Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tham Thiền Yếu Chỉ (Thích Thanh Từ)

ĐIỀU KIỆN QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TIÊN CỦA SỰ THAM THIỀN.

Mục đích tham thiền là cầu được minh tâm kiến tánh. Muốn thế, phải gạn lọc các thứ nhiễm ô của tự tâm, thấy rõ mặt thật của tự tánh. Nhiễm ô tức là vọng tưởng chấp trước. Tự tánh là đức tướng trí tuệ Như Lai. Đức tướng trí tuệ Như Lai, chư Phật và chúng sanh đồng có đủ, không hai không khác. Nếu rời vọng tưởng chấp trước là chứng được đức tướng trí tuệ Như Lai của mình; phải thế là Phật, không phải thế là chúng sanh. Chỉ vì chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay mê muội đắm chìm trong sanh tử, nhiễm ô đã lâu, không thể trong chốc lát thoát được vọng tưởng, thật thấy bản tánh, vì thế nên phải tham thiền. Điều kiện quyết định đầu tiên của sự tham thiền là trừ diệt vọng tưởng. Phương pháp trừ vọng tưởng như thế nào? Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói phương pháp rất nhiều, nhưng rất giản lược chẳng qua một chữ hết, hết là Bồ-đề. Thiền tông do Tổ sư Đạt-ma truyền sang Trung Hoa, sau đến đức Lục Tổ, tông phong bủa khắp sáng chiếu cổ kim. Câu rất khẩn yếu mà đức Tổ sư Đạt-ma và Lục Tổ khai thị cho môn đồ là “Trừ sạch các duyên, một niệm không sanh”. Trừ sạch các duyên tức là vạn duyên buông hết.

Hai câu: “Vạn duyên buông hết, một niệm không sanh” chính là điều kiện quyết định đầu tiên của sự tham thiền. Hai câu ấy nếu thực hiện không được, tham thiền chẳng những nói không thành công mà vào cửa cũng không thể được. Bởi vì vạn duyên còn ràng buộc, niệm niệm mãi sanh diệt, ông làm sao tham thiền được?

“Vạn duyên buông hết, một niệm không sanh” là điều kiện quyết định đầu tiên của sự tham thiền, dĩ nhiên chúng ta đã biết. Nhưng phải làm thế nào mới có thể thực hiện được? Có hai cách:

1- Bậc thượng, một niệm hằng dứt, thẳng đến vô sanh liền chứng Bồ-đề, không còn một mảy may ràng buộc. Tìm mua: Tham Thiền Yếu Chỉ TiKi Lazada Shopee

2- Bậc thứ, dùng lý trừ sự, biết rõ tự tánh xưa nay vẫn thanh tịnh, phiền não

Bồ-đề, sanh tử Niết-bàn đều là giả danh không can dự gì đến tự tánh của ta. Muôn sự muôn vật đều là việc chiêm bao, huyễn hóa, hòn bọt, cái bóng. Sắc thân tứ đại của ta đây và sơn hà đại địa ở trong tự tánh như hòn bọt ngoài bể cả, mặc tình sanh diệt không ngại gì bản thể. Ta không nên theo sự sanh, trụ, dị, diệt của tất cả cái huyễn hóa ấy mà khởi ưa, chán, thủ, xả. Toàn thân buông hết như người chết không khác, tự nhiên căn, trần, thức, tâm tan biến; tham, sân, si, ái diệt sạch. Mọi việc đau nhức, khổ vui, đói lạnh, no ấm, vinh nhục, sanh tử, họa phước, kiết hung, chê khen, được mất, an nguy, khó dễ v.v… nơi thân một mực đẩy chúng ra ngoài.

Có thế mới mong buông hết. Một buông, tất cả đều buông, mãi mãi buông gọi là vạn duyên buông hết. Vạn duyên buông hết rồi, vọng tưởng tự tiêu, phân biệt không khởi, các chấp trước hằng xa lìa. Khi ấy, một niệm không sanh, tự tánh sáng suốt, toàn thể hiện bày. Được vậy là điều kiện tham thiền đã đầy đủ, lại dụng công chân thật tham cứu mới có thể được minh tâm kiến tánh.

Hằng ngày thường có các vị tu thiền đến hỏi câu thoại đầu. Phàm là pháp vốn không phải pháp, một khi rơi vào ngôn ngữ tức không phải thật nghĩa. Biết được một tâm này xưa nay là Phật, ngay đó vô sự muôn việc hiện thành, nói tu nói chứng đều là ma thuyết. Đức Đạt-ma sang Trung Hoa “Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Chỉ bày rành rõ tất cả chúng sanh đều là Phật. Thẳng đó nhận được tự tánh thanh tịnh này, tùy thuận không nhiễm ô, trong hai mươi bốn giờ đi đứng ngồi nằm tâm không khởi vọng, ấy là hiện thân thành Phật; chẳng cần dụng tâm dụng lực, cũng chẳng cần tạo tác thi vi, không nhọc một mảy may suy nghĩ nói năng. Do đó, nói thành Phật là việc rất dễ dàng, rất tự tại, đạt được là tại nơi ta, không phải cầu bên ngoài. Tất cả chúng sanh trên thế giới này, nếu thật không cam chịu trường kiếp trầm luân trong tứ sanh lục đạo, hằng đắm chìm nơi bể khổ, muốn thành Phật được thường, lạc, ngã, tịnh, phải tin lời chân thật của Phật Tổ “buông hết tất cả, không nghĩ nhớ thiện ác”, mỗi người khả dĩ liền đó thành Phật.

Chư Phật, Bồ-tát và lịch đại chư vị Tổ sư phát nguyện độ hết tất cả chúng sanh, không phải là không bằng cứ, đâu phải chỉ hứa nguyện suông.

Đã nói ở trên, pháp vốn như vậy, Phật Tổ lắm phen dạy rõ căn dặn kỹ càng, là chân ngữ thật ngữ, không một mảy hư dối. Phật do lòng đại từ bi không nệ tất cả chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay mê muội chìm đắm trong biển khổ sanh tử, vừa ra lại vào, luân chuyển không dừng, mê lầm điên đảo, trái tánh giác hợp vọng trần. Ví như vàng ròng bỏ vào hầm phẩn, không những chẳng dùng được mà lại nhơ nhớp quá lắm. Ngài bất đắc dĩ nói ra tám muôn bốn ngàn pháp môn, tùy căn cơ chẳng đồng của chúng sanh dùng đối trị tham, sân, si, ái v.v… tám muôn bốn ngàn bệnh tập khí vi tế. Như vàng đã dính các thứ nhơ nhớp, mới dạy người dùng sạn, bàn chải, nước, vải v.v… để mài giũa, chùi rửa nó. Sở dĩ Phật nói pháp, mỗi môn đều là diệu pháp, đều có thể liễu thoát sanh tử, thành Phật đạo. Chỉ có vấn đề hợp cơ hay không hợp cơ, không cần phân biệt pháp môn cao hay thấp. Pháp môn lưu truyền ở Trung Hoa rất phổ thông là Tông, Giáo, Luật, Tịnh, Mật. Năm pháp môn này tùy căn tánh và chỗ hứng thú của mỗi người thực hành môn nào cũng tốt.

Quan trọng là trong một môn được thâm nhập, trải thời gian lâu không đổi thay, như vậy khả dĩ thành tựu.

Về Tông môn chủ trương tham thiền, tham thiền cốt “Minh tâm kiến tánh”, cần tham suốt được cái “bản lai diện mục của mình”, nên nói: “Giác ngộ tự tâm, thấy suốt bản tánh”. Pháp môn này phát nguyên từ hội Linh Sơn, Phật đưa cành hoa sen, ngài Ca Diếp cười chúm chím, đến Tổ sư Đạt-ma truyền sang Trung Hoa, về sau chỗ hạ thủ công phu đã từng thay đổi. Các bậc Thiền đức trước đời Đường, đời Tống phần nhiều nghe một lời, hoặc nửa câu được ngộ đạo. Thầy trò truyền nhau chẳng qua dùng tâm ấn tâm, không có một thật pháp. Ngày thường thưa hỏi, trả lời cũng chẳng qua tùy cách phá chấp, theo bệnh cho thuốc mà thôi. Từ đời Tống về sau, người học đạo căn tánh yếu ớt cạn hẹp, nói được mà làm không được.

Ví như nói “buông hết tất cả”, “không nghĩ thiện ác”, thảy đều buông mà không hết, không nghĩ thiện thì nghĩ ác. Đến thời đại này Tổ sư bất đắc dĩ dùng biện pháp lấy độc trừ độc, dạy người học tham công án hay khán thoại đầu. Thậm chí thiết tha cắn chặt một câu “Tử thoại đầu”, dạy phải nghiến ngầm cấp bách không một sát-na lơi lỏng, giống như con chuột khoét rương cắn mãi một chỗ, chưa thủng thì không dừng. Dạy như vậy, mục đích lấy một niệm trừ muôn niệm. Kỳ thật, đó cũng là một biện pháp bất đắc dĩ, như mụt nhọt độc trong thân, nếu không dùng dao mổ thì bệnh khó lành. Công án của cổ nhân rất nhiều, sau này chuyên dạy khán thoại đầu, khán “Mang thây thúi ấy là gì?”, khán “Trước khi cha mẹ chưa sanh, thế nào là mặt thật xưa nay của ta?”. Gần đây, các nơi phần nhiều dùng một câu thoại đầu khán “Niệm Phật là gì?”. Kỳ thật, những câu thoại đầu đều cùng một loại, đều rất bình thường không có gì kỳ lạ đặc biệt. Có thể ta nói: khán

“Niệm kinh là gì?”, khán “Trì chú là gì?”, khán “Lễ Phật là gì?”, khán “Đi đường là gì?”, khán “Ngủ mới thức là gì?”… đều cùng một loại như nhau. Sau chữ gì là đáp án, nó vốn là tâm. Thoại (lời nói) từ tâm khởi, tâm là đầu của thoại. Niệm từ tâm khởi, tâm là đầu của niệm. Muôn pháp đều từ tâm khởi, tâm là đầu của muôn pháp. Kỳ thật, thoại đầu tức là niệm đầu, trước niệm chính là tâm. Nói thẳng, trước khi một niệm chưa sanh là thoại đầu. Do đây, chúng ta biết khán thoại đầu tức là quán tâm. Trước khi cha mẹ chưa sanh, mặt thật xưa nay tức là tâm. Khán trước khi cha mẹ chưa sanh, mặt thật xưa nay là quán tâm. Tánh cũng tức là tâm. Câu “Phản văn văn tự tánh” (xoay cái nghe nghe tự tánh) là phản quán quán tự tâm.

Câu “Viên chiếu thanh tịnh giác tướng” (chiếu khắp tướng giác thanh tịnh), thanh tịnh giác tướng tức là tâm, chiếu tức là quán. Tâm tức là Phật, niệm Phật tức là quán Phật, quán Phật tức là quán tâm. Sở dĩ nói “khán thoại đầu” hoặc nói “khán niệm Phật là gì ”, đều là quán tâm, quán chiếu giác thể tự tâm thanh tịnh, là quán chiếu Phật tánh của mình. Tâm tức là tánh, tức là giác, tức là Phật, không có hình tướng chỗ nơi, trọn không thể được, sẵn vậy thanh tịnh, khắp cả pháp giới, không ra không vào, không qua không lại, chính là xưa nay hiện thành Pháp thân Phật thanh tịnh. Hành nhân thu nhiếp lục căn “khán từ chỗ một niệm mới sanh”, soi xét một câu thoại đầu này, khán đến chỗ tự tâm thanh tịnh ly niệm. Lại tiến lên, càng thầm kín dày dặc, lặng lẽ yên tịnh, tuy tịch mà chiếu, thẳng đó ngũ uẩn đều không, thân tâm đều vắng lặng, hoàn toàn không có một việc. Từ đây ngày đêm đi đứng ngồi nằm như như không động, càng lâu công phu càng dày liền được thấy tánh thành Phật, vượt qua mọi khổ ách. Xưa Tổ sư Cao Phong nói: “Người học đạo hay khán một câu thoại đầu, như gieo hòn gạch xuống hồ sâu muôn trượng, rơi thẳng tận đáy, được vậy trong bảy ngày, nếu không khai ngộ, Lão tăng xin dâng thủ cấp”.

Bạn đồng tham thiền! Câu nói của người xưa là chân ngữ, thật ngữ, không phải lời nói dối trá lừa đảo đâu!Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Thích Thanh Từ":Kinh Kim CangBát Nhã Tâm KinhĐốn Ngộ Nhập Đạo Yếu MônTham Thiền Yếu ChỉThiền Tông Trực ChỉThiền Tông Vĩnh Gia TậpThiền Tông Bản HạnhTọa Thiền Dụng Tâm KýTam Tổ Trúc LâmThiền Đốn NgộThiền Sư Trung HoaBước Đầu Học PhậtThiền Sư Việt Nam

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tham Thiền Yếu Chỉ PDF của tác giả Thích Thanh Từ nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Triết Lý Đại Đồng (Đạo Cao Đài)
Đức Hộ-Pháp nói: “Sở dĩ Đức CHÍ-TÔN chọn đất nước Việt-Nam này làm Thánh-Địa để Phổ-Độ chúng sanh kỳ ba, chỉ vì Việt Nam là nơi kết hợp được tinh hoa của tất cả các nguồn Văn minh trên thế giới, Việt Nam là nơi tổng hợp các ngành đạo đức: Nho, Lão, Thích và cũng là nơi gặp gỡ của hai nền văn minh Đông Tây”Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Đạo Cao Đài":Kinh Sám HốiThượng Đế Giảng Chân LýPhật Mẫu - Diêu Trì Kim MẫuTìm Hiểu Về Thiên Tai Và Thiên CơĐại Giác Thánh KinhVì Sao Thờ Chữ KhíLuyện Tinh - Khí - ThầnChiết Tự Chữ HánThánh Ngôn Hiệp TuyểnBước Đầu Học ĐạoGóp Nhặt Chuyện ĐạoThất Chân Nhân QuảGiáo Lý Đạo Cao Đài Cơ BảnTriết Lý Đại ĐồngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Triết Lý Đại Đồng PDF của tác giả Đạo Cao Đài nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Lão Tử Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến Lê (Nguyễn Hiến Lê)
Đạo Đức Kinh (tiếng Trung: 道德經; phát âm tiếng Trung: nghe (trợ giúp·chi tiết)) là quyển sách do triết gia Lão Tử viết ra vào khoảng năm 600 TCN. Theo truyền thuyết thì Lão Tử vì chán chường thế sự nên cưỡi trâu xanh đi ở ẩn. Ông Doãn Hỷ đang làm quan giữ ải Hàm Cốc níu lại “nếu ngài quyết đi ẩn cư xin vì tôi để lại một bộ sách!”, Lão Tử bèn ở lại cửa ải Hàm Cốc viết bộ “Đạo Đức Kinh” dặn Doãn Hỷ cứ tu theo đó thì đắc đạo. Do đó, Đạo Đức Kinh còn được gọi là sách Lão Tử. Đạo Đức Kinh gồm có 81 chương với khoảng 5000 chữ Hán, chia làm 2 phần: Thượng Kinh và Hạ Kinh. Thượng Kinh gồm 37 chương, bắt đầu bằng câu: “Đạo khả Đạo phi thường Đạo”. Thượng Kinh luận về chữ Đạo nên được gọi là Đạo Kinh. Hạ Kinh gồm 44 chương, bắt đầu bằng câu: “Thượng Đức bất Đức thị dĩ hữu Đức”. Hạ Kinh luận về chữ Đức nên được gọi là Đức Kinh. Đạo Đức Kinh có 2 bản dịch ra tiếng Việt phổ biến bởi Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Duy Cần. Ngoài ra còn có một bản dịch song ngữ Anh-Việt của dịch giả Vũ Thế Ngọc, căn cứ trên cổ bản Mã Vương Đôi với câu mở đầu: “Đạo khả đạo dã phi hẳng đạo dã, danh khả danh dã phi hằng danh dã”. Tìm mua: Lão Tử Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến Lê TiKi Lazada Shopee Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Hiến Lê":Kinh Dịch - Đạo Của Người Quân Tử7 Bước Đến Thành CôngĐắc Nhân TâmMạnh TửSống 365 Ngày Một NămMột Lương Tâm Nổi LoạnRèn Nghị Lực Để Lập ThânSống ĐẹpKhổng Tử Và Luận NgữGiải Nghĩa 64 Quẻ Kinh DịchBảy Ngày Trong Đồng Tháp MườiHồi Ký Nguyễn Hiến LêNhững Vấn Đề Của Thời ĐạiRèn Luyện Tình CảmTrang Tử Nam Hoa KinhÝ Cao Tình ĐẹpBảy Bước Đến Thành CôngDạy Con Theo Lối MớiGương Chiến ĐấuGương Hy SinhHàn Phi TửLiêt Tử Và Dương TửNghề Viết VănSăn Sóc Sự Học Của Con EmSử Trung QuốcTổ Chức Gia ĐìnhVài Nét Sơ Lược Về Sự Phát Triển Của Triết Học Trung HoaĐường, Tống Bát Đại GiaLão Tử Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến LêGương Kiên NhẫnCon Đường Thiên LýĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lão Tử Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến Lê PDF của tác giả Nguyễn Hiến Lê nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Lão Tử Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến Lê (Nguyễn Hiến Lê)
Đạo Đức Kinh (tiếng Trung: 道德經; phát âm tiếng Trung: nghe (trợ giúp·chi tiết)) là quyển sách do triết gia Lão Tử viết ra vào khoảng năm 600 TCN. Theo truyền thuyết thì Lão Tử vì chán chường thế sự nên cưỡi trâu xanh đi ở ẩn. Ông Doãn Hỷ đang làm quan giữ ải Hàm Cốc níu lại “nếu ngài quyết đi ẩn cư xin vì tôi để lại một bộ sách!”, Lão Tử bèn ở lại cửa ải Hàm Cốc viết bộ “Đạo Đức Kinh” dặn Doãn Hỷ cứ tu theo đó thì đắc đạo. Do đó, Đạo Đức Kinh còn được gọi là sách Lão Tử. Đạo Đức Kinh gồm có 81 chương với khoảng 5000 chữ Hán, chia làm 2 phần: Thượng Kinh và Hạ Kinh. Thượng Kinh gồm 37 chương, bắt đầu bằng câu: “Đạo khả Đạo phi thường Đạo”. Thượng Kinh luận về chữ Đạo nên được gọi là Đạo Kinh. Hạ Kinh gồm 44 chương, bắt đầu bằng câu: “Thượng Đức bất Đức thị dĩ hữu Đức”. Hạ Kinh luận về chữ Đức nên được gọi là Đức Kinh. Đạo Đức Kinh có 2 bản dịch ra tiếng Việt phổ biến bởi Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Duy Cần. Ngoài ra còn có một bản dịch song ngữ Anh-Việt của dịch giả Vũ Thế Ngọc, căn cứ trên cổ bản Mã Vương Đôi với câu mở đầu: “Đạo khả đạo dã phi hẳng đạo dã, danh khả danh dã phi hằng danh dã”. Tìm mua: Lão Tử Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến Lê TiKi Lazada Shopee Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Hiến Lê":Kinh Dịch - Đạo Của Người Quân Tử7 Bước Đến Thành CôngĐắc Nhân TâmMạnh TửSống 365 Ngày Một NămMột Lương Tâm Nổi LoạnRèn Nghị Lực Để Lập ThânSống ĐẹpKhổng Tử Và Luận NgữGiải Nghĩa 64 Quẻ Kinh DịchBảy Ngày Trong Đồng Tháp MườiHồi Ký Nguyễn Hiến LêNhững Vấn Đề Của Thời ĐạiRèn Luyện Tình CảmTrang Tử Nam Hoa KinhÝ Cao Tình ĐẹpBảy Bước Đến Thành CôngDạy Con Theo Lối MớiGương Chiến ĐấuGương Hy SinhHàn Phi TửLiêt Tử Và Dương TửNghề Viết VănSăn Sóc Sự Học Của Con EmSử Trung QuốcTổ Chức Gia ĐìnhVài Nét Sơ Lược Về Sự Phát Triển Của Triết Học Trung HoaĐường, Tống Bát Đại GiaLão Tử Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến LêGương Kiên NhẫnCon Đường Thiên LýĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lão Tử Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến Lê PDF của tác giả Nguyễn Hiến Lê nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bí Mật Của Bông Hoa Vàng: Cuốn Sách Đạo Giáo Trung Quốc Về Thiền (Richard Wilhelm)
Bí mật của bông hoa vàng là một cuốn sách về thiền và thuật giả kim Trung Quốc được dịch bởi Richard Wilhelm và được nhận xét bởi Carl Jung. Nó ám chỉ một phép ẩn dụ mà mỗi người trong chúng ta bắt buộc phải thức tỉnh, để mở ý thức của chúng ta về phía Ánh sáng, một lối mở nguyên thủy được biểu tượng thông qua bông hoa vàng, một trung tâm quyền lực nơi mọi thứ lưu thông và vượt qua. Nói về công việc này là đề cập đến một trong những văn bản về tôn giáo Đạo giáo quan trọng nhất nhưng cũng là những văn bản gây tranh cãi nhất. Cuốn sách của Bí mật của bông hoa vàng là bản dịch "Tây hóa" của một trong những di sản tinh thần quan trọng nhất của châu Á. Vì vậy, và như đã xảy ra với Cuốn sách Tây Tạng của người chết, nó đã được tiến hành để đơn giản hóa nhiều chi tiết để biến nó thành thủ công trên yoga Trung Quốc mà thế giới phương Tây có thể hiểu một cách hoàn hảo. Tuy nhiên, nó là nhiều hơn nữa. Được biết, lời chứng đầu tiên của văn bản này có nguồn gốc từ thế kỷ thứ bảy, trên một số bảng gỗ. Đó là một chuyên luận cổ của Trung Quốc về chủ nghĩa bí truyền được truyền miệng. Các nguyên tắc, mật mã và trí tuệ của nó được thu thập bởi một thành viên của cái gọi là Tôn giáo Ánh sáng, người lãnh đạo là Lu Yan. Người ta cho rằng tất cả những phương pháp được mô tả đều quay trở lại với những ý tưởng đã xuất hiện ở Ba Tư và bắt nguồn từ truyền thống ẩn dật của Ai Cập. Đó là như chúng ta thấy, một cuốn sách siêu việt. Bây giờ, sự phức tạp của tôn giáo của họ là vô cùng lớn. Nói về quá trình giả kim mà qua đó chúng ta sẽ chiếu sáng nơi ở của ý thức tâm linh. Đối với điều này, chúng ta phải đặt sự chú ý của chúng ta vào một không gian linh thiêng bên trong, trong đóa hoa vàng vừa là nguồn gốc vừa là mục tiêu của chúng ta. Mặt khác, và mặc dù Wilhelm và Carl Jung, trên đường đi một số khái niệm, quản lý để cung cấp cho chúng tôi một công việc mà chúng tôi có thể bắt đầu những ý tưởng đó, theo triết lý đó. "Bông hoa vàng, là ánh sáng và ánh sáng của thiên đường là Đạo. Có "túi mầm", nơi tinh túy và sự sống vẫn là một đơn vị. Sự ra đời của quá trình giả kim diễn ra, khi bóng tối sinh ra Ánh sáng ". Tìm mua: Bí Mật Của Bông Hoa Vàng: Cuốn Sách Đạo Giáo Trung Quốc Về Thiền TiKi Lazada Shopee -Bí mật của bông hoa vàng- Bí mật của bông hoa vàng, một cuộc tìm kiếm bên trong Carl Jung kể trong hồi ký của mình rằng ông luôn cảm thấy hứng thú với triết học phương Đông. Đó là vào khoảng năm 1920 khi anh bắt đầu thử nghiệm Kinh Dịch, sâu sắc gần như không nhận ra điều đó trong trí tuệ tổ tiên, bằng ngôn ngữ tượng hình đó và trong những truyền thống phương Đông đã làm anh say đắm. Chính vào những năm đó, khi anh gặp Richard Wilhelm, một nhà tội lỗi học, nhà thần học và nhà truyền giáo nổi tiếng người Đức, chuyên về dịch thuật các tác phẩm từ tiếng Trung sang tiếng Đức. Ý tưởng dịch cuốn sách của Bông hoa vàng Anh rời khỏi đó, sau cuộc gặp đầu tiên ở "Trường học trí tuệ" và sau đó là câu lạc bộ tâm lý học. Năm 1923, tác phẩm được đưa ra ánh sáng với lời mở đầu và bình luận của Jung. Năm 1931, Carl Baynes đã dịch nó sang tiếng Anh và sớm đi khắp thế giới để trở thành bằng cách nào đó, trong cuốn sách mà nhiều người đã ở đầu giường và nói về yoga Trung Quốc. Tuy nhiên, Có bí mật của bông hoa vàng một mình của yoga và thiền? Không hề. Tầm quan trọng của việc phát triển hoa vàng đặc biệt của chúng tôi Tiêu đề ban đầu của cuốn sách đã nói lên một cái gì đó như "Hướng dẫn phát triển bông hoa vàng". Để hiểu mục đích của cuốn sách này, trước tiên chúng ta phải biết hoa vàng là gì. Bông hoa vàng là một phép ẩn dụ, nhưng một phép ẩn dụ đề cập đến một loại giả kim thuật, để chuyển đổi nội bộ. Triết lý Đạo giáo khẳng định rằng có một năng lượng tâm linh vượt qua tất cả chúng ta. Một ánh sáng tượng trưng cho lương tâm của chúng ta. Để đánh thức ánh sáng hoặc bông hoa vàng của chúng ta, chúng ta phải thực hiện một loạt các bài thiền và bài tập mà trong văn bản gốc, họ gọi là giả kim thuật năng lượng. Những bài tập liên tục này sẽ cho phép chúng ta từng chút một, tập trung ánh sáng và định hình (làm nảy mầm) bông hoa vàng. Rất có thể là từ tầm nhìn phía tây của chúng ta, tất cả những nguyên tắc này được nêu ra trong bí mật của bông hoa vàng, dường như chúng ta có một cái gì đó rất xa và thậm chí là người lạ. Tuy nhiên, hãy chờ một lát, trong những gì thu hút sự chú ý của Carl Jung. Trong sắc thái đó với tư cách là một bác sĩ tâm thần và tiên phong trong tâm lý học phân tích, ông đã quyến rũ ông trong suốt phần lớn cuộc đời: bông hoa vàng buộc chúng ta phải gạt bỏ tâm trí của mình và bị xã hội chiếm giữ, để đạt đến một tâm trí cao hơn, tự do hơn, sáng tạo hơn và thậm chí là thiên thể. Ánh sáng luôn luôn lọc trong các xoáy của chúng ta. Lương tâm của chúng ta tràn ra xung quanh chúng ta trong mọi thứ chúng ta muốn, trong những gì chúng ta mơ ước hoặc trong những gì xung quanh chúng ta. Chúng ta phải tập trung tâm trí vào bên trong để cho phép bông hoa vàng nảy mầm và đánh thức ý thức. Bình tĩnh để mở rộng trái tim Tại thời điểm này, nhiều độc giả của chúng tôi sẽ hỏi một câu hỏi rõ ràng hơn. Tôi nên thực hiện loại giả kim / thiền nào để đạt được ánh sáng đó được mô tả trong Bí mật của bông hoa vàng? Câu trả lời nằm ở một thứ dường như có thể đơn giản nhưng đòi hỏi sự cống hiến, thực hành và ý chí tuyệt vời: chúng ta phải học cách làm dịu tâm trí để mở rộng trái tim. Chúng ta có thể bắt đầu bằng cách tự hỏi mình là ai. Có lẽ, sau câu hỏi đó và gần như không nhận ra nó, chúng ta sẽ hình dung ra khuôn mặt của mình. Tuy nhiên,, những gì định nghĩa những gì chúng ta không phải là cơ thể của chúng ta: chúng là những suy nghĩ. Và rất có thể, là họ nói quá nhiều, nói với chúng tôi những lời nói dối và khiến chúng tôi tin những điều không có thật. Vì vậy, điều tốt nhất là im lặng họ. Để làm dịu tin đồn về ý nghĩ đó, chúng ta sẽ tập thở sâu, để từng chút một, nội thất của chúng ta sẽ im lặng. Đây là điều chúng tôi sẽ không đạt được trong một ngày hoặc một tuần. Làm dịu tâm trí cần có thời gian. Khi chúng ta đạt đến sự im lặng bên trong, sự phản ánh sẽ đến. Và ngay lập tức, chúng tôi sẽ liên lạc với tinh thần của trái tim mình, với bệ đỡ nơi lương tâm được đặt và làm việc thường xuyên với ai. Bí mật của bông hoa vàng dựa trên việc thực hành thiền định một cách thường xuyên. Tại một số điểm, khi công việc cẩn thận đó lần lượt loại bỏ tất cả các lớp đã bị mắc kẹt và điều hòa tâm trí của chúng ta, chúng ta sẽ hình dung ra một mạn đà la. Một hình chứa biểu tượng giả kim phát sáng đó sẽ giải phóng hoàn toàn chúng ta: bông hoa vàng.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bí Mật Của Bông Hoa Vàng: Cuốn Sách Đạo Giáo Trung Quốc Về Thiền PDF của tác giả Richard Wilhelm nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.