thông minh và khát khao hiểu biết. Ông tin tưởng chàng sẽ lớn lên thành một học giả, một mục sư, một hoàng tử trong giới Bà La Môn.

Mẹ chàng đầy kiêu hãnh khi nhìn con đi, đứng, khoẻ mạnh, xinh đẹp, dẻo dai. Tất Đạt chào mẹ với một dáng điệu nho nhã.

Và mỗi khi Tất Đạt dạo bước qua phố phường, với vầng trán cao, đôi mắt vương giả, dáng điệu thanh tao, thì những cô gái Bà La Môn bỗng nghe lòng rộn lên một niềm yêu thương rào rạt. Tìm mua: Câu Chuyện Dòng Sông TiKi Lazada Shopee

Thiện Hữu bạn chàng, con một người Bà La Môn, yêu chàng hơn ai hết. Chàng yêu đôi mắt và giọng nói trong trẻo của Tất Đạt. Chàng yêu dáng đi của Tất Đạt, cử động của chàng. Chàng yêu tất cả những điều Tất Đạt làm và nói, và trên tất cả, chàng yêu kiến thức của Tất Đạt, những tư tưởng đẹp đẽ và đầy nhiệt tình, ý chí mạnh mẽ và thiên tính cao vời của chàng. Thiện Hữu biết rằng chàng trai kia sẽ không trở thành một người Bà La Môn tầm thường, một người hành lễ tế thần biếng nhác, một kẻ ham nói phù chú, một người hùng biện khoác lác, một mục sư xảo quyệt, hay chỉ một con chiên ngoan ngớ ngẩn giữa đàn chiên đông. Không, và chính chàng, Thiện Hữu cũng không muốn trở thành một Bà La Môn như trăm ngàn Bà La Môn khác. Chàng muốn theo Tất Đạt, con người khả ái tuyệt vời kia. Vì nếu Tất Đạt có ngày trở thành một vị chúa tể, nếu có một ngày chàng bước vào cõi quang minh, thì lúc ấy Thiện Hữu muốn theo chàng như bạn chàng, như người tôi tớ của chàng, như cái bóng của chàng.

Mọi người đều yêu quí Tất Đạt như thế. Chàng làm cho họ vui vẻ hạnh phúc. Nhưng chính chàng, Tất Đạt, lại không hạnh phúc. Lúc lang thang dọc những con đường hồng trong vườn, khi ngồi trầm tư trong bóng xanh nhạt của cụm rừng, khi rửa đôi chân trong buổi thánh tẩy với tư thái đầy trang nghiêm, đâu đâu chàng cũng được mọi người quí trọng và là nguồn vui cho tất cả. Tuy thế thâm tâm chàng lại không được yên vui. Mộng ảo và những suy tư khắc khoải dồn vào tâm tưởng chàng từ khúc sông cuồn cuộn, từ những vì sao lấp lánh, từ ánh mặt trời chan hoà. Mộng tưởng và vọng động xâm chiếm chàng, dâng lên từ làn khói của những cuộc tế thần, phát ra từ những thánh thi tuôn tràn từ những giáo lý của các vị Bà La Môn.

Tất Đạt bắt đầu thấy những hạt giống khổ đau trong chàng. Chàng bắt đầu cảm thấy tình thương của song thân cũng như tình thương của Thiện Hữu không thể cho chàng hạnh phúc bình an, không thể thoả mãn chàng. Chàng bắt đầu ngờ rằng phụ thân đáng kính của chàng và các sư phụ khác, những vị Bà La Môn thông thái đã truyền hết cho chàng những tri kiến của họ rồi, tất cả kiến thức của họ đã trút vào túi khôn của chàng rồi. Nhưng túi khôn không đầy, trí năng chàng không thoả mãn, linh hồn chàng không bình yên và con tim không an nghỉ. Nước tịnh thuỷ tắm hàng ngày thật tốt, nhưng đây cũng chỉ là nước, không thể rửa sạch tội lỗi, không làm vơi bớt khổ đau của tâm hồn. Những cuộc tế thần và khấn nguyện cùng Thượng đế thật là tuyệt diệu, nhưng đấy phải chăng là tất cả... Và thần linh ấy là gì... Có phải thật là đấng sáng tạo ra thế giới... Không phải rằng linh hồn duy nhất đã tạo ra vũ trụ hay sao... Và thần linh phải chăng là những hình thái được tạo dựng như tôi và người, những sinh vật phù du... Và như thế phải chăng rất nên dâng lễ cho các thần linh... Và ta phải dâng cúng lễ vật cho ai nữa, phải kính nể ai nữa nếu không phải thần linh. Linh hồn duy nhất... Và linh hồn ở đâu, trái tim bất diệt ở đâu, nếu không phải Tự ngã, trong phần thâm sâu, bất diệt mà mỗi người đều mang sẵn... Nhưng đâu là Tự ngã ấy, phần thâm sâu ấy...

Đấy không phải là thịt xương, cũng không phải tư tưởng hay ý thức. Những người trí thức đều dạy chàng như thế. Vậy thì nó ở đâu... Đi tìm Tự ngã, Linh hồn ấy, có nơi nào khác đáng đặt chân không... Không ai chỉ đường, vì không ai biết, từ cha chàng, thầy chàng, những bậc thức giả cho đến những bài thánh thi.

Những người Bà La Môn và những thánh kinh của họ biết hết về mọi sự, họ đã đi sâu vào mọi vấn đề - sự tạo thiên lập địa, nguồn gốc của ngôn ngữ, thức ăn, hơi thở vào, thở ra, sự sắp đặt của những giác quan, hành động của những thần linh. Họ thông thạo vô số vấn đề - nhưng có bỏ công không, nếu họ không thấu hiểu vấn đề quan trọng độc nhất...

Nhiều câu thơ của thánh kinh nhất là Áo Nghĩa Thư - có nói về cái thâm sâu ấy. Kinh chép rằng: “Linh hồn mi là cả vũ trụ”. Khi một người ngủ, người ấy đi vào trong phần thâm sâu của mình va an trú trong linh hồn. Những câu thơ này chứa đựng một trí tuệ tuyệt diệu, mọi hiểu biết của thánh hiền đã diễn tả đầy trong ngôn ngữ diễm lệ, trong trẻo như mật hoa mà những con ong hút được. Không, vốn liếng tri thức to tát ấy, đã được bao thế hệ kế tiếp của những người hiền triết Bà La Môn kết tập duy trì, không thể nào dễ khinh thường. Nhưng đâu là những người Bà La Môn, mục sư, hiền triết đã thành công - không những trong sự nắm vững được tri thức sâu xa nhất này mà còn trong sự chứng nghiệm tri thức ấy... Đâu là người đã được điểm đạo để có thể, khi đạt đến linh hồn trong giấc ngủ, giữ linh hồn ấy lại trong trí thức, trong đời sống, khắp nơi, trong ngôn ngữ và hành động hàng ngày... Tất Đạt quen biết rất nhiều vị Bà La Môn đáng kính, nhất là cha chàng, một người thánh thiện, thông thái và được quí trọng. Cha chàng thật đáng kính phục với phong độ trầm tĩnh uy nghi. Ông sống một đời sống tốt đẹp, lời nói thì khôn ngoan, tư tưởng thì thanh cao, tế nhị - nhưng cả đến ông ta, người biết nhiều như thế, ông ta sống có hạnh phúc chăng... Có được bình an chăng... Ông ta lại không là người không ngớt tìm kiếm đó sao... Ông lại không liên tục tìm đến nguồn với cơn khát không bao giờ được thoả mãn, đến những cuộc tế thần, hay tìm đến sách vở và những cuộc luận đàm của dòng Bà La Môn đấy hay sao... Tại sao cha, người không có lỗi lầm ấy, phải rửa sạch tội lỗi và ráng sức tẩy mình mỗi ngày... Thế thì linh hồn không có ở trong cha hay sao...

Nguồn suối không có sẵn trong chính tâm ông sao... Người ta phải tìm thấy nguồn ở ngay trong tự thân mình, phải chiếm hữu nó. Mọi việc làm khác đều là mò mẫm sai lầm.

Đấy là những suy tư của Tất Đạt, nỗi khát khao của chàng, nỗi sầu muộn của chàng.

Chàng nhẩm lại với mình những lời trong quyển thánh kinh: “Thật ra tên của Đại ngã là chân lý. Thật vậy, ai biết điều này sẽ đi vào thế giới thần tiên mỗi ngày”. Thế giới thần tiên ấy có vẻ như gần, nhưng chưa bao giờ chàng hoàn toàn đạt đến nó thật sự, chưa bao giờ chàng thoả mãn được nỗi khát khao to lớn nhất. Và trong số những bậc hiền triết mà chàng quen biết và nghiền ngẫm lời dạy, cũng không có một ai hoàn toàn đạt đến cõi ấy - thế giới thần tiên. Không một ai giải thích được niềm khát khao tối hậu.

- Thiện Hữu, Tất Đạt nói với bạn, bạn hãy đi cùng tôi lại cây bàng kia. Chúng ta hãy tập thiền quán.

Họ đến cây bàng và ngồi cách nhau hai chục bước. Khi chàng ngồi, sẵn sàng đọc chữ “Om”, Tất Đạt lẩm nhẩm đọc câu thơ: “Om là chiếc cung, mà tên là linh hồn. Thượng đế, là đích mũi tên. Ở đó người nhắm đến không lay chuyển”.

Khi giờ tập toạ thiền ấy đã qua, Thiện Hữu đứng dậy. Trời đã về chiều. Ấy là giờ thánh tẩy buổi chiều.

Thiện Hữu gọi tên bạn, nhưng Tất Đạt không trả lời. Chàng ngồi đăm chiêu, đôi mắt chú mục như hướng về một cõi xa xăm, đầu lưỡi hơi lộ ra giữa hai hàm răng bầu biếc. Chàng không có vẻ như đang hô hấp; chàng ngồi như thể mất hút trong quán tưởng, nghĩ “Om”, linh hồn như mũi tên hướng về Đại ngã, Thượng đế.

Một ngày kia, vài vị Sa Môn đi qua thành phố của Tất Đạt. Là những người khổ hạnh lang thang, họ gồm ba người đã gầy mòn, không già không trẻ, đôi vai đầy bụi và rướm máu, gần như trần trụi, thân thể rám nắng, họ có vẻ cô đơn lạ lùng và tương phản với thế giới loài người. Xung quanh họ bao phủ một làn không khí của lòng say mê tận tuỵ và xã kỷ không chút tiếc thương.

Chiều ấy sau giờ quán tưởng, Tất Đạt nói với bạn: “Ngày mai tôi sẽ đi theo những vị Sa Môn. Tất Đạt sẽ trở thành Sa Môn như họ”. Thiện Hữu choáng váng khi nghe những lời nói ấy và đọc niềm cương quyết trên nét mặt cương nghị của bạn, một niềm cương quyết không chuyển hướng tợ mũi tên phóng khỏi tầm cung. Khi nhìn nét mặt bạn, Thiện Hữu nhận rõ ngay giờ đã đến; Tất Đạt sắp bước lên đường chọn lựa; định mệnh chàng bắt đầu ló dạng và cùng với định mệnh Tất Đạt, định mệnh Thiện Hữu cũng theo cùng. Và mặt Thiện Hữu bỗng tái xanh như tàu lá, chàng kêu lên:

- Ồ! Tất Đạt! Liệu phụ thân anh có cho phép chăng...

Tất Đạt nhìn bạn như một người tỉnh giấc. Nhanh như chớp chàng đọc thấu tâm can bạn, nỗi lo âu, lòng tùng phục.

- Đừng phí lời, Thiện Hữu - Chàng khẽ nói. Ngày mai, lúc rạng đông tôi sẽ bắt đầu đời sống Sa Môn.

Chúng ta đừng thảo luận chuyện ấy nữa.

Tất Đạt bước vào phòng khi cha đang ngồi trên một tấm đệm. Chàng tiến đến sau lưng cha và đứng lặng cho đến khi cha biết có chàng.

- Con đấy ư, Tất Đạt... Ông hỏi. Cứ nói lên cho cha nghe những gì con đang nghĩ.

- Thưa cha, nếu cha cho phép, con đến thưa cha rằng con muốn rời nhà ngày mai, để đi theo những người khổ hạnh. Con muốn trở thành một vị Sa Môn. Con tin rằng cha sẽ không ngăn cản.

Người hiền triết Bà La Môn lặng im rất lâu, lâu quá đến nỗi khi những vì sao đã lạc qua song cửa nhỏ và chuyển hướng, sự im lặng trong gian phòng mới được đánh tan. Người con đứng lặng, hai vòng tay khép chặt. Người cha cũng bất động ngồi trên chiếc thảm. Những ngôi sao băng qua nền trời. Rồi ông bảo:

- Không lẽ cha, một người tu đạo lại thốt lời giận dữ hùng hổ, nhưng cha rất bất bình. Cha không muốn con lặp lại lời xin ấy một lần nữa.

Bậc hiền nhân từ từ đứng lên. Tất Đạt vẫn khoanh tay đứng lặng.

- Tại sao còn đợi đấy... Cha chàng hỏi.

- Cha cũng hiểu tại sao rồi. Chàng đáp.

Người cha rời phòng, bất mãn và đi nằm.

Khi đã một giờ trôi qua không ngủ được, vị hiền nhân đứng dậy, đi bách bộ ra khỏi nhà. Ông nhìn qua cửa sổ nhỏ và thấy Tất Đạt vẫn đứng khoanh tay bất động. Ông có thể thấy chiếc áo nhạt của chàng thấp thoáng. Tâm hồn bất an, người cha trở về giường nằm. Một giờ nữa lại trôi qua, ông không ngủ được, lại trở dậy đi bách bộ, ra khỏi nhà và thấy trăng đã lên. Ông nhìn qua cửa sổ. Tất Đạt còn đứng đấy bất động, vòng tay vẫn khép; mảnh trăng chiếu sáng trên chân chàng. Người cha đi ngủ, lòng xao xuyến.

Một giờ sau ông trở ra và hai giờ sau ra lại, nhìn qua cửa sổ thấy Tất Đạt vẫn còn đứng đó trong ánh trăng, trong ánh sao, trong đêm tối. Ông yên lặng trở lại hàng giờ, và vẫn thấy Tất Đạt đứng đấy bất động. Lòng ông tràn ngập giận, lo, sợ và buồn.

Vào giờ cuối đêm, trước bình minh, người cha trở lại, đi vào phòng và thấy đứa con niên thiếu vẫn còn đứng.

Ông trông thấy dáng chàng cao xa lạ với mình. Ông gọi:

- Này Tất Đạt, sao con còn đợi kia...

- Cha đã biết tại sao.

- Con có đợi được đến mai, trưa, chiều hay không...

- Con sẽ đứng và đợi.

- Con sẽ mệt mỏi, Tất Đạt...

- Con không mệt mỏi.

- Con sẽ buồn ngủ, Tất Đạt...

- Con sẽ không buồn ngủ.

- Con sẽ chết, Tất Đạt...

- Con sẽ chết.

- Và con thà chết còn hơn là nghe lời cha con...

- Con luôn luôn nghe lời cha.

- Vậy thì con hãy bỏ ý định của con đi...

- Con sẽ làm những gì cha dạy bảo.

Ánh sáng đầu tiên của ngày lan vào phòng. Người Bà La Môn trông thấy hai đầu gối của Tất Đạt run nhẹ, nhưng gương mặt chàng bình thản, đôi mắt nhìn vô tận. Người cha nhận ra rằng Tất Đạt không thể ở lại với mình lâu hơn - rằng Tất Đạt sắp rời bỏ mình. Ông đặt tay lên vai Tất Đạt và bảo:

- Con sẽ đi vào rừng làm thầy Sa Môn. Nếu con tìm thấy hạnh phúc trong rừng sâu, hãy trở về và chỉ lại cho ta. Nếu con thấy đấy chỉ là ảo tưởng, hãy trở về, và chúng ta sẽ lại cúng tế các thần linh. Bây giờ hãy hôn mẹ con và thưa lại cho mẹ hay nơi con đến. Còn ta đã đến giờ ra sông làm lễ thánh tẩy.

Ông buông vai Tất Đạt và ra đi. Tất Đạt lảo đảo bước. Chàng cố gượng cúi chào cha và tìm mẹ theo lời cha dặn.

Khi Tất Đạt rời châu thành yên tĩnh đang say ngủ vào lúc rạng đông với đôi chân tê cóng, một bóng người âm thầm xuất hiện từ căn lều cuối cùng và theo dõi chàng. Đó là Thiện Hữu. Tất Đạt mỉm cười.

- Bạn đến đấy à!

-

Tôi vừa đến. Thiện Hữu trả lờiDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Hermann Hesse":Câu Chuyện Dòng SôngẢo HóaĐâu Mái Nhà XưaĐôi Bạn Chân TìnhMối Tình Của Chàng Nhạc SĩNarcisse Và GoldmundNhà Khổ Hạnh Và Gã Lang ThangTuổi Trẻ Băn Khoăn

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Câu Chuyện Dòng Sông PDF của tác giả Hermann Hesse nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Cái Cười Của Thánh Nhân (Nguyễn Duy Cần)
Cái cười của thánh nhân Trào Lộng U Mặc Là Gì? Cái Cười Của Thánh Nhân Nguyễn Duy Cần Phần Một Tìm mua: Cái Cười Của Thánh Nhân TiKi Lazada Shopee Trào Lộng U Mặc Là Gì? Một nhà văn tây phương có viết: "Tình yêu là một vị thần bất tử, U mặc là một lợi khí, Cười là một sự bổ ích. Không có ba cái đo,ù không đủ nói đến văn hóa toàn diện" Cười đùa quả là một sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều khiển uốn nắn... đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn... mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác... theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay! Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống theo ý mình... đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào. Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã "cười to" với câu nói bất hủ này: "Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao nhiêu tội ác!" Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu "u mặc đại sư" có nói: "U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện". U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã hội mà đời nào cũng tự do là "văn minh nhất" lịch sử! Nhà văn Georges Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời. Nhà văn họ Lâm cho rằng: "Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái "trống không" của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên: Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế... Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi! Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc. Nhưng phải đợi đến nhân vật chủ não là Trang Châu xuất hiện, mới có được một thứ văn chương nghị luận ngang dọc... mở ra cho người đời một thứ tư tưởng và văn học u mặc hẳn hòi. Trang Tử là thủy tổ của văn học Trung Hoa. Các tung hành gia như Quỷ Cốc Tử, Thuần Vu Khôn... điều là những nhà hùng biện trào lộng thật, nhưng vẫn chưa kịp phong thái u mặc thượng thừa của Trang Châu... Nền văn Trung Hoa với "bách gia chư tử" đã phát triển rất mạnh. Người ta nhận thất rõ ràng có hai luồng tư tưởng khác nhau xuất hiện: Phái cẩn nguyện (Lấy lễ, nhạc, trang nghiêm, cung kính và nghị luận tuyệt đối một chiều làm chủ yếu), và phái siêu thoát (lấy tự do phóng túng, trào lộng u mặc, nghị luận dọc ngang làm yếu chỉ). Trong khi phái cẩn nguyện cúc cung tận tụy phó vua giúp nước, chăm chăm lấy sự "sát thân thành nhân", "lâm nguy bất cụ" làm lẽ sống, nhưng nhóm đồ đệ của Mặc Địch hay nhóm cân đai áo mão đồ đệ của Khổng Khâu, thì phái siêu thoát lại cười vang... cho bọn khép nép chầu chực ở sân rồng còn kém xa "loài heo tế", hoặc già như nhóm đồ đệ của Dương Chu, nhổ một sợi lông chân mà đổi lấy thiên hạ cũng không thèm, hoặc coi nhân nghĩa như giày dép rách, xem lễ là đầu mối của loạn ly trộm cướp... Phái Nho gia có thuyết tôn quân nên bị nhà cầm quyền khai thác lợi dụng, nhân đó mà có bọn hủ nho xuất hiện, được nhóm vua chúa nâng đỡ đủ mọi phương tiện. Nhưng, dù bị đàn hạc, bị bức bách đủ mọi hình thức, văn học u mặc chẳng nhưng không bị tiêu diệt lại còn càng ngày càng mạnh. Đúng như lời Lão Tử: "Tương dục phế chi, tất cố hưng chi". Cũng như văn trào lộng của nước Pháp ở thế kỷ mười tám sở dĩ được phát đạt một thời với những ngòi bút trào lộng bất hủ của Voltaire và Rousseau, phải chăng là "nhờ" nơi cái nhà ngục Bastille mà được vừa tế nhị, vừa rực rỡ! "Họa chung hữu phúc" là vậy! Nguồn tư tưởng phóng khoáng của Đạo gia quá to rộng như đại dương, không sao đụng được trong những ao tù nhỏ hẹp, nó vượt khỏi thời gian không gian, ôm chầm vũ trụ, siêu thoát Âm Dương... không ai có thể lấy ngao mà lường biển. Cho nên tư tưởng Trung cổ về sau, dù đại thế của Nho gia được đề cao và chiếm địa vị độc tôn, cũng không làm sao ngăn trở nó được. Văn khí của u mặc hồn nhiên mạnh mẽ như giông to gió lớn, trước nó không một chướng ngại vật nào có thể đứng vững. Huống chi người Trung Hoa trí thức nào cũng có hai tâm hồn: Bên ngoài là một ông Khổng, bên trong là một ông Lão. Nho Lão cùng ở trong một người mà không bao giờ nghịch nhau. Hạng trung lưu, không một người Đông phương nào, cả Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam mà đọc lên bài "Quy khứ lai từ" của Đào Uyên Minh lại không biết thích thú, nhất là hạng người say mê trong con đường nhập thế. Ngày có làm, thì đêm phải có nghĩ, đó là định luật của thiên nhiên: "Nhật hạp nhật tịch vị chi biến". Văn học u mặc là "mở", văn học cẩn nguyện là "đóng", nghĩa là khép kính trong vòng tiểu ngã, trong các giáo điều luân lý tôn giáo, nguồn gốc sinh ra không biết bao nhiêu việc nhỏ nhen ích kỷ và giả dối. Văn học Trung Hoa, ngoài thứ văn học lăng miếu trong triều đình không kể, còn điều là thứ văn học rất đắc thế cho tư tưởng u mặc. Văn học trong miếu, thực ra, chưa đáng kể là văn học, vì nền văn học có linh tính chân thật phải đi sâu vào tâm tư con người để khám phá và cởi mở những khác vọng thầm kính của nó mà ước lệ giả tạo của xã hội cấm đoán. Để hòa đồng với thiên nhiên phải tránh xa lối văn nhân tạo. Đó là đặc điểm đầu tiên của u mặc. Ở Trung Hoa, nếu chỉ có nền văn học cẩn nguyện của Nho gia đạo thống mà thiếu nền văn học u mặc của Đạo gia, không biết văn học Trung Hoa sẽ cằn cõi khô khan đến bậc nào, tâm linh người Trung Hoa sẽ sầu khổ héo hắt đến chừng nào! Nhận xét trên đây của nhà văn họ Lâm rất đúng, không riêng gì cho Trung Hoa mà cho tất cả mọi nền văn học trên khắp địa cầu. Nhà văn Chamfort có viết: "Triết lý hay nhất là hỗn hợp được sự vui đời mà trào lộng chua cay với sự khinh đời mà độ lượng khoan hòa"Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Duy Cần":Lão Tử Đạo Đức KinhLão Tử Tinh HoaThuật Xử Thế Của Người XưaCái Dũng Của Thánh NhânCái Cười Của Thánh NhânTinh Hoa Đạo Học Đông PhươngTrang Tử Và Nam Hoa KinhDịch Học Tinh HoaPhật Học Tinh HoaToàn Chân Triết LuậnĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cái Cười Của Thánh Nhân PDF của tác giả Nguyễn Duy Cần nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cái Cười Của Thánh Nhân (Nguyễn Duy Cần)
Cái cười của thánh nhân Trào Lộng U Mặc Là Gì? Cái Cười Của Thánh Nhân Nguyễn Duy Cần Phần Một Tìm mua: Cái Cười Của Thánh Nhân TiKi Lazada Shopee Trào Lộng U Mặc Là Gì? Một nhà văn tây phương có viết: "Tình yêu là một vị thần bất tử, U mặc là một lợi khí, Cười là một sự bổ ích. Không có ba cái đo,ù không đủ nói đến văn hóa toàn diện" Cười đùa quả là một sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều khiển uốn nắn... đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn... mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác... theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay! Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống theo ý mình... đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào. Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã "cười to" với câu nói bất hủ này: "Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao nhiêu tội ác!" Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu "u mặc đại sư" có nói: "U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện". U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã hội mà đời nào cũng tự do là "văn minh nhất" lịch sử! Nhà văn Georges Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời. Nhà văn họ Lâm cho rằng: "Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái "trống không" của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên: Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế... Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi! Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc. Nhưng phải đợi đến nhân vật chủ não là Trang Châu xuất hiện, mới có được một thứ văn chương nghị luận ngang dọc... mở ra cho người đời một thứ tư tưởng và văn học u mặc hẳn hòi. Trang Tử là thủy tổ của văn học Trung Hoa. Các tung hành gia như Quỷ Cốc Tử, Thuần Vu Khôn... điều là những nhà hùng biện trào lộng thật, nhưng vẫn chưa kịp phong thái u mặc thượng thừa của Trang Châu... Nền văn Trung Hoa với "bách gia chư tử" đã phát triển rất mạnh. Người ta nhận thất rõ ràng có hai luồng tư tưởng khác nhau xuất hiện: Phái cẩn nguyện (Lấy lễ, nhạc, trang nghiêm, cung kính và nghị luận tuyệt đối một chiều làm chủ yếu), và phái siêu thoát (lấy tự do phóng túng, trào lộng u mặc, nghị luận dọc ngang làm yếu chỉ). Trong khi phái cẩn nguyện cúc cung tận tụy phó vua giúp nước, chăm chăm lấy sự "sát thân thành nhân", "lâm nguy bất cụ" làm lẽ sống, nhưng nhóm đồ đệ của Mặc Địch hay nhóm cân đai áo mão đồ đệ của Khổng Khâu, thì phái siêu thoát lại cười vang... cho bọn khép nép chầu chực ở sân rồng còn kém xa "loài heo tế", hoặc già như nhóm đồ đệ của Dương Chu, nhổ một sợi lông chân mà đổi lấy thiên hạ cũng không thèm, hoặc coi nhân nghĩa như giày dép rách, xem lễ là đầu mối của loạn ly trộm cướp... Phái Nho gia có thuyết tôn quân nên bị nhà cầm quyền khai thác lợi dụng, nhân đó mà có bọn hủ nho xuất hiện, được nhóm vua chúa nâng đỡ đủ mọi phương tiện. Nhưng, dù bị đàn hạc, bị bức bách đủ mọi hình thức, văn học u mặc chẳng nhưng không bị tiêu diệt lại còn càng ngày càng mạnh. Đúng như lời Lão Tử: "Tương dục phế chi, tất cố hưng chi". Cũng như văn trào lộng của nước Pháp ở thế kỷ mười tám sở dĩ được phát đạt một thời với những ngòi bút trào lộng bất hủ của Voltaire và Rousseau, phải chăng là "nhờ" nơi cái nhà ngục Bastille mà được vừa tế nhị, vừa rực rỡ! "Họa chung hữu phúc" là vậy! Nguồn tư tưởng phóng khoáng của Đạo gia quá to rộng như đại dương, không sao đụng được trong những ao tù nhỏ hẹp, nó vượt khỏi thời gian không gian, ôm chầm vũ trụ, siêu thoát Âm Dương... không ai có thể lấy ngao mà lường biển. Cho nên tư tưởng Trung cổ về sau, dù đại thế của Nho gia được đề cao và chiếm địa vị độc tôn, cũng không làm sao ngăn trở nó được. Văn khí của u mặc hồn nhiên mạnh mẽ như giông to gió lớn, trước nó không một chướng ngại vật nào có thể đứng vững. Huống chi người Trung Hoa trí thức nào cũng có hai tâm hồn: Bên ngoài là một ông Khổng, bên trong là một ông Lão. Nho Lão cùng ở trong một người mà không bao giờ nghịch nhau. Hạng trung lưu, không một người Đông phương nào, cả Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam mà đọc lên bài "Quy khứ lai từ" của Đào Uyên Minh lại không biết thích thú, nhất là hạng người say mê trong con đường nhập thế. Ngày có làm, thì đêm phải có nghĩ, đó là định luật của thiên nhiên: "Nhật hạp nhật tịch vị chi biến". Văn học u mặc là "mở", văn học cẩn nguyện là "đóng", nghĩa là khép kính trong vòng tiểu ngã, trong các giáo điều luân lý tôn giáo, nguồn gốc sinh ra không biết bao nhiêu việc nhỏ nhen ích kỷ và giả dối. Văn học Trung Hoa, ngoài thứ văn học lăng miếu trong triều đình không kể, còn điều là thứ văn học rất đắc thế cho tư tưởng u mặc. Văn học trong miếu, thực ra, chưa đáng kể là văn học, vì nền văn học có linh tính chân thật phải đi sâu vào tâm tư con người để khám phá và cởi mở những khác vọng thầm kính của nó mà ước lệ giả tạo của xã hội cấm đoán. Để hòa đồng với thiên nhiên phải tránh xa lối văn nhân tạo. Đó là đặc điểm đầu tiên của u mặc. Ở Trung Hoa, nếu chỉ có nền văn học cẩn nguyện của Nho gia đạo thống mà thiếu nền văn học u mặc của Đạo gia, không biết văn học Trung Hoa sẽ cằn cõi khô khan đến bậc nào, tâm linh người Trung Hoa sẽ sầu khổ héo hắt đến chừng nào! Nhận xét trên đây của nhà văn họ Lâm rất đúng, không riêng gì cho Trung Hoa mà cho tất cả mọi nền văn học trên khắp địa cầu. Nhà văn Chamfort có viết: "Triết lý hay nhất là hỗn hợp được sự vui đời mà trào lộng chua cay với sự khinh đời mà độ lượng khoan hòa"Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Duy Cần":Lão Tử Đạo Đức KinhLão Tử Tinh HoaThuật Xử Thế Của Người XưaCái Dũng Của Thánh NhânCái Cười Của Thánh NhânTinh Hoa Đạo Học Đông PhươngTrang Tử Và Nam Hoa KinhDịch Học Tinh HoaPhật Học Tinh HoaToàn Chân Triết LuậnĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cái Cười Của Thánh Nhân PDF của tác giả Nguyễn Duy Cần nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bạn Đang Nghịch Gì Với Đời Mình (Jiddu Krishnamurti)
Mục lục Trang tựa đề Bạn Đang Nghịch Gì Với Đời Mình Phần I | Bản ngã và Cuộc đời của bạn Chương I | Tôi là ai? | — 1 — | Hiểu về tâm trí Tìm mua: Bạn Đang Nghịch Gì Với Đời Mình TiKi Lazada Shopee — 2 — — 3 — | Tâm trí là gì? — 4 — | Bản ngã là gì? — 5 — | Hiểu biết chính mình | là một tiến trình — 6 — | Bạn sao, thế giới vậy — 7 — | Cuộc chiến của bạn | cũng là cuộc chiến của nhân loại — 8 — | Thay đổi chính mình | để thay đổi thế giới — 9 — | Tại sao phải thay đổi ngay bây giờ? - 10 - | Suy nghĩ không giúp giải quyết | vấn đề của bản ngã Chương II | Điều ta mong muốn | — 1 — | Sự an toàn, hạnh phúc | và cảm giác hài lòng - 2 - | Không thể theo đuổi hạnh phúc - 3 - | Sự hài lòng, niềm vui thích | chuyển thành thói lệ thuộc | và nỗi sợ mất mát - 4 - - 5 - | Niềm vui là sự vắng bóng | cái tôi ham muốn - 6 - | Chúng ta muốn được an toàn - 7 - | Hiểu về tình trạng bất an - 8 - | Tại sao chúng ta luôn tìm kiếm | một điều gì đó? Chương III | Ý nghĩ, người suy nghĩ và ngục tù của bản ngã | — 1 — | Người suy nghĩ và ý nghĩ - 2 - | Ý nghĩ là sự hồi đáp của ký ức | được tích lũy: Chủng tộc, hội nhóm, | gia đình - 3 - | Nguồn gốc của suy nghĩ là gì? - 4 - | Ký ức là những ý nghĩ | có chỗ đứng riêng - 5 - | Ý nghĩ tìm kiếm sự an toàn - 6 - | Tại sao phải thay đổi? - 7 - | Ý nghĩ không thể chấm dứt | nỗi đau buồn - 8 - | Sống một cuộc đời như-nó-là - 9 - | Bản chất của sự quan sát - 10 - | Sự cô đơn: Mắc kẹt | trong ngục tù của cái tôi - 11 - | Sự nhận biết - 12 - | Tư duy đúng đắn và sự nhận biết - 13 - | Không có ý nghĩ tự do Chương IV - 2 - | Sự hiểu biết cùng sự nhận biết | có thể loại trừ mọi vấn đề - 3 - | Sự thấu hiểu xuất hiện | khi tâm trí tĩnh lặng - 4 - | Hiểu biết bị triệt tiêu | bởi sự phân tích - 5 - | Thoát khỏi cái tôi - 6 - | Ngu dốt là tình trạng | thiếu hiểu biết chính mình - 7 - | Chúng ta phạm sai lầm khi | tách biệt cái tôi với cái không-tôi - 8 - | Kiến thức, sự khôn ngoan | và sự thấu hiểu Chương V - 2 - | Sự trốn chạy là khát khao | quên lãng chính mình - 3 - | Tránh cái-nó-là thì gặp ách nô lệ - 4 - | Sự lệ thuộc biểu hiện đời sống | trống rỗng của chúng ta - 5 - | Tại sao tình dục là hình thức | trốn chạy phổ biến nhất? - 6 - | Có điều gì bất ổn ở niềm khoái lạc? - 7 - | Khi nhu cầu khoái lạc | không được thỏa mãn - 8 - | Niềm khoái lạc có phải là | lối thoát khỏi nỗi cô đơn? - 9 - | Hiểu về niềm khoái lạc | không có nghĩa là chối bỏ nó - 10 - | Đừng mang theo suy nghĩ vào đó Chương VI - 2 - | Tại sao chúng ta muốn thay đổi? - 3 - | Thay đổi là cần thiết - 4 - | Sự thay đổi bên trong, | chứ không phải bề ngoài, | sẽ giúp chuyển hóa xã hội Chương VII | Mục đích sống | — 1 — | Mục đích của cuộc sống là gì? - 2 - | Cuộc sống là gì? - 3 - | Đâu là mục tiêu của cuộc sống? - 4 - | Hãy hiểu, đừng trốn chạy | khỏi sự giày vò thường nhật - 5 - | Chúng ta sống vì lẽ gì? Phần II | Hiểu biết | bản thân - | chìa khóa | của tự do Chương I | Nỗi sợ hãi | — 1 — | Nỗi sợ hãi bên trong và bên ngoài - 2 - | Nỗi sợ hãi ngăn cản sự tự do tâm lý - 3 - | Nỗi sợ hãi về thể xác | là phản ứng thường gặp ở động vật - 4 - | Liệu ta có thể thoát khỏi | những quy định bắt nguồn | từ văn hóa hay từ động vật không? - 5 - | Nỗi sợ thể lý nhằm bảo vệ | cơ thể là sự hiểu biết, | nỗi sợ tâm lý là vấn đề của chúng ta - 6 - | Nguồn gốc của nỗi sợ - 7 - | Ý nghĩ là nguồn gốc của nỗi sợ - 8 - | Sự chú tâm - 9 - | Sự chú tâm sẽ chấm dứt nỗi lo sợ - 10 - | Căn nguyên của mọi nỗi lo sợ Chương II | Giận dữ và bạo lực | — 1 — | Sự giận dữ dường như khởi nguồn | từ việc cho mình là quan trọng - 2 - | Căn nguyên thể lý | và căn nguyên tâm lý của cơn giận - 3 - | Cơn giận náu mình | trong sự lệ thuộc - 4 - | Vấn đề của việc dồn nén cơn giận - 5 - | Sự kỳ vọng mang đến nỗi đau | và cơn giận - 6 - | Sự hiểu biết xua tan cơn giận - 7 - | Giận dữ là một tiến trình | mang tính lịch sử - 8 - | Nội tâm thế nào, cuộc sống thế ấy - 9 - | Nguyên nhân của giận dữ | và bạo lực - 10 - | Nguyên nhân sinh lý - 11 - | Nguyên nhân xã hội và môi trường - 12 - | Sự giận dữ chủ yếu đến từ nhu cầu | an toàn về mặt tâm lý - 13 - | Trật tự phổ quát bên trong | và bên ngoài - 14 - | Tội phạm vị thành niên - 15 - | Ta có tôn sùng kẻ sát nhân | và theo đó dung dưỡng sự giận dữ? Chương III - 2 - | Tại sao chúng ta buồn chán? - 3 - | Buồn chán có thể dẫn đến kiệt sức - 4 - | Phải chăng chúng ta chỉ vui thích | vì những phần thưởng? - 5 - | Sụ phục hồi diễn ra | trong dòng suy tưởng Chương IV - 2 - | Buồn phiền là sự cô đơn - 3 - | Ta thán là một nhân tố | gây buồn phiền - 4 - | Buồn phiền vì cô đơn - 5 - | Cô đơn là buồn phiền, | cô độc là tự do - 6 - | Đó là những giọt nước mắt | khóc cho chính bạn hay cho người | đã khuất? - 7 - | Tự do khỏi liều thuốc độc | của sự ta thán - 8 - | Vậy tôi nên sống mỗi ngày | như thế nào? - 9 - | Thấu hiểu nỗi đau khổ - 10 - | Đau khổ là đau khổ: Tâm trí ta | và nỗi khổ của ta đều như nhau Chương V - 2 - | Sự ghen tỵ không phải | là tình yêu thương - 3 - | Sự quyến luyến danh tiếng, | vật chất và con người | gây nên đau khổ - 4 - | Sự lệ thuộc về thể lý | khác với sự lệ thuộc về tâm lý - 5 - | Đỉnh cao của mọi thứ - 6 - | Khuôn mẫu nghiệt ngã - 7 - | Trách nhiệm có phải là tình thương? - 8 - | Tham vọng đồng nghĩa | với sự đố kỵ, | chia cách và chiến tranh Chương VI - 2 - | Dõi theo sự dịch chuyển | của ham muốn - 3 - | Sự nảy sinh ham muốn - 4 - | Hãy thấu hiểu, đừng tìm cách | triệt tiêu ham muốn - 5 - | Nhờ sự thấu hiểu, | ham muốn xảy đến mà chẳng thể | bén rễ trong tâm hồn - 6 - | Liệu chúng ta có thể biết đến | ham muốn mà không cần hành xử gì | với nó? - 7 - | Tại sao chúng ta khao khát | nhiều đến vậy? - 8 - | Ham muốn tự nó | không phải là vấn đề Chương VII - 2 - | Điều bạn là - 3 - | Tham vọng làm lu mờ sự sáng suốt - 4 - | Tham vọng là sợ hãi - 5 - | Sự hứng thú có giống với | tham vọng hay không? - 6 - | Làm điều bạn yêu - 7 - | Nếu bạn yêu hoa, | hãy trở thành người làm vườn - 8 - | Sự so sánh dung dưỡng | thói ganh đua, tham vọng - 9 - | Sự so sánh gây cản trở | cho sự sáng suốt - 10 - | Thành công và thất bại - 11 - | Hãy sống thật sâu! Chương VIII | Cô đơn, trầm cảm | và hỗn loạn | — 1 — | Cô đơn có giống với cô độc? - 2 - | Cô đơn là sự phiền muộn, | cô độc là niềm vui thú - 3 - | Liệu ta có thể sống | cùng nỗi cô đơn? - 4 - | Sự lệ thuộc chấm dứt | khi tâm trí được tĩnh lặng - 5 - | Không còn cái tôi, | không có nỗi cô đơn - 6 - | Trái đất này có đến 6 tỷ người[3], | ta cô đơn là do thái độ cá nhân | hay do thực tại? - 7 - | Đừng trốn chạy, | hãy để mình cô độc - 8 - | Chúng ta thật sự trống rỗng - 9 - | Sự phiền muộn | trú ngụ trong cái tôi - 10 - | Sự tự đánh giá | sẽ mang đến muộn phiền - 11 - | Chọn sự nội quan | hay sự nhận biết - 12 - | Liệu chúng ta có cần đến | các chuyên gia tâm lý để giải quyết | tình trạng rối loạn của mình? - 13 - | Sự hỗn loạn là gì? - 14 - | Ý kiến của ta | gây xáo trộn sự thật - 15 - | Ta sáng suốt hơn khi thấu hiểu | sự hỗn loạn - 16 - | Bạn có thể tự mình nhận thấy | tất cả những điều này Chương IX - 2 - | Đừng chỉ trang trí lại | ngục tù của bạn - 3 - | Quan sát sự vận hành | của nỗi phiền muộn trong tâm thức - 4 - | Tại sao chúng ta chấp nhận | sự khổ sở của việc sống hời hợt? - 5 - | Ta không thể chấm dứt phiền muộn | thông qua sự cải thiện - 6 - | Ta không thể chấm dứt phiền muộn | thông qua sự tiến triển - 7 - | Chấm dứt mọi thứ | ngày này qua ngày khác Phần III | Giáo dục, | công việc | và tiền bạc Chương I | Bàn về giáo dục | — 1 — | Loại hình giáo dục đúng đắn - 2 - | Đời sống đâu chỉ bao hàm | các phương thức mưu sinh - 3 - | Đừng chỉ bận tâm đến nghề nghiệp - 4 - | Cá nhân và hệ thống, | điều gì quan trọng hơn? - 5 - | Chức năng của giáo dục - 6 - | Con cái có phải là tài sản? - 7 - | Điều gì là cần thiết với chúng ta? - 8 - | Kiến thức là sự tích lũy quá khứ, | việc học hành thì luôn diễn ra | ở hiện tại Chương II | So sánh, cạnh tranh | và hợp tác | — 1 — | Việc so sánh nuôi dưỡng nỗi sợ hãi - 2 - | Sự cạnh tranh - 3 - | Ta cạnh tranh chỉ để che giấu | nỗi sợ thất bại - 4 - | Cạnh tranh là sự tôn sùng | vẻ hào nhoáng bên ngoài - 5 - | Hợp tác là sự vắng mặt | tinh thần vị kỷ - 6 - | Tất cả là vì Tôi, hay vì Chúng ta? - 7 - | Biết khi nào không thể hợp tác Chương III - 2 - | Tìm ra điều bạn yêu thích - 3 - | Giáo dục là một nghề cao quý - 4 - | Thực trạng mục nát, hỗn độn - 5 - | Liệu bạn có dễ bị tác động? - 6 - | Đâu mới là cách mưu sinh | đúng đắn? - 7 - | Hãy làm điều tốt nhất có thể: | Bạn phải sinh tồn mà - 8 - | Mưu sinh là gì? - 9 - | Đóng góp cho xã hội - 10 - | Công việc đúng nghĩa | của con người là khám phá chân lý Chương IV | Nền tảng của | hành động đúng đắn | — 1 — | Tại sao chúng ta phải thay đổi? - 2 - | Cảm giác chán chường - 3 - | Vấn đề của bản ngã không thể | được giải quyết bằng sự trốn chạy - 4 - | Giải quyết vấn đề - 5 - | Tuổi trẻ trong mối quan hệ | với các vấn đề - 6 - | Tâm trí bị nhào nặn - 7 - | Để giải quyết vấn đề và hành động | đúng đắn, hãy lắng nghe sự thay đổi | của cuộc sống, đừng tin vào | những nguyên tắc sáo rỗng - 8 - | Hành động đúng đắn | không phải là sự tuân phục - 9 - | Tự mình thấu hiểu mọi vấn đề | trong cuộc sống - 10 - | Không nhà tư tưởng nào có thể | giải quyết vấn đề của bạn - 11 - | Sự hiểu biết bắt nguồn từ | tự do khỏi cái tôi - 12 - | Đừng dùng bạo lực | để đáp trả bạo lực Phần IV | Những | mối tương quan Chương I - 2 - | Đừng lệ thuộc vào các mối quan hệ - 3 - | Liệu chúng ta có thể yêu thương | mà không chiếm hữu? - 4 - | Các mối quan hệ cá nhân | hình thành nên xã hội - 5 - | Soi rọi chính mình | để giải quyết xung đột - 6 - | Cuộc sống là mối tương quan | giữa chúng ta với mọi vật, | mọi người, mọi ý tưởng - 7 - | Mối quan hệ là tấm gương | phản chiếu - 8 - | Hạnh phúc là hiểu về chính mình | trong các mối tương quan - 9 - | Phá hủy cỗ máy hình tượng - 10 - | Sự hình thành các hình tượng | và quan điểm - 11 - | Các quan điểm chỉ là | những hình tượng - 12 - | Tự hình tượng hóa bản thân | khiến ta đau khổ Chương II - 2 - | Nơi nào có sự lệ thuộc, | nơi đó có nỗi sợ hãi - 3 - | Tình yêu xuất hiện từ sự thấu hiểu | về các mối quan hệ - 4 - | Tại sao chúng ta quan trọng hóa | chuyện tình dục? - 5 - | Tại sao tình dục là vấn đề? - 6 - | Ham muốn không phải là tình yêu Chương III - 2 - | Chúng ta có thực sự yêu thương | gia đình mình? - 3 - | Sự lệ thuộc biến bạn thành | kẻ bất tài vô tướng - 4 - | Theo một cách hoàn toàn tự nhiên, | ta có một gia đình - 5 - | Chỉ khi không màng đến | sự an toàn nội tại, | bạn mới được an toàn Chương IV - 2 - | Chúng ta yêu thương Trái đất | hay chỉ tận dụng nó thôi vậy? - 3 - | Bản đồ chỉ mang tính tham khảo chính trị, | Trái đất không là của riêng ai - 4 - | Chúng ta đều là những người | coi sóc của Trái đất Chương V - 2 - | Không thể suy nghĩ về tình yêu - 3 - | Khi biết cách yêu một người, | bạn biết cách yêu mọi người | và cả thế giới - 4 - | Tình yêu trong mối tương quan - 5 - | Chúng ta không yêu thương, | chúng ta khao khát | được yêu thương - 6 - | Tình yêu không là | của riêng bạn hoặc tôi - 7 - | Sự nhàm chán trong mối quan hệ - 8 - | Khi không có tình yêu, | chúng ta có hôn nhân - 9 - | Sự hài lòng không đồng nghĩa | với tình yêu - 10 - | Đừng cố sống độc thân - 11 - | Tại sao tình dục và hôn nhân | lại trở thành vấn đề? - 12 - | Cái nhìn thấu thị về giới hạn | của suy nghĩ - 13 - | Liệu tình yêu có thể tĩnh tại, | bất động hay không? - 14 - | Nơi nào bạn xem mình | là quan trọng, | nơi đó không có tình yêu - 15 - | Trong thói quen không có tình yêu Chương VI | Đam mê | — 1 — | Thiếu niềm đam mê, | cuộc sống trống rỗng - 2 - | Sao có thể yêu thương | nếu không đam mê - 3 - | Sự nguy hiểm của đam mê - 4 - | Hãy tiếp tục học hỏi, | đừng mắc kẹt trong lối mòn Chương VII | Chân lý, Thượng đế | và cái chết | — 1 — | Cái chết - 2 - | Điều gì sẽ tiếp diễn? - 3 - - 4 - | Sự tiếp diễn của ý nghĩ - 5 - | Trong sự đổi mới, | cái chết không tồn tại - 6 - | Sự đổi mới diễn ra khi tiến trình | tư duy chấm dứt - 7 - | Tình yêu bất diệt - 8 - | Cái chết và sự bất diệt - 9 - | Hiện tại là vĩnh hằng - 10 - | Liệu có tồn tại niềm vui bất tận, | dài lâu? - 11 - | Nỗi sợ cái chết là nỗi sợ | đánh mất điều đã biết - 12 - | Điều ta biết - 13 - | Cái chết và cuộc sống là một - 14 - | Từ bỏ cái tôi - 15 - | Thượng đế Chương VIII | Thiền là chú tâm | — 1 — | Hãy chú tâm khi thiền - 2 - | Thiền trong đời sống thường ngày - 3 - | Chú tâm đến toàn bộ chuyển động | của mối tương quan | là sự khởi đầu của thiền định - 4 - | Thiền là sự sáng rõ - 5 - | Thiền để thấu hiểu cuộc sống - | hãy là ngọn đèn soi sáng chính mình - 6 - | Thiền là tự biết mình - 7 - | Thiền là quên đi tâm trí của quá khứ - 8 - | Hạnh phúc trong tâm trí tĩnh lặng - 9 - | Sống trong tỉnh thức - 10 - | Trong thinh lặng, | các vấn đề được giải quyết - 11 - | Tâm trí tĩnh lặngDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jiddu Krishnamurti":Dưới Chân ThầyNghĩ Về Những Điều NàyLửa Trong Cái TríThâm Nhập Thấu TriệtThư Gửi Trường HọcBài Diễn Văn Giải Tán Giáo Hội Ngôi SaoBạn Đang Nghịch Gì Với Đời MìnhTự Do Vượt Trên Sự Hiểu BiếtBàn Về Cách Kiếm Sống Đúng ĐắnBàn Về Tình Yêu Và Sự Cô ĐộcCái Gương Của Sự Liên HệĐánh Thức Trí Thông MinhGiáo Dục Và Ý Nghĩa Của SốngGiáp Mặt Cuộc ĐờiSổ Tay Của KrishnamurtiTương Lai Của Nhân LoạiTuyển Tập KrishnamurtiVượt Khỏi Bạo LựcQuyển Sách Của Cuộc Đời Jiddu KrishnamurtiĐối Mặt Với Thế Giới Hoảng LoạnGhi Chép Của KrishnamurtiĐường Vào Hiện SinhKhai Sáng Trí NăngHướng Đi Cho Cuộc ĐờiNỗi Đau Thời GianÝ Nghĩa Về Sự Chết, Đau Khổ Và Thời GianĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bạn Đang Nghịch Gì Với Đời Mình PDF của tác giả Jiddu Krishnamurti nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bạn Đang Nghịch Gì Với Đời Mình (Jiddu Krishnamurti)
Mục lục Trang tựa đề Bạn Đang Nghịch Gì Với Đời Mình Phần I | Bản ngã và Cuộc đời của bạn Chương I | Tôi là ai? | — 1 — | Hiểu về tâm trí Tìm mua: Bạn Đang Nghịch Gì Với Đời Mình TiKi Lazada Shopee — 2 — — 3 — | Tâm trí là gì? — 4 — | Bản ngã là gì? — 5 — | Hiểu biết chính mình | là một tiến trình — 6 — | Bạn sao, thế giới vậy — 7 — | Cuộc chiến của bạn | cũng là cuộc chiến của nhân loại — 8 — | Thay đổi chính mình | để thay đổi thế giới — 9 — | Tại sao phải thay đổi ngay bây giờ? - 10 - | Suy nghĩ không giúp giải quyết | vấn đề của bản ngã Chương II | Điều ta mong muốn | — 1 — | Sự an toàn, hạnh phúc | và cảm giác hài lòng - 2 - | Không thể theo đuổi hạnh phúc - 3 - | Sự hài lòng, niềm vui thích | chuyển thành thói lệ thuộc | và nỗi sợ mất mát - 4 - - 5 - | Niềm vui là sự vắng bóng | cái tôi ham muốn - 6 - | Chúng ta muốn được an toàn - 7 - | Hiểu về tình trạng bất an - 8 - | Tại sao chúng ta luôn tìm kiếm | một điều gì đó? Chương III | Ý nghĩ, người suy nghĩ và ngục tù của bản ngã | — 1 — | Người suy nghĩ và ý nghĩ - 2 - | Ý nghĩ là sự hồi đáp của ký ức | được tích lũy: Chủng tộc, hội nhóm, | gia đình - 3 - | Nguồn gốc của suy nghĩ là gì? - 4 - | Ký ức là những ý nghĩ | có chỗ đứng riêng - 5 - | Ý nghĩ tìm kiếm sự an toàn - 6 - | Tại sao phải thay đổi? - 7 - | Ý nghĩ không thể chấm dứt | nỗi đau buồn - 8 - | Sống một cuộc đời như-nó-là - 9 - | Bản chất của sự quan sát - 10 - | Sự cô đơn: Mắc kẹt | trong ngục tù của cái tôi - 11 - | Sự nhận biết - 12 - | Tư duy đúng đắn và sự nhận biết - 13 - | Không có ý nghĩ tự do Chương IV - 2 - | Sự hiểu biết cùng sự nhận biết | có thể loại trừ mọi vấn đề - 3 - | Sự thấu hiểu xuất hiện | khi tâm trí tĩnh lặng - 4 - | Hiểu biết bị triệt tiêu | bởi sự phân tích - 5 - | Thoát khỏi cái tôi - 6 - | Ngu dốt là tình trạng | thiếu hiểu biết chính mình - 7 - | Chúng ta phạm sai lầm khi | tách biệt cái tôi với cái không-tôi - 8 - | Kiến thức, sự khôn ngoan | và sự thấu hiểu Chương V - 2 - | Sự trốn chạy là khát khao | quên lãng chính mình - 3 - | Tránh cái-nó-là thì gặp ách nô lệ - 4 - | Sự lệ thuộc biểu hiện đời sống | trống rỗng của chúng ta - 5 - | Tại sao tình dục là hình thức | trốn chạy phổ biến nhất? - 6 - | Có điều gì bất ổn ở niềm khoái lạc? - 7 - | Khi nhu cầu khoái lạc | không được thỏa mãn - 8 - | Niềm khoái lạc có phải là | lối thoát khỏi nỗi cô đơn? - 9 - | Hiểu về niềm khoái lạc | không có nghĩa là chối bỏ nó - 10 - | Đừng mang theo suy nghĩ vào đó Chương VI - 2 - | Tại sao chúng ta muốn thay đổi? - 3 - | Thay đổi là cần thiết - 4 - | Sự thay đổi bên trong, | chứ không phải bề ngoài, | sẽ giúp chuyển hóa xã hội Chương VII | Mục đích sống | — 1 — | Mục đích của cuộc sống là gì? - 2 - | Cuộc sống là gì? - 3 - | Đâu là mục tiêu của cuộc sống? - 4 - | Hãy hiểu, đừng trốn chạy | khỏi sự giày vò thường nhật - 5 - | Chúng ta sống vì lẽ gì? Phần II | Hiểu biết | bản thân - | chìa khóa | của tự do Chương I | Nỗi sợ hãi | — 1 — | Nỗi sợ hãi bên trong và bên ngoài - 2 - | Nỗi sợ hãi ngăn cản sự tự do tâm lý - 3 - | Nỗi sợ hãi về thể xác | là phản ứng thường gặp ở động vật - 4 - | Liệu ta có thể thoát khỏi | những quy định bắt nguồn | từ văn hóa hay từ động vật không? - 5 - | Nỗi sợ thể lý nhằm bảo vệ | cơ thể là sự hiểu biết, | nỗi sợ tâm lý là vấn đề của chúng ta - 6 - | Nguồn gốc của nỗi sợ - 7 - | Ý nghĩ là nguồn gốc của nỗi sợ - 8 - | Sự chú tâm - 9 - | Sự chú tâm sẽ chấm dứt nỗi lo sợ - 10 - | Căn nguyên của mọi nỗi lo sợ Chương II | Giận dữ và bạo lực | — 1 — | Sự giận dữ dường như khởi nguồn | từ việc cho mình là quan trọng - 2 - | Căn nguyên thể lý | và căn nguyên tâm lý của cơn giận - 3 - | Cơn giận náu mình | trong sự lệ thuộc - 4 - | Vấn đề của việc dồn nén cơn giận - 5 - | Sự kỳ vọng mang đến nỗi đau | và cơn giận - 6 - | Sự hiểu biết xua tan cơn giận - 7 - | Giận dữ là một tiến trình | mang tính lịch sử - 8 - | Nội tâm thế nào, cuộc sống thế ấy - 9 - | Nguyên nhân của giận dữ | và bạo lực - 10 - | Nguyên nhân sinh lý - 11 - | Nguyên nhân xã hội và môi trường - 12 - | Sự giận dữ chủ yếu đến từ nhu cầu | an toàn về mặt tâm lý - 13 - | Trật tự phổ quát bên trong | và bên ngoài - 14 - | Tội phạm vị thành niên - 15 - | Ta có tôn sùng kẻ sát nhân | và theo đó dung dưỡng sự giận dữ? Chương III - 2 - | Tại sao chúng ta buồn chán? - 3 - | Buồn chán có thể dẫn đến kiệt sức - 4 - | Phải chăng chúng ta chỉ vui thích | vì những phần thưởng? - 5 - | Sụ phục hồi diễn ra | trong dòng suy tưởng Chương IV - 2 - | Buồn phiền là sự cô đơn - 3 - | Ta thán là một nhân tố | gây buồn phiền - 4 - | Buồn phiền vì cô đơn - 5 - | Cô đơn là buồn phiền, | cô độc là tự do - 6 - | Đó là những giọt nước mắt | khóc cho chính bạn hay cho người | đã khuất? - 7 - | Tự do khỏi liều thuốc độc | của sự ta thán - 8 - | Vậy tôi nên sống mỗi ngày | như thế nào? - 9 - | Thấu hiểu nỗi đau khổ - 10 - | Đau khổ là đau khổ: Tâm trí ta | và nỗi khổ của ta đều như nhau Chương V - 2 - | Sự ghen tỵ không phải | là tình yêu thương - 3 - | Sự quyến luyến danh tiếng, | vật chất và con người | gây nên đau khổ - 4 - | Sự lệ thuộc về thể lý | khác với sự lệ thuộc về tâm lý - 5 - | Đỉnh cao của mọi thứ - 6 - | Khuôn mẫu nghiệt ngã - 7 - | Trách nhiệm có phải là tình thương? - 8 - | Tham vọng đồng nghĩa | với sự đố kỵ, | chia cách và chiến tranh Chương VI - 2 - | Dõi theo sự dịch chuyển | của ham muốn - 3 - | Sự nảy sinh ham muốn - 4 - | Hãy thấu hiểu, đừng tìm cách | triệt tiêu ham muốn - 5 - | Nhờ sự thấu hiểu, | ham muốn xảy đến mà chẳng thể | bén rễ trong tâm hồn - 6 - | Liệu chúng ta có thể biết đến | ham muốn mà không cần hành xử gì | với nó? - 7 - | Tại sao chúng ta khao khát | nhiều đến vậy? - 8 - | Ham muốn tự nó | không phải là vấn đề Chương VII - 2 - | Điều bạn là - 3 - | Tham vọng làm lu mờ sự sáng suốt - 4 - | Tham vọng là sợ hãi - 5 - | Sự hứng thú có giống với | tham vọng hay không? - 6 - | Làm điều bạn yêu - 7 - | Nếu bạn yêu hoa, | hãy trở thành người làm vườn - 8 - | Sự so sánh dung dưỡng | thói ganh đua, tham vọng - 9 - | Sự so sánh gây cản trở | cho sự sáng suốt - 10 - | Thành công và thất bại - 11 - | Hãy sống thật sâu! Chương VIII | Cô đơn, trầm cảm | và hỗn loạn | — 1 — | Cô đơn có giống với cô độc? - 2 - | Cô đơn là sự phiền muộn, | cô độc là niềm vui thú - 3 - | Liệu ta có thể sống | cùng nỗi cô đơn? - 4 - | Sự lệ thuộc chấm dứt | khi tâm trí được tĩnh lặng - 5 - | Không còn cái tôi, | không có nỗi cô đơn - 6 - | Trái đất này có đến 6 tỷ người[3], | ta cô đơn là do thái độ cá nhân | hay do thực tại? - 7 - | Đừng trốn chạy, | hãy để mình cô độc - 8 - | Chúng ta thật sự trống rỗng - 9 - | Sự phiền muộn | trú ngụ trong cái tôi - 10 - | Sự tự đánh giá | sẽ mang đến muộn phiền - 11 - | Chọn sự nội quan | hay sự nhận biết - 12 - | Liệu chúng ta có cần đến | các chuyên gia tâm lý để giải quyết | tình trạng rối loạn của mình? - 13 - | Sự hỗn loạn là gì? - 14 - | Ý kiến của ta | gây xáo trộn sự thật - 15 - | Ta sáng suốt hơn khi thấu hiểu | sự hỗn loạn - 16 - | Bạn có thể tự mình nhận thấy | tất cả những điều này Chương IX - 2 - | Đừng chỉ trang trí lại | ngục tù của bạn - 3 - | Quan sát sự vận hành | của nỗi phiền muộn trong tâm thức - 4 - | Tại sao chúng ta chấp nhận | sự khổ sở của việc sống hời hợt? - 5 - | Ta không thể chấm dứt phiền muộn | thông qua sự cải thiện - 6 - | Ta không thể chấm dứt phiền muộn | thông qua sự tiến triển - 7 - | Chấm dứt mọi thứ | ngày này qua ngày khác Phần III | Giáo dục, | công việc | và tiền bạc Chương I | Bàn về giáo dục | — 1 — | Loại hình giáo dục đúng đắn - 2 - | Đời sống đâu chỉ bao hàm | các phương thức mưu sinh - 3 - | Đừng chỉ bận tâm đến nghề nghiệp - 4 - | Cá nhân và hệ thống, | điều gì quan trọng hơn? - 5 - | Chức năng của giáo dục - 6 - | Con cái có phải là tài sản? - 7 - | Điều gì là cần thiết với chúng ta? - 8 - | Kiến thức là sự tích lũy quá khứ, | việc học hành thì luôn diễn ra | ở hiện tại Chương II | So sánh, cạnh tranh | và hợp tác | — 1 — | Việc so sánh nuôi dưỡng nỗi sợ hãi - 2 - | Sự cạnh tranh - 3 - | Ta cạnh tranh chỉ để che giấu | nỗi sợ thất bại - 4 - | Cạnh tranh là sự tôn sùng | vẻ hào nhoáng bên ngoài - 5 - | Hợp tác là sự vắng mặt | tinh thần vị kỷ - 6 - | Tất cả là vì Tôi, hay vì Chúng ta? - 7 - | Biết khi nào không thể hợp tác Chương III - 2 - | Tìm ra điều bạn yêu thích - 3 - | Giáo dục là một nghề cao quý - 4 - | Thực trạng mục nát, hỗn độn - 5 - | Liệu bạn có dễ bị tác động? - 6 - | Đâu mới là cách mưu sinh | đúng đắn? - 7 - | Hãy làm điều tốt nhất có thể: | Bạn phải sinh tồn mà - 8 - | Mưu sinh là gì? - 9 - | Đóng góp cho xã hội - 10 - | Công việc đúng nghĩa | của con người là khám phá chân lý Chương IV | Nền tảng của | hành động đúng đắn | — 1 — | Tại sao chúng ta phải thay đổi? - 2 - | Cảm giác chán chường - 3 - | Vấn đề của bản ngã không thể | được giải quyết bằng sự trốn chạy - 4 - | Giải quyết vấn đề - 5 - | Tuổi trẻ trong mối quan hệ | với các vấn đề - 6 - | Tâm trí bị nhào nặn - 7 - | Để giải quyết vấn đề và hành động | đúng đắn, hãy lắng nghe sự thay đổi | của cuộc sống, đừng tin vào | những nguyên tắc sáo rỗng - 8 - | Hành động đúng đắn | không phải là sự tuân phục - 9 - | Tự mình thấu hiểu mọi vấn đề | trong cuộc sống - 10 - | Không nhà tư tưởng nào có thể | giải quyết vấn đề của bạn - 11 - | Sự hiểu biết bắt nguồn từ | tự do khỏi cái tôi - 12 - | Đừng dùng bạo lực | để đáp trả bạo lực Phần IV | Những | mối tương quan Chương I - 2 - | Đừng lệ thuộc vào các mối quan hệ - 3 - | Liệu chúng ta có thể yêu thương | mà không chiếm hữu? - 4 - | Các mối quan hệ cá nhân | hình thành nên xã hội - 5 - | Soi rọi chính mình | để giải quyết xung đột - 6 - | Cuộc sống là mối tương quan | giữa chúng ta với mọi vật, | mọi người, mọi ý tưởng - 7 - | Mối quan hệ là tấm gương | phản chiếu - 8 - | Hạnh phúc là hiểu về chính mình | trong các mối tương quan - 9 - | Phá hủy cỗ máy hình tượng - 10 - | Sự hình thành các hình tượng | và quan điểm - 11 - | Các quan điểm chỉ là | những hình tượng - 12 - | Tự hình tượng hóa bản thân | khiến ta đau khổ Chương II - 2 - | Nơi nào có sự lệ thuộc, | nơi đó có nỗi sợ hãi - 3 - | Tình yêu xuất hiện từ sự thấu hiểu | về các mối quan hệ - 4 - | Tại sao chúng ta quan trọng hóa | chuyện tình dục? - 5 - | Tại sao tình dục là vấn đề? - 6 - | Ham muốn không phải là tình yêu Chương III - 2 - | Chúng ta có thực sự yêu thương | gia đình mình? - 3 - | Sự lệ thuộc biến bạn thành | kẻ bất tài vô tướng - 4 - | Theo một cách hoàn toàn tự nhiên, | ta có một gia đình - 5 - | Chỉ khi không màng đến | sự an toàn nội tại, | bạn mới được an toàn Chương IV - 2 - | Chúng ta yêu thương Trái đất | hay chỉ tận dụng nó thôi vậy? - 3 - | Bản đồ chỉ mang tính tham khảo chính trị, | Trái đất không là của riêng ai - 4 - | Chúng ta đều là những người | coi sóc của Trái đất Chương V - 2 - | Không thể suy nghĩ về tình yêu - 3 - | Khi biết cách yêu một người, | bạn biết cách yêu mọi người | và cả thế giới - 4 - | Tình yêu trong mối tương quan - 5 - | Chúng ta không yêu thương, | chúng ta khao khát | được yêu thương - 6 - | Tình yêu không là | của riêng bạn hoặc tôi - 7 - | Sự nhàm chán trong mối quan hệ - 8 - | Khi không có tình yêu, | chúng ta có hôn nhân - 9 - | Sự hài lòng không đồng nghĩa | với tình yêu - 10 - | Đừng cố sống độc thân - 11 - | Tại sao tình dục và hôn nhân | lại trở thành vấn đề? - 12 - | Cái nhìn thấu thị về giới hạn | của suy nghĩ - 13 - | Liệu tình yêu có thể tĩnh tại, | bất động hay không? - 14 - | Nơi nào bạn xem mình | là quan trọng, | nơi đó không có tình yêu - 15 - | Trong thói quen không có tình yêu Chương VI | Đam mê | — 1 — | Thiếu niềm đam mê, | cuộc sống trống rỗng - 2 - | Sao có thể yêu thương | nếu không đam mê - 3 - | Sự nguy hiểm của đam mê - 4 - | Hãy tiếp tục học hỏi, | đừng mắc kẹt trong lối mòn Chương VII | Chân lý, Thượng đế | và cái chết | — 1 — | Cái chết - 2 - | Điều gì sẽ tiếp diễn? - 3 - - 4 - | Sự tiếp diễn của ý nghĩ - 5 - | Trong sự đổi mới, | cái chết không tồn tại - 6 - | Sự đổi mới diễn ra khi tiến trình | tư duy chấm dứt - 7 - | Tình yêu bất diệt - 8 - | Cái chết và sự bất diệt - 9 - | Hiện tại là vĩnh hằng - 10 - | Liệu có tồn tại niềm vui bất tận, | dài lâu? - 11 - | Nỗi sợ cái chết là nỗi sợ | đánh mất điều đã biết - 12 - | Điều ta biết - 13 - | Cái chết và cuộc sống là một - 14 - | Từ bỏ cái tôi - 15 - | Thượng đế Chương VIII | Thiền là chú tâm | — 1 — | Hãy chú tâm khi thiền - 2 - | Thiền trong đời sống thường ngày - 3 - | Chú tâm đến toàn bộ chuyển động | của mối tương quan | là sự khởi đầu của thiền định - 4 - | Thiền là sự sáng rõ - 5 - | Thiền để thấu hiểu cuộc sống - | hãy là ngọn đèn soi sáng chính mình - 6 - | Thiền là tự biết mình - 7 - | Thiền là quên đi tâm trí của quá khứ - 8 - | Hạnh phúc trong tâm trí tĩnh lặng - 9 - | Sống trong tỉnh thức - 10 - | Trong thinh lặng, | các vấn đề được giải quyết - 11 - | Tâm trí tĩnh lặngDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jiddu Krishnamurti":Dưới Chân ThầyNghĩ Về Những Điều NàyLửa Trong Cái TríThâm Nhập Thấu TriệtThư Gửi Trường HọcBài Diễn Văn Giải Tán Giáo Hội Ngôi SaoBạn Đang Nghịch Gì Với Đời MìnhTự Do Vượt Trên Sự Hiểu BiếtBàn Về Cách Kiếm Sống Đúng ĐắnBàn Về Tình Yêu Và Sự Cô ĐộcCái Gương Của Sự Liên HệĐánh Thức Trí Thông MinhGiáo Dục Và Ý Nghĩa Của SốngGiáp Mặt Cuộc ĐờiSổ Tay Của KrishnamurtiTương Lai Của Nhân LoạiTuyển Tập KrishnamurtiVượt Khỏi Bạo LựcQuyển Sách Của Cuộc Đời Jiddu KrishnamurtiĐối Mặt Với Thế Giới Hoảng LoạnGhi Chép Của KrishnamurtiĐường Vào Hiện SinhKhai Sáng Trí NăngHướng Đi Cho Cuộc ĐờiNỗi Đau Thời GianÝ Nghĩa Về Sự Chết, Đau Khổ Và Thời GianĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bạn Đang Nghịch Gì Với Đời Mình PDF của tác giả Jiddu Krishnamurti nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.