Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thời Khắc Chúng Ta Không Thể Quay Trở Lại

Tác phẩm văn học viết về tuổi trẻ chân thực và cảm động nhất đến từ tác giả của series đình đám No.6 Hơn 1 triệu bản đã được bán ra ở Nhật năm 2010 và tạo nên làn sóng thức tỉnh mạnh mẽ đến nhận thức và tư duy của hàng triệu độc giả. Người ta nói, mỗi người nếu được nuôi dưỡng, dạy dỗ trong  môi trường gia đình khác nhau, chúng khác nhau về tính cách và cách sống. Thế nhưng trường học, há chẳng phải cũng là một môi trường, một gia đình, một cái nôi nuôi dưỡng không chỉ một, mà còn nhiều cá thể đấy ư? “Thời khắc chúng ta không thể quay trở lại” là một câu chuyện trong trẻo về những đứa trẻ ở độ tuổi 13 - trong những ngày tháng đầu tiên tại ngôi trường trung học. Đó là cô bạn Mari Fujihira cả tin, tốt bụng, là Ayabe Miyuki cương trực thẳng thắn, là Karino Shingo có đôi phần trẻ con trong tính cách nhưng lại rất mạnh mẽ, là Chihiro Komaki thông minh lanh lợi. Bốn con người, 4 đường thẳng lớn lên trong 4 môi trường hình thành tính cách khác nhau nhưng rồi họ đã tìm được một điểm giao nhau qua một mùa hè gắn liền với môn lịch sử! Năm đầu trung học của họ trôi qua, là những buổi sáng cuống cuồng lên lớp cho kịp giờ, là những bài toán khó nhằn khô khan, là những trò đùa khả ố chưa kịp được nhận thức đúng đắn, là những giận hờn vu vơ, là những điều khó nói với bố mẹ… Tuổi thơ của những đứa trẻ ấy, dù có lúc ngập tràn màu hồng, đôi khi lại xen kẽ những màu xám, nhưng đều là bài học nhân văn giúp chúng tự trưởng thành, lớn lên khi lễ “Thành nhân” ngày càng đến gần. Tình bạn, tình yêu, gia đình, những nhận thức dần được nuôi dưỡng khi những con người ấy ở bên nhau, cùng nhau tìm lời giải cho những khó khăn, cùng cười nói vui đùa tận hưởng những ngày tháng vô ưu vô lo. Mỗi dòng trong cuốn sách này sẽ khiến bạn thấy như chính mình đang soi gương, chính mình là nhân vật trong truyện, giúp bạn biết trân quý những người thương bên cạnh, biết tận hưởng hoặc nuối tiếc tuổi trẻđể sống một cuộc đời bớt vô nghĩa hơn! Không chỉ là một tác phẩm làm nổi bật lên được nét văn hóa đặc sắc, tinh tế của văn hóa Nhật Bản,  tác giả còn gửi gắm trong “Thời khắc chúng ta không thể quay trở lại” những cảm nhận tinh tế về tình bạn, niềm đam mê, nhiệt huyết cũng như sự quyết tâm – những phẩm chất đáng quý của người Nhật Bản. Nếu là một tín đồ yêu mến những cuốn sách có cốt truyện nhẹ nhàng nhưng để lại ấn tượng vô cùng sâu đậm trong tiềm thức thì đừng bỏ lỡ câu chuyện thấm đượm giá trị nhân văn của văn hóa Nhật Bản này nhé! *** Atsuko Asano Sinh năm 1954 tại tỉnh Okayama. Nhận Giải thưởng Văn học thiếu nhi Noma với tác phẩm “Battery”, giải thưởng của Hiệp hội Văn học Thiếu nhi Nhật Bản với tác phẩm “Battery II”, Giải thưởng Xuất bản Văn học thiếu nhi của nhà xuất bản Shogakukan với loạt tác phẩm “Battery”. Năm 2011, bà nhận Giải thưởng Văn học lãng mạn Shimase lần thứ 18 cho tác phẩm “Tamayura”. Phạm vi sáng tác rộng, từ văn học thiếu nhi đến văn học đại chúng, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết thể thao, lôi cuốn nhiều độc giả. *** CHIẾC GƯƠNG GẤU TRÚC  MARI Bất ngờ quá. Tim mình vẫn đang đập thình thịch trong lồng ngực. Tính từ lúc nhập học cấp hai đến giờ mới chưa đầy một tháng, vậy mà đã xảy ra chuyện như thế này. Lại còn với một đứa con gái như mình nữa chứ. Mình lấy chiếc gương cầm tay ra khỏi túi ngực của áo đồng phục. Chị hai đã tặng nó cho mình làm quà mừng mình vào cấp hai. Chiếc gương nhỏ hình tròn có hình vẽ chú gấu trúc và có thể gấp làm đôi. “Con gái ấy, Mari à, lúc nào cũng phải mang theo gương bên mình. Không phải chỉ để trông cho điệu đà thôi đâu, mà còn để khi nhìn khuôn mặt mình trong gương, em có thể lên tinh thần kiểu như ‘Được, hôm nay cũng hoàn hảo, trông mình rất xinh’. Nếu tóc tai bù xù, nếp nhăn giữa hai lông mày cứ cau lại rồi trưng ra vẻ mặt u ám thì rất xấu đúng không nào? Những lúc như thế, em phải nhìn vào gương và thử cười lên thật xinh xắn đấy...” Người chị gái năm nay sẽ tròn hai mươi tuổi của mình đã nói thế rồi đưa cho mình chiếc gương gấu trúc này. Giấy gói có họa tiết hình hoa màu đỏ, đến cả ruy băng cũng màu đỏ. Chị hai đã chọn cho mình trong cửa hàng chuyên bán những món đồ mộng mơ ở Shinjuku. Mình đáp “Em cảm ơn”. Mình đã suýt khóc. Không phải mình không vui trước tình cảm của chị. Nhưng mà... Ước gì không phải gương mà là một thứ khác, bút chì kim, sổ tay hay một món trang sức nhỏ thôi cũng được, một thứ gì đó khác... Mình đã trót nghĩ thế. Mình thấy ghét chính bản thân vì suy nghĩ đó. Chắc mặt mình trông khó coi lắm. Chị mình rất đẹp. Mắt chị hai mí to tròn, gương mặt nhỏ, sống mũi cũng thẳng tắp, trông như diễn viên vậy. Chị còn thông minh nữa. Chị đang là sinh viên năm hai của một trường đại học tư thục nổi tiếng trong thành phố. Chị ấy có thể soi mình trong gương mà nói “Được, hôm nay cũng hoàn hảo, trông mình rất xinh” để lên tinh thần. Nhưng mình thì... Mình không làm được. Cả mặt lẫn mũi mình đều tròn. Da mình trắng, nhưng lại nổi đầy tàn nhang. Và hơn hết, mình ghét đôi mắt của mình. Vừa một mí, vừa nhỏ. Mỗi lần nhìn vào gương, mình lại thở dài. Sao có thể lấy tinh thần với gương mặt thế này được? Hóa ra chị mình không hiểu cảm giác đó. Nghĩ vậy, mình có chút buồn. Chiếc gương gấu trúc vẫn nằm trong túi áo ngực của mình suốt từ hôm khai giảng. Hôm nay là lần đầu tiên mình lấy nó ra. Cuối tháng Tư. Từ hoa sang lá, mùa đang chuyển mình trên từng tán cây. Mình đang trên đường từ trường về, lúc này chắc cũng hơn bốn giờ chiều rồi. Bầu trời vẫn sáng lên màu xanh rất đẹp. Tựa người vào một thân cây ven đường, mình nhìn vào gương. Cái mũi tròn, những đốm tàn nhang, đôi mắt nhỏ. Vẫn là gương mặt mình, chưa có chỗ nào thay đổi. Mà không, hình như má có đỏ hơn mọi khi. Nó hơi ửng lên màu hồng nhạt. Mình thử cười. Hai gò má ửng hồng khẽ chuyển động. “À, ừm,... Xin lỗi cậu vì đường đột quá, nhưng mà, cậu hẹn hò với tớ nhé?” Gương mặt của Karino hiện ra trong đầu mình. Mình như nghe lại được giọng nói của cậu ấy. Lúc nãy, khi chuẩn bị ra về, cậu ấy gọi mình dừng lại, rồi tỏ tình như thế ở khu tủ đựng giày. Mình đã rất bất ngờ, thực sự bất ngờ. Trong đám con trai lớp 7C, Karino hẳn là thuộc dạng được con gái quý mến. Nghe nói từ hồi tiểu học cậu ấy đã khá đào hoa rồi. ‘Cậu ta không hẳn đẹp trai, nhưng nụ cười thân thiện và thần kinh vận động rất được.’ Kurisaka ở cùng tổ với cậu ấy đã nói thế. Một Karino hoàn hảo như vậy lại đề nghị chuyện hẹn hò với mình. Như thế nghĩa là cậu ấy thích mình phải không nhỉ? Lại có chuyện như vậy sao? Khuôn mặt mình ở trong gương đang nhìn lại mình chằm chằm. Cậu thích tớ ở chỗ nào? Cậu thích điều gì ở tớ? Mình đã muốn hỏi cậu ấy. Tại sao Karino lại muốn hẹn hò với một đứa con gái hoàn toàn bình thường và nhàm chán như mình? Mình không hiểu. Mình muốn cậu ấy cho mình biết điều đó. “Fujihira ơi!” Có tiếng gọi từ đằng sau. Mình giật mình tới mức tưởng như đã nhảy dựng cả lên. Chiếc gương trượt khỏi tay mình, rơi xuống. Nó phát ra một tiếng động chói tai rồi vỡ choang trên vỉa hè. “Ối...” Hai tiếng kêu thảng thốt đồng thanh vang lên. Một là của mình, và một giọng nữa là của... “Ayabe à...” Là cô bạn cùng lớp với mình, Ayabe Miyuki. Trong lúc mình còn đang đứng thần người ra, Ayabe đã nhanh nhẹn nhặt lại những mảnh vỡ của chiếc gương cho mình. Một mùi hương dễ chịu chợt thoảng qua. Không phải nước hoa. Đó là hương thơm thoang thoảng rất dịu nhẹ. “Xin lỗi nhé, Fujihira. Tớ không cố ý làm cậu giật mình đâu...” Chiếc gương gấu trúc đã vỡ thành ba mảnh gọn gàng. Mình gói chúng lại bằng khăn giấy và bỏ vào túi áo ngực. Rồi mình bắt gặp ánh mắt Ayabe. Bạn ấy xinh thật đấy. Mái tóc ngắn suôn thẳng. Làn da rám nắng nhưng rất mịn màng. Đôi đồng tử mang màu sắc kỳ lạ, như hòa trộn giữa đen và tím. Trông bạn ấy không giống một đứa học sinh lớp bảy như mình. Bạn ấy rất xinh đẹp, xinh và rất chững chạc. Bị bạn ấy nhìn chăm chú, mình chợt cảm thấy hồi hộp. Mình đành giả bộ cúi xuống tìm kiếm những mảnh vỡ của chiếc gương. Ayabe vươn tay ra, chạm vào tóc mình. “Vừa rồi tại tớ để ý thấy cái này nên mới gọi bạn, xin lỗi nhé.” Ayabe phe phẩy một cái lá nhỏ màu xanh nhạt trước mắt mình. Là lá cây ven đường. Không biết nó vướng vào khi nào nữa. Mình đã không nhận ra. Thì ra mình mải soi gương trong khi vẫn để nguyên cái lá vướng trên tóc. Và Ayabe đã nhìn thấy cảnh đó. Xấu hổ thật. Đầu mình vẫn cúi xuống, không thể ngẩng mặt lên được. “Lá xanh vẫn đẹp hơn chứ nhỉ?” Ayabe chợt nói. Nghe như bạn ấy đang tự nói với mình. “Sao cơ?” “Thì, mọi người hay khen lá đỏ đẹp, phải không? Nhưng mà, cậu không thấy lá đỏ có vẻ gì đó hơi già cỗi sao?” Mình gật đầu. Mình không nghĩ lá đỏ có vẻ gì già cỗi, nhưng sắc đỏ của lá trước khi lìa cành có gì đó thật buồn. Mình mím môi rồi thì thầm. “Không hẳn là mình cảm thấy nó già cỗi, mà là... ừm, mình thích lá xanh hơn nên...” “Vậy thì, cái này tặng cho Fujihira.” Bạn ấy đặt chiếc lá nhỏ xíu, vẫn còn quá non để gọi là lá xanh lên tay mình. Đây là lần đầu tiên mình có một cuộc chuyện trò đúng nghĩa với Ayabe. Ayabe thường hay chống cằm rồi nhìn ra bên ngoài qua cửa sổ lớp học. Cũng có người bảo bạn ấy khó gần, còn mình thì thấy gương mặt nhìn nghiêng của bạn ấy trông như thể lúc nào cũng đang chuyên tâm suy nghĩ về một chuyện gì đó. Mình hơi tò mò, không biết bạn ấy đang nghĩ gì. Chỉ đơn giản là tò mò thôi, chứ mình không thể vô tư hỏi “Cậu đang nghĩ gì thế?” được. Dù có là bạn học cùng lớp, mình vẫn không thể thoải mái bắt chuyện khi mà mình hầu như chẳng biết gì về người ấy. Hơn nữa Ayabe lại đặc biệt khó gần... Không phải mình có ý xấu, chỉ là trong ấn tượng của mình, bạn ấy luôn đứng một mình. Mình chưa từng tưởng tượng đến chuyện bạn ấy lại đột nhiên bắt chuyện như thế này. “Cái gương vỡ rồi, để tớ đền cho cậu nhé...” Ayabe đột ngột thở ra một hơi rồi nói. Mình lắc đầu nguầy nguậy, đến nỗi chóng cả mặt. “Đền gì chứ... không cần đâu. Tớ đứng thẫn thờ soi gương là... tớ soi gương là vì, hôm nay, ừm, tớ được Karino bày tỏ tình cảm ấy...” Lưỡi mình líu cả lại. Hai má nóng bừng. “Karino sao? Ra vậy, hai cậu sẽ hẹn hò à?” “Hả? Tớ không biết... Nhưng mà, tớ cảm thấy vui vui. À, không phải là tớ thích Karino đâu... Tớ chẳng có gì nổi bật cả, vậy mà lại được tỏ tình... Nói sao đây, vì thế nên tớ thấy vui, một chút thôi...” Mình đang nói cái gì vậy? Mình đang nói gì với Ayabe - cô bạn chẳng mấy khi mình nói chuyện cùng thế này? Mình cuống lên. Ayabe nghiêng đầu. “Thế à? Riêng tớ thấy Fujihira là người khá nổi bật đấy chứ.” “Sao cơ?” “Cậu thường lặng lẽ thay nước cho bình hoa, đúng không nào? Hễ thấy rác rơi lung tung là cậu lại nhặt rồi cẩn thận bỏ vào thùng rác nữa này. Nhìn cậu như vậy, tớ thấy cậu đáng khâm phục lắm.” Mình tròn mắt nhìn Ayabe. Thay nước? Vứt rác? Hóa ra có những người quan sát cả những chuyện như thế. Gương mặt Ayabe chợt giãn ra thành một nụ cười. Bạn ấy giơ tay lên, nói “thế nhé” rồi quay lưng đi. Cứ như thế, bạn ấy lẫn vào con đường đông đúc buổi chiều tối. Nhịp tim của mình trở nên nhanh hơn. Ngày hôm nay, mình đã được hai người bạn cùng lớp là Karino và Ayabe bắt chuyện. Mình đã được tỏ tình, được nhận xét là “đáng khâm phục”. Đúng là một ngày tuyệt vời. Cảm giác hân hoan tràn ngập trong lòng mình. Chiếc gương gấu trúc đã vỡ mất rồi, nhưng tâm trạng của mình thì bừng sáng đầy hân hoan như mùa mới đang bắt đầu vậy. Về đến nhà, mình thấy mẹ đang ngồi một mình trên ghế trong nhà bếp. Mình chào mẹ “Con về rồi ạ”, nhưng mẹ không đáp lại. “Mẹ ơi?” Mình gọi một lần nữa. Mẹ nhìn mình, mắt nheo lại ngờ ngợ. Tâm trạng hân hoan khi nãy của mình chùng xuống. “Mẹ à, con là Mari đây.” “Ơ... à, Mari à. Mẹ không để ý.” “Mẹ lại thấy không khỏe sao?” Mẹ nhăn mặt, cố để cười. Mình thở dài. Mẹ đã đổ bệnh hơn nửa năm nay. Mẹ mắc nhiều chứng bệnh, gồm cả chóng mặt, bốc hỏa, tê cơ... Hình như ở bệnh viện, mẹ được chẩn đoán có triệu chứng của thời kỳ mãn kinh. Có vẻ tình trạng này xảy ra khá phổ biến với những phụ nữ tầm tuổi mẹ. “Thời gian sẽ chữa khỏi hết ấy mà. Trước mắt em cứ nghỉ ngơi đi đã.” Bố đã nói thế rồi bắt đầu đảm đương việc nhà. Chị mình cũng đang rất cố gắng. Mình cũng sẽ giúp một tay. Dù không giỏi mấy chuyện này, nhưng mọi người đều cố gắng thu xếp. Tất cả đang hợp sức với nhau để không khí trong nhà không xấu đi. Nhưng mình đã nhận ra. Gần đây, mẹ không nhận ra mình. Chỉ thỉnh thoảng thôi, nhưng mẹ không nhận ra mình. Kể cả mình có gọi mẹ, mặt mẹ cũng ngơ ngác như muốn hỏi “Ai thế?”. Ngay sau đó, mẹ sẽ mỉm cười và à lên một tiếng, “Mari đây mà”. Nhưng mỗi lần như thế, mình lại có cảm giác một cái hố sâu không đáy vừa mở ra dưới chân. Như thể sự tồn tại của mình trong mắt mẹ đang dần mờ nhạt đi, điều đó khiến mình thấy sợ. “Sang năm, Haruna cũng đón Lễ Thành nhân nhỉ, mẹ đang tính sẽ may furisode cho chị con đây.” Mẹ dò ngón tay trên trang tạp chí về kimono. Haruna, Haruna. Đó là tên của chị. Trong lòng mẹ, chị lúc nào cũng vô cùng sống động. Sẽ chẳng bao giờ có chuyện mẹ không nhìn thấy chị. Mình đưa tay lên túi áo ngực để cảm nhận sự tồn tại của chiếc gương. Mình nhớ lại lời của Karino và Ayabe. “Cậu hẹn hò với tớ nhé?” “Tớ thấy cậu đáng khâm phục lắm.” Chiếc gương đã vỡ làm ba mảnh nằm trong túi áo không hiểu sao lại khiến mình có cảm giác ấm áp như có hơi thở. Trái tim mình trở nên nhẹ nhõm. Ngước nhìn ra ngoài cửa sổ, mình bắt gặp một nhành cây đầy lá non đang đung đưa trong gió dưới bầu trời cao rộng. Mời các bạn đón đọc Thời Khắc Chúng Ta Không Thể Quay Trở Lại của tác giả Atsuko Asano & Thu Vũ (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thế Giới Trẻ Em
“Thế giới trẻ em” là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Ibragimov, đề cập đến những trang sử đau buồn của vùng đất Bắc Kavkaz vô cùng xinh đẹp và trù phú, đó là cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất (1994-1996) và lần thứ hai (1999-2000). Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violon đồng thời là nhà vật lý người Nga, nữ y tá người Chechnya và cậu bé tám tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên “Thế giới trẻ em”. Số phận của ba con người được tác giả thể hiện trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, trên nền của những biến động quan trọng diễn ra trong một đất nước vốn là thành trì hòa bình của thế giới. Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé khả năng tư duy thơ trẻ, và để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, nó đã phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì nó xử sự thơ ngây như đứa bé, lúc thì như người lớn để cố sống sót qua cuộc chiến. Câu chuyện về một đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn phải ngẫm nghĩ về thế hệ tương lai của dân tộc. Các cuộc chiến tranh nổ ra trên vùng đất Bắc Kavkaz thanh bình và giàu đẹp đã tàn phá tất cả những gì mà chính quyền Xô viết đã dày công vun đắp hàng chục năm qua và làm thay đổi số phận của hàng vạn con người. Bức tranh bi tráng đó đã được tác giả tái hiện một cách sâu sắc và chân xác từ góc nhìn của những người dân bình thường, là lời cảnh báo về những hậu quả tàn khốc mà chiến tranh có thể gây ra cho con người dù với lý do gì. Có thể chính vì vậy mà dòng cuối của cuốn sách, chính tác giả đã phải cay đắng thốt lên “Xin hãy tha thứ cho tôi và cho tất cả chúng tôi!”. Dẫu vậy, trên cái nền đau thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái với những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng ngàn năm qua làm nên một nước Nga hùng mạnh.   Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân-thiện-mỹ vì một tương lai tươi sáng cho vùng đất Bắc Kavkaz giàu đẹp.  *** Lấy bối cảnh vùng đất Bắc Kavkaz trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, tác giả Kanta Ibragimov kể câu chuyện bi thương của chiến tranh. Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violin đồng thời là nhà vật lý người Nga; nữ y tá người Chechnya và cậu bé 8 tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên "Thế giới trẻ em". Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé sự hồn nhiên của thơ trẻ. Để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, cậu bé phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì cậu xử sự ngây thơ như mọi đứa trẻ, khi lại như người lớn. Câu chuyện về đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn ngẫm nghĩ về tương lai của dân tộc.  Bên cạnh kể chuyện của những nhân vật trong cuộc chiến, Thế giới trẻ em còn là bức tranh hiện thực về chiến tranh. Những cuộc chiến đã tàn phá vùng đất Kavkaz thanh bình và giàu đẹp. Bức tranh bi tráng đó được tác giả tái hiện từ góc nhìn của những người dân bình thường; đó cũng là lời cảnh báo về hậu quả tàn khốc mà chiến tranh gây ra cho con người. Dịch giả Đào Minh Hiệp - người chuyển ngữ Thế giới trẻ em - cho rằng đây là một câu chuyện thấm đẫm chất nhân văn: "Dẫu vậy, trên nền câu chuyện bi thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái và những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng nghìn năm qua, làm nên một nước Nga hùng mạnh. Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân - thiện - mỹ vì một tương lai tươi sáng". Bản thân tác giả Ibragimov từng trải qua các cuộc chiến ly khai ở Chechnya. Ông vốn là một nhà khoa học, Cục phó Tổng cục thuế Liên bang Nga. Sau những gì xảy ra ở Chechnya, ông đưa gia đình trở về thành phố Grozny quê hương (thủ đô của vùng tự trị này). Tác phẩm đầu tay Cuộc chiến đi qua đưa tên tuổi Ibragimov nổi tiếng ở cả Liên bang Nga. Tổng thống Putin đã trao tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về Văn học nghệ thuật cho Ibragimov. Từ đó, nhà văn liên tiếp cho ra đời nhiều tiểu thuyết được đánh giá cao. Hiện tại Ibragimov tiếp tục nghiên cứu khoa học và giảng dạy để nuôi sống gia đình và sáng tác văn chương để nuôi dưỡng tâm hồn.  Các nhà phê bình văn học Nga nhận xét, sự thành công trong lĩnh vực văn học của Ibragimov là nhờ vốn hiểu biết phong phú và khách quan về miền đất quê hương, hòa quyện với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Điều quan trọng, như tác giả nói, ông "không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn khổ, công thức, hay phương pháp sáng tác nào". Lam Thu *** Kanta Khamzatovich Ibragimov sinh ngày 9 tháng 7 năm 1960 tại thành phố Grozny, thủ đô nước Cộng hòa Tự trị Chechnya thuộc Liên bang Nga, trong một gia đình trí thức có cha là tiến sĩ Hóa học, còn bản thân là tiến sĩ Kinh tế, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Cộng hòa Chechnya, phó viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học thành phố Grozny, giáo sư Đại học Tổng hợp quốc gia Chechnya. Cho đến trước năm 1999, Ibragimov chỉ được biết đến với tư cách là một nhà khoa học với gần ba mươi công trình và đầu sách về kinh tế. Nhưng kể từ khi Ibragimov công bố tác phẩm văn học đầu tay - tiểu thuyết Cuộc chiến đi qua dày bảy trăm trang viết về vùng đất Chechnya quê hương từ khi chính quyền Xô viết được thành lập tại đây vào năm 1924 và tan vỡ hoàn toàn vào năm 1995, thì tên tuổi của Ibragimov không chỉ được thường xuyên nhắc tới trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Chechnya mà cả ở Liên bang Nga. Tác phẩm đã gây tiếng vang lớn, còn tác giả trở nên nổi tiếng và được đọc nhiều nhất ở nước Nga. Và cái gì đến phải đến, bốn năm sau, tác phẩm văn học đầu tay của một nhà khoa học đã được Tổng thống Nga Vladimir Putin trao tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về Văn học nghệ thuật năm 2003. Kể từ đó, Ibragimov liên tục cho ra mắt nhiều tiểu thuyết khác và cũng được bạn đọc đánh giá cao, như Kavkaz già nua (2001), Thầy giáo lịch sử (2003), Thế giới trẻ em (2005), Truyện cổ phương Đông (2007), Ngôi nhà hỗn tạp (2009), Avrora (2012), Viện sĩ Piotr Zakharov (2013)… Và theo thông báo của Cơ quan báo chí Tổng thống và Chính phủ Chechnya, nhà văn Ibragimov đã hai lần được đề cử vào danh sách Giải Nobel Văn học: Năm 2010 với Thế giới trẻ em và năm 2012 với Avrora. Sau khi Liên bang Xô viết tan rã vào năm 1991, nước Cộng hòa Chechnya nhỏ bé trong Liên bang Nga bỗng nhiên được nhiều người biết tới bởi các phong trào ly khai bùng phát dữ dội, biến thành các cuộc chiến đẫm máu. Nhà khoa học Ibragimov đã từng có một cuộc sống sung túc và một công việc ổn định ở Moskva (Phó tổng cục trưởng Tổng cục thuế Liên bang Nga), nhưng sau những gì xảy ra ở Chechnya, ông đã từ bỏ tất cả, đưa gia đình trở về thành phố Grozny quê hương, đồng thời trở về với quá khứ của dân tộc bằng các tác phẩm văn học của mình vì những lý do mà theo như lời ông nói là “để không bao giờ được quên những năm tháng đau thương đó và lặp lại những sai lầm khủng khiếp đó”. Thế giới trẻ em là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn đề cập đến những trang sử đau buồn của vùng đất Bắc Kavkaz vô cùng xinh đẹp và trù phú, đó là cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất (1994-1996) và lần thứ hai (1999-2000). Bản thân Ibragimov đã trực tiếp trải qua các cuộc chiến tranh này, và khi được hỏi về những năm tháng đó, ông đã thành thật chia sẻ: “Làm người Chechnya trong khoảng mười, mười lăm năm gần đây chẳng dễ dàng chút nào”. Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violon đồng thời là nhà vật lý người Nga, nữ y tá người Chechnya và cậu bé tám tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên “Thế giới trẻ em”. Số phận của ba con người được tác giả thể hiện trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, trên nền của những biến động quan trọng diễn ra trong một đất nước vốn là thành trì hòa bình của thế giới. Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé khả năng tư duy thơ trẻ, và để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, nó đã phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì nó xử sự thơ ngây như đứa bé, khi lại như người lớn để cố sống sót qua cuộc chiến. Câu chuyện về một đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn phải ngẫm nghĩ về thế hệ tương lai của dân tộc. Các cuộc chiến tranh nổ ra trên vùng đất Bắc Kavkaz thanh bình và giàu đẹp đã tàn phá tất cả những gì mà chính quyền Xô viết đã dày công vun đắp hàng chục năm qua và làm thay đổi số phận của hàng vạn con người. Bức tranh bi tráng đó đã được tác giả tái hiện một cách sâu sắc và chân xác từ góc nhìn của những người dân bình thường, là lời cảnh báo về những hậu quả tàn khốc mà chiến tranh có thể gây ra cho con người dù với lý do gì. Có thể chính vì vậy mà dòng cuối của cuốn sách, chính tác giả đã phải cay đắng thốt lên “Xin hãy tha thứ cho tôi và cho tất cả chúng tôi!”. Dẫu vậy, trên cái nền bi thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái với những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng ngàn năm qua làm nên một nước Nga hùng mạnh. Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân-thiện-mỹ vì một tương lai tươi sáng cho vùng đất Bắc Kavkaz giàu đẹp. Theo nhận xét của các nhà phê bình văn học Nga, sự thành công trong lĩnh vực Văn học của Ibragimov là nhờ vốn hiểu biết phong phú và khách quan của tác giả về lịch sử miền đất quê hương, hòa quyện với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo mà không cần phải dùng đến những thủ pháp giả tạo. Và điều quan trọng nữa, như chính tác giả bộc bạch, là ông “không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn khổ, công thức, hay phương pháp sáng tác nào cả, điều đó không chỉ cần thiết trong Văn học mà còn ở tất cả mọi lĩnh vực”. Với những thành tựu trong Văn học, Ibragimov được kết nạp vào Hội nhà văn Chechnya, Hội nhà văn Liên bang Nga và được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn Chechnya. Hiện tại, Ibragimov vẫn tiếp tục làm công tác khoa học và sáng tác văn học. Theo như ông nói, “Công việc nghiên cứu khoa học và giảng dạy là để nuôi sống bản thân cùng gia đình với năm đứa con, còn văn chương là để nuôi dưỡng tâm hồn”. Tác phẩm của Ibragimov đã nhanh chóng được dịch sang tiếng Anh, Đức, Tây Ban Nha và bây giờ là tiếng Việt. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Người dịch ĐÀO MINH HIỆP *** Lại một lần nữa, thêm một lần nữa tôi trở về chốn này. Tôi đứng đây, chỉ đứng mà chẳng nghĩ ngợi gì cả, đầu óc trống rỗng, thân thể bải hoải, cặp mắt đờ đẫn dõi theo dòng nước đục ngầu của dòng Sunzha. Còn dòng sông, như bao năm nay, vẫn chảy, nhưng tôi có cảm giác, trong đó không còn niềm khát vọng và nhiệt huyết như trước nữa. Tất cả, như mùa đông, đã đến lúc phải dịu lại. Bản thân tôi cũng đã đến lúc phải bình tâm trở lại, phải lùi lại và quên đi tất cả. Nhưng tôi không thể. Tôi cần phải, tôi buộc phải kể về những lỗi lầm của mình, về lỗi lầm chung và tấn bi kịch chung của tất cả chúng tôi… Không phải lần đầu, cũng chẳng phải lần thứ hai tôi đến nơi này, và tôi chờ cho đến khi đã nạp đủ năng lượng để có thể bắt tay vào thực hiện bức tranh tâm huyết của đời mình. Nhưng, than ôi!… Không hiểu tại sao, lúc nào tôi cũng nhớ lại một câu trong đoạn mở đầu tác phẩm Người thầy đầu tiên của Tsinghiz Aitmatov: “Tôi sợ không mang được đến nơi, tôi sợ làm sánh bát nước đầy”, thật đáng tiếc là tôi đã lặp lại điều đó. Tôi cảm thấy đầu óc trống rỗng, mất hết mọi cảm hứng, nhưng tôi vẫn hy vọng, tôi sống bằng niềm hy vọng, tôi rất muốn vẽ được bức tranh quan trọng của đời mình. Và không chỉ một lần tôi đã bắt tay vào việc, nhưng tôi không dám, tôi không thể, tôi không đủ sức, tôi sợ hãi. Mơ ước về bức tranh đó, tôi đã tốn không biết bao nhiêu màu sắc, mà không chỉ có vậy, còn bức tranh thì vẫn cứ ám ảnh tôi. Và để có thể bắt đầu từ một điểm nào đó, tôi lại quay về nơi ấy, đứng rất lâu, cảm nhận sự đau đớn cùng những lỗi lầm và ngẫm nghĩ về những mất mát. Song, tôi cũng chẳng thể nghĩ ra điều gì, chỉ còn lại ký ức, và tôi cũng chẳng nhìn thấy gì, tôi chỉ hướng cặp mắt về phía mặt sông ảm đạm gợn sóng như đang xem một bộ phim rực rỡ sắc màu với một kết thúc khủng khiếp. Dù không muốn xem bộ phim ấy, nhưng tôi không thể dứt ra được. Tôi đã bỏ đi nhưng có một cái gì đó cứ níu kéo tôi lại, vẫy gọi tôi, làm ngực tôi đau nhói, và thế là tôi lại đến cái hoang mạc này, nơi những đám cỏ dại bị khô úa vào mùa đông xuyên qua lớp nhựa đường và bê tông cũ, nhưng rồi lại đơ ra như từ thời xa xưa… Chỉ có dòng Sunzha là vẫn chảy, nó nhìn thấy hết, biết hết, nhớ hết… Và tôi cũng nhớ. Tôi nhớ, nơi đây từng là thành phố Grozny tươi đẹp và tràn đầy sinh lực. Nhiều người bảo, hiện giờ Grozny cũng vậy, nhưng là nói thế thôi, chứ ở đây, giờ trông như hoang mạc, xa một chút là những đống đổ nát, chỉ còn lại cái tên hung dữ của thành phố[1] với những tâm hồn thiếu bản sắc như bóng đen, tất cả đều khoác một màu đen dẫu là mùa đông tuyết phủ trắng, tất cả đều mang vẻ u ám, nặng nề và buồn bã. Nhưng dẫu có thế nào đi nữa, tôi chỉ nhớ đến một thành phố Grozny đẹp như mơ, nơi tôi đã sinh ra, lớn lên, học tập rồi làm việc. Chính tại chỗ này, dạo còn trẻ, tôi đã từng đứng rất lâu. Tại đây, bên bờ sông Sunzha từng có một công viên tráng lệ, quanh năm hoa lá xanh tươi, với đài phun nước cùng những con đường rợp bóng cây, và một cây cầu vắt ngang sông Sunzha. Sau đó, khi người ta xây cây cầu mới lớn hơn, cây cầu cũ này chỉ dành cho người đi bộ, hai bên thành cầu là những bồn hoa màu sắc sặc sỡ. Chính vì vậy mà cây cầu được gọi là Cầu hoa. Cây Cầu hoa này dẫn đến một tòa nhà cổ, đẹp đẽ, hình bán nguyệt. Một nửa tòa nhà dành cho các cơ quan nhà nước, nơi trước đây người bạn gái yêu quý của tôi đã làm việc và buổi chiều sau giờ làm tôi lại đến chống tay lên thành cầu đợi cô ấy. Một nửa tòa nhà còn lại dùng để ở, tầng một là những gian hàng lớn lắp kính với rất nhiều, rất nhiều đồ chơi - đó chính là cửa hàng bách hóa tổng hợp “Thế giới trẻ em”. Phải, tôi cũng có một thế giới trẻ em của mình, nói chung đó là một thế giới hoàn toàn khác cho tới khi trưởng thành. Và tôi là người rất may mắn! Những đứa trẻ hiện nay ở Grozny có một tuổi thơ và tuổi trẻ ra sao? Đó mới là điều đáng nói. Nhưng làm thế nào để cho mọi người biết? Xung quanh là một khoảng trống đáng sợ, thậm chí cũng chẳng còn lại gì từ những cây cầu, chỉ còn lại vài tấm bê tông bám vào trụ cầu phủ đầy tuyết, chắc là chờ cho đến một lúc nào đó người ta cẩu chúng lên để xây dựng lại. Và tôi cũng chờ, tôi mơ ước dựng lại cây cầu của mình, đúng ra là cây cầu nối về quá khứ, nhưng không phải là cái quá khứ sặc sỡ tỏa hương thơm ngát khi tôi còn nhỏ và trai trẻ. Tôi biết, chẳng thà không có cái thời ấy và đừng bao giờ có còn hơn… Phải, tôi muốn nói về quá khứ khác. Về tuổi thơ của người khác, về một thời kỳ khác mãi sau này mới diễn ra. Quả thật, những cây cầu vẫn còn đó, nhưng sự đổ vỡ đã diễn ra rồi. Chuyện xảy ra vào thời kỳ nổ ra cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất[2], cuộc chiến của các phiến quân[3]. Chiến tranh ở Chechnya - chỉ diễn ra ở Chechnya, vì từ thời xa xưa, ở nơi rừng sâu núi thẳm, người ta đã quá quen với các cuộc chiến tranh. Còn các nhóm phiến quân lại rất cần đến chiến tranh, bởi lẽ đó là bối cảnh, là cột thu lôi dư luận, là tấm phông màn màu mè, mà đằng sau tấm bình phong đó là một cuộc chiến không kém phần khốc liệt để tranh cướp tài sản quốc gia, để những kẻ mạnh phân chia lại thế giới. Thôi, Thượng đế phù hộ cho họ… Mà chẳng lẽ Thượng đế lại đứng về phía họ hay sao? Ôi, sao tôi lại nói thế nhỉ! Thật là phạm Thánh?! Tôi đâu có muốn nói về chuyện đó, hoàn toàn không… Tóm lại, trong cuộc chiến lần thứ nhất ở Chechnya, tôi nhớ, cũng như bây giờ, dạo ấy là mùa đông, hình như trước Năm mới, năm 1996. Tôi bay từ Moskva về quê, về Chechnya thăm cha mẹ già mà tôi không thể thuyết phục được họ rời bỏ quê hương. Chuyến đi của tôi phải vòng qua thành phố Grozny, với nhiều “chặng chuyển tiếp”, qua rất nhiều trạm kiểm soát liên hợp với những hàng người nối nhau rồng rắn, bị kiểm tra, thu phí, chấp nhận sự nhẫn nhục và xúc phạm. Mặc dù vậy, tôi vẫn về được đến nhà, ở đấy có mái nhà thân yêu che chở. Tiếng đại bác và tiếng máy bay gào rú suốt ngày không ngớt, trở thành một đặc điểm không thể tránh khỏi của cuộc sống thường nhật, ít ra là người dân địa phương đã quen với tất cả những điều đó, chỉ có điều trái tim của một số người không chịu đựng nổi - vì chúng không được làm bằng sắt. Mặc dù vậy, cuộc sống ở một ngôi làng gần trận tuyến vẫn tiếp diễn, nơi đây vẫn có chợ, có chỗ để thư giãn (miễn là có tiền). Sau hai ngày thăm thú bà con họ hàng, tôi quyết định vào thành phố Grozny: Tôi có việc phải giải quyết, một con nợ cũ đã lâu của tôi, giờ là quan chức của chính quyền mới đang tham gia xây dựng lại thủ đô sau khi bị ném bom, chắc là có tiền. Những người thân khuyên tôi không nên đi vì rất nguy hiểm, khắp nơi vẫn còn bắn nhau loạn xạ, đối với những người không phải dân địa phương, bộ dạng có vẻ giàu có như tôi, chắc chắn sẽ toi mạng ngay tại các trạm kiểm soát liên hợp. Nhưng dẫu sao đi nữa, tiền bạc bao giờ cũng có sức mạnh, thế là người em họ nhận lời chở tôi vào thành phố, không đi đường thẳng mà đi đường vòng nhưng sẽ nhanh hơn vì tránh được những hàng người dài cả cây số bên các trạm kiểm soát. Tuy nhiên, đường này cũng có trạm kiểm soát, chỉ có điều yên tĩnh và vắng vẻ hơn, mặc dù đã là mùa đông nhưng đá vẫn lăn từ trên núi Argun xuống. Một quân nhân liếc vào chứng minh nhân dân của tôi, thấy nơi đăng ký cư trú ở Moskva, liền nhìn thẳng vào mặt tôi khá lâu, khệnh khạng bỏ tay ra khỏi xe, lẩm nhẩm điều gì đó, chăm chú quan sát tôi từ đầu đến chân, rồi hướng ánh mắt vào chiếc áo bành tô dài đắt tiền của tôi. Mời các bạn đón đọc Thế Giới Trẻ Em của tác giả Kanta Ibragimov & Đào Minh Hiệp (dịch).
Sự Thật
Lowen Ashleigh là một nhà văn. Vì khó khăn tài chính nên cô buộc phải nhận một công việc khác thường. Jeremy Crawford, chồng của nhà văn nổi tiếng Verity Crawford, thuê Lowen viết tiếp những tập còn lại trong bộ sách của vợ anh mà vì lý do sức khoẻ cô không thể hoàn thành. Lowen đến nhà Crawford để tìm kiếm thông tin viết sách. Cô tình cờ phát hiện quyển tự truyện của Verity. Đó là những thú nhận khủng khiếp, bao gồm sự thật cái chết của con gái Verity. Lowen quyết định giấu Jeremy quyển tự truyện. Nhưng khi tình cảm Lowen dành cho Jeremy ngày càng sâu đậm, cô nhận ra nếu anh biết về quyển tự truyện sẽ chỉ có lợi cho cô. Dù Jeremy có tận tâm với người vợ tàn tật thế nào đi nữa, sự thật kinh hoàng sẽ khiến anh không thể tiếp tục yêu vợ mình. Một quyển sách kinh dị lãng mạn của Colleen Hoover, tác giả bán chạy số 1 New York Times . *** Nghe có vẻ lạ lùng đối với chúng ta khi nhân vật chính của một câu chuyện được yêu cầu cho một số nhiệm vụ chắc chắn khiến anh ta choáng ngợp. Nó xảy ra với các sĩ quan cảnh sát thông thường chịu trách nhiệm truy đuổi ông trùm của một mafia lớn, hoặc, như trong trường hợp này khi một nhà văn không mấy thành công được giao hoàn thành một số tiểu thuyết của một tác giả khác đã biến mất. Sự nghi ngờ trong những trường hợp này là phổ biến. Nhưng tại sao không đổi, khi khám phá ra điều gì dẫn nhân vật chính đến trung tâm của một cơn bão nghi ngờ, chicha bình tĩnh, luôn thu hút chúng ta bằng cùng một từ tính, với điện tích đó thông báo những cơn gió mạnh và những cảm xúc mãnh liệt không kém ... Lowen Ashleigh, một tác giả đang trên bờ vực phá sản, nhận được một khoản hoa hồng thay đổi cuộc đời: Jeremy, chồng mới của Verity Crawford, một trong những tác giả quan trọng nhất hiện nay, thuê cô ấy hoàn thành loạt sách trong đó tác phẩm của anh ấy là phụ nữ. trước khi bị một tai nạn nghiêm trọng khiến cô hôn mê. Lowen định cư tại biệt thự của cặp vợ chồng đã kết hôn để anh ta có thể làm việc với các ghi chú mà Verity đang làm, hy vọng tìm đủ tài liệu để bắt đầu nhiệm vụ của mình, nhưng điều anh ta không mong đợi phát hiện ra trong văn phòng hỗn loạn là một cuốn tự truyện của Verity chính cô ấy., được giấu kín để nó không bao giờ lộ ra ngoài. *** Colleen Hoover là nữ tác giả được xếp vào hàng có sách bán chạy nhất của New York Times. Năm 2012, bà xuất bản series truyện đầu tiên gồm ba cuốn Slammed, Point of Retreat và This girl. Năm 2013, bà xuất bản series thứ hai bao gồm Hopeless, Losing Hope và Finding Cinderella. Các tiểu thuyết của bà đều viết về những câu chuyện tình yêu đầy đam mê nhưng cũng chứa nhiều uẩn khúc, với một văn phong lãng mạn, tràn đầy thấu cảm và yêu thương. Trong số đó, tiểu thuyết Lạc mất & Hy vọng (Hopeless) gây ấn tượng mạnh với độc giả hơn cả. Cuốn sách đã dẫn đầu bảng xếp hạng của New York Times trong một thời gian dài, trở thành tiểu thuyết dành cho lứa tuổi trưởng thành hay nhất năm 2013. *** Tôi nghe thấy tiếng hộp sọ vỡ cái bốp trước khi máu anh ta bắn vào người tôi. Tôi khiếp sợ quay ngược lại về vỉa hè. Chân tôi vấp vào lề đường suýt ngã nên tôi vội nắm lấy cột biển báo cấm đỗ xe để giữ thăng bằng. Mới vài giây trước anh ta còn đứng trước mặt tôi. Chúng tôi lẫn trong đám đông chờ đèn hiệu đi bộ bật sáng, rồi anh ta bước xuống đường quá sớm ngay khi chiếc xe tải lao đến. Tôi nhào tới trước định ngăn anh ta lại nhưng không kịp nữa. Tôi nhắm tịt mắt lại trước khi đầu anh ta nằm gọn dưới lốp xe, nhưng âm thanh như nút chai rượu sâm banh bật ra vang lên rõ mồn một. Anh ta nhìn điện thoại của mình mà không nhìn đường, có lẽ đó là thói quen tệ hại nhưng chưa từng gây ra sự cố nào trước đó. Chết vì một thói quen. Mọi người đều hoảng hốt. Tài xế xe tải ngay lập tức nhảy ra khỏi xe và quỳ xuống bên nạn nhân, nhiều người chạy đến giúp đỡ. Tôi vội lùi khỏi đám đông. Không cần nhìn cũng biết anh ta không thể qua khỏi. Bây giờ một chiếc xe tang là cần thiết chứ không phải xe cứu thương. Tôi muốn tránh xa hiện trường vụ tai nạn, nhưng đèn đi bộ đã bật sáng và mọi người bắt đầu đổ sang đường. Một số người thậm chí vẫn dán mắt vào điện thoại di động khi đi ngang qua nạn nhân. Tôi đành đứng lại chờ đường bớt đông. Tôi liếc về phía đó, cẩn thận tránh nhìn thẳng vào nạn nhân. Người tài xế đang gọi điện thoại di động, ba bốn người xúm quanh, một số người dùng điện thoại quay lại cảnh khủng khiếp. Nếu ở Virginia nơi tôi sống trước đây, người ta sẽ hoảng loạn la hét, nhiều phóng viên sẽ có mặt sau vài phút. Nhưng ở Manhattan, việc một người đi bộ bị xe đâm xảy ra thường xuyên. Chỉ là giao thông bị ùn tắc trong phút chốc. Sự thờ ơ vô cảm là lý do tôi chuyển đến thành phố này mười năm trước. Tôi muốn sống ở một thành phố bận rộn đông đúc. Không ai chú ý đến tôi. Ở đây tôi vô hình, không bị soi mói đời tư. Tôi yêu thành phố này vì điều đó. “Cô có bị thương không?” Tôi ngước lên nhìn, một người đàn ông chỉ vào tay tôi và áo tôi đầy quan tâm. Anh không phải là một người New York vô cảm. Có lẽ anh từ nơi khác đến. “Cô có bị thương không ?” Người lạ lặp lại. Tôi nhận ra tay tôi dính máu. “Không. Không phải máu của tôi. Tôi đứng gần anh ta khi…”. Tôi lắp bắp, rùng mình vì nhớ lại cái chết khủng khiếp. Tôi luôn cố cứng rắn như mặt đường bê tông dưới chân, nhưng không phải là gỗ đá vô tri vô giác. Những gì vừa chứng kiến khiến bụng tôi xoắn lại và muốn nôn oẹ. Tôi đưa tay bụm miệng nhưng bỏ ra ngay khi cảm thấy có gì đó dính trên môi. Máu. Áo tôi cũng vậy, rất nhiều máu không phải của tôi. Tôi kéo áo ra để nó khỏi dính vào người. Tôi muốn xoa trán, véo mũi để khỏi chết ngất, nhưng sợ lại chạm phải máu. Tôi ngước nhìn người đàn ông. “Mặt tôi có dính máu không?” Tôi hỏi anh. Anh mím môi nhìn con đường chúng tôi đang đứng và chỉ một quán cà phê. “Chắc ở đó có phòng vệ sinh”, anh đẩy lưng tôi đi về hướng đó. Tòa nhà Pantem Press, nơi tôi muốn đến, đã rất gần. Chỉ cách mười lăm, hai mươi feet. Tôi tự hỏi người đàn ông vừa chết đã gần đến nơi anh ta cần đến chưa? Anh giữ cửa cho tôi bước vào quán cà phê. Một người nữ phục vụ tay bưng cà phê định len vào thì chợt nhìn thấy áo tôi. Cô ta vội tránh ra nhường đường. Tôi đi đến phòng vệ sinh nữ nhưng cửa bị khóa. Thấy vậy anh đẩy cửa phòng vệ sinh nam cho tôi đi vào sau anh. Anh không khóa cửa, đi thẳng đến bồn rửa và mở nước. Tôi nhìn vào gương và phần nào nhẹ nhõm vì tình hình không đến nỗi tệ như tôi tưởng. Vài vệt máu trên má đã khô, trên lông mày chỉ dính một chút. Hầu như máu bắn hết vào áo. Anh đưa khăn giấy ướt cho tôi lau mặt. Mùi máu tanh nồng khiến tôi nín thở và lại buồn nôn. Tôi muốn cởi áo ra. Ngay lập tức. Sau khi mở nút áo cởi áo để dưới vòi nước chảy, tôi cầm miếng khăn ướt khác anh đưa cho lau máu dính trên ngực. Anh đi ra cửa, nhưng không phải để cho tôi sự riêng tư với chiếc áo ngực kém hấp dẫn nhất mà để khóa cửa lại. Tôi căng thẳng theo dõi anh qua chiếc gương treo trước bồn rửa. Có tiếng gõ cửa. “Tôi ra ngay”, anh nói. Tôi nhẹ nhõm hẳn, ít ra ai đó bên ngoài sẽ nghe thấy nếu tôi hét lên. Tôi kỳ cọ cổ và ngực, tiếp theo là lau tóc, hết bên này đến bên kia cho đến khi không còn một dấu vết nào. “Đây”, anh mở chiếc nút cuối cùng chiếc áo trắng anh đang mặc. “Cô mặc vào đi”. Chiếc áo khoác đang treo trên tay nắm cửa, chiếc áo sơ mi đưa đã cho tôi, trên người anh chỉ còn độc một chiếc áo lót màu trắng. Anh to cao hơn tôi nhiều, tôi sẽ bị nuốt chửng trong chiếc áo này mất. Tôi không muốn mặc nó đến cuộc hẹn chút nào, nhưng không có lựa chọn nào khác. Tôi cầm nó, lấy thêm vài chiếc khăn giấy lau khô người, sau đó mặc vào và cài nút. Trông chẳng ra làm sao, nhưng không phải lỗi tại tôi. Tôi ném chiếc áo dính máu vào thùng rác rồi chống tay lên bồn rửa nhìn mình trong gương. Đôi mắt tôi mệt mỏi, trống rỗng. Tôi lấy tay chà sát hai má để da bớt tái nhưng vô ích. Trông tôi như một xác chết. Tôi xoay người lại. Anh nhét cà vạt vào túi áo vét. “Tôi không biết cô đã bình tĩnh lại hay vẫn còn sốc”. Tôi không sốc nhưng cũng không bình tĩnh. “Tôi không biết nữa”, tôi thừa nhận. “Anh thì sao?” “Tôi không sao”, anh nói. “Tôi còn chứng kiến nhiều việc tệ hơn nhiều”. Không biết anh có nhìn thấy đầu người đàn ông bị nghiền nát dưới bánh xe tải không. Có lẽ anh đúng là dân New York. Hoặc anh làm ở bệnh viện. “Anh có phải là bác sĩ không?” Anh lắc đầu. “Trước đây tôi làm bất động sản”. Anh bước đến gần, phủi thứ gì đó trên vai áo tôi. Áo của anh. Màu mắt anh tiệp với màu chiếc cà vạt, màu lục nhạt. Anh rất đẹp trai, nhưng tôi có cảm giác anh chán ghét vẻ ngoài của mình. Anh không muốn bị chú ý. Anh muốn vô hình, giống như tôi. Nhiều người đến New York để thể hiện mình. Vài người như chúng tôi đến đây để không ai chú ý đến mình. “Cô tên gì?” anh hỏi. “Lowen”. Anh sững lại vài giây khi nghe tên tôi. “Jeremy”, anh đi đến bồn rửa. Tôi không nén nổi tò mò. Anh đã gặp việc gì mà khủng khiếp hơn cả vụ tai nạn? Vì sao ánh mắt anh thăm thẳm vẻ buồn bã cô độc? “Chuyện gì xảy ra với anh vậy?” Tôi hỏi. Anh nhìn tôi trong gương. “Ý cô là sao?” “Anh nói đã chứng kiến nhiều việc khủng khiếp. Là chuyện gì?” Anh tắt nước, lau khô tay, rồi quay lại nhìn tôi. “Cô thực sự muốn biết?” Tôi gật đầu. Anh ném chiếc khăn giấy vào thùng rác, đút tay vào túi quần, ánh mắt đanh lại. “Tôi đã vớt xác con gái tám tuổi dưới hồ lên cách đây năm tháng”. Tôi hít mạnh và bụm miệng. “Tôi rất tiếc”, tôi thì thầm. Vì con gái anh. Vì đã hỏi anh. “Cô thì sao?” Anh dựa vào bồn rửa chờ đợi câu chuyện của tôi. Có người chia sẻ để bi kịch của bạn bớt bi thảm. Khi bạn trải qua những việc tồi tệ nhất, bạn muốn gặp những người cùng hoàn cảnh, những người gặp chuyện buồn và bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Tôi đằng hắng. Bi kịch của tôi không ghê gớm như của anh. Tôi nghĩ lại mọi việc đã xảy đến với mình và cảm thấy chút ngại ngùng vì nó khá tầm thường. “Mẹ tôi mới mất tuần trước”. Anh không tỏ thái độ gì, chắc anh đã dự đoán nhiều hơn thế. “Vì sao bà mất?” “Ung thư. Bà đến ở với tôi từ năm ngoái. Hôm nay là ngày đầu tiên tôi ra khỏi nhà sau khi mẹ tôi mất”. Chúng tôi nhìn nhau một lúc. Tôi chưa từng nói chuyện của mình với một người hoàn toàn xa lạ. Tôi ngại ngùng muốn kết thúc câu chuyện. Nhưng tôi không biết nói gì và đành im lặng. Anh nhìn vào gương hất vài sợi tóc đen vào nếp. “Tôi có một cuộc hẹn phải đi bây giờ. Cô chắc là cô ổn chứ?” Anh quan sát tôi qua gương. “Tôi ổn.” “Ổn?” Anh quay sang tôi, lặp lại câu hỏi. “Tôi sẽ không sao”, tôi nhắc lại. “Cảm ơn anh đã giúp đỡ.” Tôi bỗng muốn thấy anh cười. Nụ cười của anh như thế nào nhỉ? Nhưng anh chỉ nhún vai “Tốt”. Anh mở khóa cửa cho tôi bước ra, nhưng tôi không vội đi như thể tôi chưa sẵn sàng đối mặt với thế giới ngoài kia. Tôi muốn nói gì đó để cảm ơn hoặc tìm một cái cớ gặp lại anh. Mời anh đi cà phê nhân tiện trả lại áo cho anh có được không nhỉ? Trát tim tôi bồi hồi rung động trước anh – một người lạ tốt bụng. Đột nhiên mắt tôi bắt gặp chiếc nhẫn cưới anh đeo trên tay trái. Tôi hấp tấp ra khỏi quán cà phê hòa vào đám đông trên đường. Xe cứu thương đã đến, giao thông bị chặn ở cả hai hướng. Tôi cần quay lại hiện trường vụ tai nạn để cho lời khai. Ở đó đã có một đám đông những người chứng kiến vụ việc. Tôi tường thuật vụ tai nạn và cho họ thông tin liên lạc của tôi. Tôi ngoái nhìn quán cà phê. Jeremy đang bước ra khỏi quán, tay cầm ly cà phê băng qua đường. Chắc anh không còn nghĩ đến tôi mà nghĩ về vợ anh và những gì phải nói với cô ấy khi về nhà mà không có chiếc áo. Tôi rút điện thoại ra khỏi túi xem giờ. Còn mười lăm phút nữa mới đến giờ hẹn với Corey và nhà xuất bản Pantem Press. Tay tôi vẫn còn run và người lạ không còn ở đây để giúp tôi nữa. Chắc cà phê sẽ có tác dụng, hoặc morphine, nhưng chúng đã bị dọn sạch sau khi mẹ tôi mất. Ước gì tôi cất lại một ít. Mời các bạn đón đọc Sự Thật của tác giả Colleen Hoover & iusach (dịch).
Miền Thơ Ấu
Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Miền Thơ Ấu là câu chuyện về cậu bé 7 tuổi trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú. Đó là không gian ngôi làng bùn lầy nước đọng vùng chiêm trũng Bắc Bộ giữa thập niên 1940 vừa xác xơ nghèo khổ lại vừa lung linh, trong trẻo. Đó là một ngôi nhà ba gian bằng gỗ cũ kỹ và hằng in dấu vết của các thế hệ từ đời cụ kỵ. Là bà cô ngoan đạo  – người phụ nữ trung niên không chồng, lạnh lùng, gia trưởng và luôn tỏ ra mình là người khó tính, keo kiệt. Là anh cu Lớn, anh cu Nhỏ - những người bạn cùng câu cá, cùng chơi chung, cùng khóc cười. Là những câu chuyện ma tưởng tượng. Những lần lén lấy gạo cho một người sắp chết đói. Là những cuộc ngã giá ở cái chợ quê mà phiên nào cũng đầy các sản vật bản địa được người dân trong vùng mang tới… Và, đó còn là những chi li yêu ghét của những người quê tủn mủn nhưng thiệt thà. Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ sở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi… Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! VỀ TÁC GIẢ: Tác giả Vũ Thư Nguyên sinh năm 1933 tại Hà Nội. Bút danh khác: Kim Ân Năm 1988, ông nhận giải A Văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam với tác phẩm Miền Thơ Ấu. Mã hàng 8936144200162 Tên Nhà Cung Cấp Phanbook Tác giả Vũ Thư Hiên NXB NXB Đà Nẵng Năm XB 2018 Trọng lượng (gr) 320 Kích Thước Bao Bì 13 x 20.5 Số trang 300 Hình thức Bìa Mềm Sản phẩm bán chạy nhất Top 100 sản phẩm Tiểu thuyết bán chạy của tháng Giá sản phẩm trên Fahasa.com đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như Phụ phí đóng gói, phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh,... Miền Thơ Ấu Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Miền Thơ Ấu là câu chuyện về cậu bé 7 tuổi trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú. Đó là không gian ngôi làng bùn lầy nước đọng vùng chiêm trũng Bắc Bộ giữa thập niên 1940 vừa xác xơ nghèo khổ lại vừa lung linh, trong trẻo. Đó là một ngôi nhà ba gian bằng gỗ cũ kỹ và hằng in dấu vết của các thế hệ từ đời cụ kỵ. Là bà cô ngoan đạo  – người phụ nữ trung niên không chồng, lạnh lùng, gia trưởng và luôn tỏ ra mình là người khó tính, keo kiệt. Là anh cu Lớn, anh cu Nhỏ - những người bạn cùng câu cá, cùng chơi chung, cùng khóc cười. Là những câu chuyện ma tưởng tượng. Những lần lén lấy gạo cho một người sắp chết đói. Là những cuộc ngã giá ở cái chợ quê mà phiên nào cũng đầy các sản vật bản địa được người dân trong vùng mang tới… Và, đó còn là những chi li yêu ghét của những người quê tủn mủn nhưng thiệt thà. Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ sở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi… Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! VỀ TÁC GIẢ: Tác giả Vũ Thư Nguyên sinh năm 1933 tại Hà Nội. Bút danh khác: Kim Ân Năm 1988, ông nhận giải A Văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam với tác phẩm Miền Thơ Ấu. *** LỜI NÓI ĐẦU Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên của cuốn sách mà bạn đang cầm trong tay, tôi không dám tin rằng sẽ có ngày nó được thấy ánh sáng mặt trời. Nó ra đời như một may mắn không ngờ, như nhờ một phép màu. Đối với tôi, nó có ý nghĩa đặc biệt. Một thời, nó đã là người bạn tâm tình, là cái nạng cho tôi vịn vào mà đi trên con đường vô định. Mùa đông năm 1967 là một mùa đông giá buốt, ít nhất là cho tôi, trong cái xà lim không có sưởi và không có quần áo ấm. Trong mùa đông ấy, không hiểu vì sao, tôi cảm thấy nhớ quê hương nhiều hơn bất cứ lúc nào. Cái đầu tiên gợi nhớ đến quê hương là mùi khói cay nồng từ những đống lá mà phu quét đường đốt lên để sưởi, ở bên kia bức tường đá của nhà tù. Ở quê tôi người ta thường đốt những đống rấm như thế để khói ngăn sương muối sà xuống những vườn rau. Mùi khói thoang thoảng lọt vào xà lim gây nên một nỗi nhớ cồn cào, da diết. Gối đầu trên đôi tay, tôi nằm dài trên phản xi măng lạnh ngắt mà thả hồn về quá khứ, tự hứa thể nào rồi mình cũng phải viết một cuốn sách về cái làng bùn lầy nước đọng quê hương. Cái làng nhỏ nhoi và nghèo khổ ấy gắn liền với thời thơ ấu của tôi, cái thời không mấy hạnh phúc nếu đứng ngoài nhìn vào, nhưng tuyệt đẹp đối với tôi, mà cũng có thể đối với bất cứ ai từng có một cái quê để mà nhớ. Lúc ấy tôi không nghĩ rằng cuốn sách tôi định viết sẽ được thực hiện không phải ở nơi nào khác, mà trong nhà tù. Ở Hỏa Lò tù nhân bị cấm đủ thứ, nhất là viết, hoặc đọc. Một mẩu giấy báo bị quản giáo phát hiện trong xà lim cũng là một cái tội, người tù giấu nó sẽ bị kỷ luật cùm chân, bị cắt "tiếp tế". Trong năm tù đầu tiên tôi chưa có đủ kinh nghiệm để biết rằng khi cần thiết người tù có thể làm được những việc anh ta không bao giờ ngờ tới. Ở trại quân pháp Bất Bạt (Sơn Tây) sự sống trong xà lim còn tệ hơn ở Hỏa Lò. Tôi hoàn toàn bị cắt đứt với thế giới bên ngoài. Nếu ở Hỏa Lò người tù xà lim còn có thể đoán biết được một sự kiện nào đó xảy ra bên kia những bức tường và hàng rào dây kẽm gai nhờ nghe ngóng được động thái của bạn đồng cảnh ở các xà lim cùng khu, thì ở Bất Bạt cái đó hoàn toàn không có. Những người bị giam ở đây, bên cạnh xà lim tôi, thường đã qua thời kỳ hỏi cung (thẩm vấn). Họ yên tâm nằm chờ, tháng này qua tháng khác, mà cũng có thể năm này qua năm khác, nhưng họ có cái để mà chờ: đó là ngày chắc chắn sẽ được ra tòa lĩnh án. Án có thể ngắn, có thể dài, nhưng họ sẽ được trở về khi mãn hạn. Những người tù chính trị, lại là thứ có tên gọi mỹ miều là “xử lý nội bộ”, thì không thể có xử, cứ việc nằm đấy, không chờ. May cho tôi, ở trại này trong một lần "tiếp tế" vợ tôi lén lút giúi cho tôi một cây bút bi Trung Quốc hai màu. Tôi có một đam mê khó hiểu đối với những cây bút. Vợ tôi biết người ta chẳng đời nào cho tù nhận thứ đồ quốc cấm ấy nhưng đã mang nó cho tôi, tôi sẽ có cách giấu. Tôi vờ xin đi vệ sinh, ở đó tôi kín đáo phá nát cây bút quý giá ấy, chôn những mảnh vỡ của nó xuống đất, rồi luồn hai cái ruột bút bi vào nẹp áo bông để mang vào xà lim. Cuốn sách bắt đầu từ ấy, mùa thu năm 1969. Tôi mải mê viết những trang đầu tiên trên vỏ bao thuốc lá, trên giấy kẹo, trên những riềm báo cũ mà gia đình bọc đồ "tiếp tế" (đến lúc đó nhà cầm quyền đã rộng lượng cho phép chúng tôi được giữ lại một số tờ giấy có in chữ, nhưng phải là thứ cũ, hết sạch thời gian tính). Viết phải rất cẩn thận, không được lãng phí những mẩu giấy hiếm hoi, lại phải canh chừng lính gác năm phút mươi phút một lần lượn lờ qua phòng giam để kiểm tra. Những mẩu "bản thảo" lắt nhắt không thể xếp thành trang, phải đánh số rõ ràng để không lẫn lộn, được gom lại, được cất giấu bằng mọi cách trong cái xà lim nhỏ hẹp. Sau đó là những ngày chờ đợi đến lần được gặp gia đình kế tiếp thì tuồn cho mẹ tôi, vợ tôi mang ra. Khi viết được nhiều, bản thảo tích lại khá dày cũng gây ra mối lo. Mà những cuộc gặp lại khôngcó kỳ có hạn, gia đình muốn gặp thì làm đơn, khi nào người ta rộng lượng cho gặp thì được gặp. Được cái từ năm tù thứ ba trở đi đám quản giáo coi nhà tiếp tế không còn khám xét kỹ mỗi lần tôi được gặp gia đình nữa. Vả lại, chẳng cần khám làm gì - chúng tôi đâu có biết ngày nào tháng nào được gặp vợ con đâu mà chuẩn bị. Tôi bao giờ cũng sẵn sàng, cho nên lần nào gặp gia đình cũng chuyển ra ngoài được một ít bản thảo. Về sau này, trong xà lim trại Tân Lập (Phú Thọ), việc viết không còn khó như trước, mặc dầu vẫn phải canh chừng để không bị phát giác. Sau nhiều lần yêu cầu kiên trì, chúng tôi thậm chí còn được người ta chiếu cố cho phép gia đình mang cho giấy bút và vài cuốn tiểu thuyết ngoại quốc để đọc. Cuốn sách hình thành dần dần, từng ít một. Một lần các nhân viên công an nghi ngờ tôi chuyển gì ra, họ chặn mẹ tôi và vợ tôi lại để khám, nhưng hai người đã mang được những mẩu giấy của tôi ra ngoài trót lọt. Khi những bản thảo đã gom được kha khá, các em tôi - Vũ Chí Dũng, Vũ Thu Hương và Vũ Thu Hòa - hì hục chép lại. Năm 1976, sau chín năm tù, tôi trở về thì đã có một bản thảo hoàn chỉnh. Các em tôi còn đánh máy ra làm mấy bản sạch sẽ để những người thân đọc. Mẹ tôi đọc xong, bảo: - Mẹ thích. Nhưng sách không in được đâu. Một là, tên của con bị cấm. Hai là, chuyện một nhà, một làng, liệu mấy ai quan tâm? Bố tôi nhận xét: - Dù sao thì nó cũng ghi lại dấu vết một thời kỳ của nông thôn Việt Nam vùng Thiên Chúa giáo. Cứ để đấy, nó sẽ có ích sau này. Cho những nhà nghiên cứu chẳng hạn. Tôi không có ý định viết cho những nhà nghiên cứu. Họ chẳng cần đến tôi. Tôi cũng chẳng có ý định viết để in. Tôi viết vì đó là công việc duy nhất mà tôi có thể làm trong sự ăn không ngồi rồi bất đắc dĩ. Tôi viết vì tôi thèm được làm công việc mà tôi yêu thích. Tôi viết, ít nhất thì cũng để cho các con tôi, chúng không biết thời thơ ấu của tôi đã trôi qua thế nào. Mà chắc gì sẽ có ngày tôi kể được cho các con tôi nghe? Hồi ở trại Bất Bạt tôi không nghĩ tới ngày về. Không ít người đã nằm lại trong các nghĩa trang nhà tù. Những nghĩa trang ấy, thường ở sườn đồi, nếu có đồi, hoặc ở một bãi hoang giữa rừng. Trong cái sự tù của chúng tôi nghĩ tới ngày về là ý nghĩ ngu ngốc. Ý nghĩ viết cuốn sách để lại cho các con đã làm cho cuốn Miền Thơ Ấu có một sắc thái riêng. Nó là hồi ký, nhưng trong lần in đầu tiên nhà xuất bản đặt nó vào loại tiểu thuyết. Trên bìa sách cũng đề rõ Miền Thơ Ấu - tiểu thuyết. Hồi ấy ở Việt Nam chỉ có loại hồi ký là hồi ký cách mạng, do các lãnh tụ kể cho các nhà văn ghi. Người thường không ai viết hồi ký, không được viết hồi ký. Để nó vào dạng tiểu thuyết thì dễ in hơn. Còn có một lẽ nữa, là cuốn sách có hình thức giống tiểu thuyết trong cách viết, trong cách miêu tả nhân vật, dựng lại đối thoại. Tuy nhiên, tên người, tên đất trong cuốn này được giữ nguyên, không thay đổi. Người trong họ ngoài làng sẽ nhận ngay ra người quen khi đọc. Mà người làng tôi thì không quan tâm đến chuyện cuốn sách mà họ đọc thuộc thể loại gì. Tôi cho rằng có thể chép cuộc đời vào sách và tạo ra cho nó một dáng vẻ nghệ thuật, nếu ta nhìn đời theo cách nghệ thuật. Cuốn sách nằm lâu trong đống giấy má vàng úa của một thời chữ nghĩa. Tôi cũng chẳng có thời giờ để ý tới nó vì còn bận đánh vật với những thí nghiệm, chạy đi chạy lại các cơ quan nhà nước kiếm hợp đồng làm hàng gia công, là việc có ích cho sự kiếm sống. Từ khi ra tù tôi làm đủ mọi thứ nghề tạp nham, trong đó việc sản xuất hàng hoá liên quan tới hóa chất cho các tổ hợp thủ công nghiệp đem lại nhiều tiền hơn cả. Mãi tới năm 1987, anh bạn Lê Phát, biên tập viên đài Tiếng nói Việt Nam, một người tò mò thích văn chương, đã khui nó ra trong đống giấy má bừa bộn của tôi. Lê Phát đọc một lèo, anh thích nó, bèn đưa cho nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, nơi nhà văn Hà Mậu Nhai làm giám đốc. Hà Mậu Nhai cũng đọc một lèo, rồi nhắn tôi đến chơi. Anh tỏ ý muốn in cuốn sách. Tôi ngăn anh: - Anh không biết có một chỉ thị cấm in tôi sao? - Tôi biết. - Vậy mà anh vẫn quyết định in? Hà Mậu Nhai nói: - Chừng nào chưa có trước mặt tôi một văn bản pháp luật trong đó ghi rõ quyết định của tòa án cấm không được in Vũ Thư Hiên thì tôi vẫn in. Tôi không ngán những lệnh miệng và những chỉ thị nội bộ. Tôi in, và còn in tên Vũ Thư Hiên to hơn bình thường nữa kia. Tôi ngần ngừ. Tôi không muốn vì cuốn sách của mình mà bạn mình mang vạ. Hà Mậu Nhai nói chỉ cần tôi đồng ý cho in. Tôi miễn cưỡng đồng ý. Cuốn sách được in ra. Tên tác giả được in to hơn bình thường, đúng như Hà Mậu Nhai nói. Hà Mậu Nhai là một nhà văn nhưng không có chân trong Hội Nhà Văn. Anh chỉ có chân trong Xã Hội Những Người Tử Tế. Năm sau Miền Thơ Ấu được giải thưởng loại A của Hội nhà văn Việt Nam, tức là giải nhất, cho sách dành cho thiếu nhi, mặc dầu nhà xuất bản không đưa nó vào danh sách tác phẩm dự thi. Trong chuyện này Hà Mậu Nhai nghĩ như tôi, sách được in ra là tốt rồi, mong gì được giải. Việc trao giải thưởng năm ấy là sự kiện lớn. Đã nhiều năm chuyện xét và trao giải thưởng văn học bị xếp lại, vì chiến tranh, và vì văn chương là cái sự không ra gì, một thứ xướng ca vô loài, dưới mắt các nhà lãnh đạo. Chủ tịch Hội đồng xét giải là nhà văn Tô Hoài. Phùng Quán cũng được giải thưởng, loại B, với tiểu thuyết ba tập Tuổi Thơ Dữ Dội. Hai tên tội đồ, một Xét Lại Hiện Đại, một Nhân văn-Giai phẩm, chiếm hai giải thưởng nhất nhì trong một cuộc thi văn chương, là quá lố. Nhưng đã là năm 1988, hai năm sau khi Đảng cộng sản tuyên bố "đổi mới" và "cởi trói". Nếu là những năm trước, việc làm ngang bướng của Hà Mậu Nhai ắt bị trừng trị. Anh vẫn ngồi yên trên ghế giám đốc cho tới khi qua đời, ba năm sau. Giải thưởng này đối với tôi là bất ngờ, không kém gì việc nó được in ra. Khi mọi người cho tôi biết các báo đều đã đăng tin, tôi mới biết. Việc cuốn sách kể chuyện tầm phào về một làng quê khỉ ho cò gáy mà được giải, lại giải cao, là điều khó tin. Tô Hoài hiển nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc trao giải lần này. Uy tín của nhà văn già đã thắng tính bảo thủ của các cơ quan lãnh đạo tư tưởng của đảng cộng sản. Sau đó, đài phát thanh Sài Gòn đọc Miền Thơ Ấu trong chương trình "Đọc truyện đêm khuya", nhà xuất bản Kim Đồng ở Hà Nội tái bản một lần, rồi hai lần... So với bản thảo, cuốn Miền Thơ Ấu trong lần in đầu tiên được rút gọn còn một nửa theo yêu cầu của nhà xuất bản. Vì không có giấy. Giấy vào những năm ấy đắt khiếp đảm. Lần xuất bản sau ở hải ngoại không thiếu giấy nhưng lại thiếu những trang bản thảo bị bỏ ra nọ. Chúng nằm lại ở Việt Nam, cách tôi quá xa, không phải xa theo khoảng cách địa lý, mà bởi những khó khăn. Tôi cũng không tìm cách bổ khuyết. Cuốn sách đã có cuộc sống riêng của nó, diện mạo của nó. Chưa chắc gì một sự thay đổi sẽ làm cho nó đẹp hơn. Những gì bị bỏ ra ngoài trong lần xuất bản đầu tiên rồi sẽ được đặt vào một lần xuất bản khác, hoặc một chỗ khác. Câu chuyện về một chú bé trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú đã tìm được độc giả của nó. Thì ra quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Tôi bao giờ cũng nhớ về tuổi thơ của mình với tất cả niềm thương yêu dịu dàng, bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ xở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi. Bạn đã bao giờ cho chuồn chuồn ngô cắn rốn chưa? Nếu bạn đã được một con chuồn chuồn ngô cắn rốn một lần để được sặc sụa một lần trong dòng sông quê hương thì bạn là người hạnh phúc đấy. Tôi đã đọc những dòng viết ấm áp và chân thành, và lạ thay, bao giờ cũng đầy nuối tiếc, về tuổi thơ trong sáng của mình nơi Lev Tolstoi, Maxim Gorky hay Paul Vaillant-Couturier. Chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô dạy: "Hãy như con trẻ!" Tôi chưa được nghe lời nào thông thái hơn. Nếu tất cả những con người sống trên mặt đất này biết nâng niu gìn giữ trái tim con trẻ trong mình thì chúng ta đã không phải chứng kiến những gì xấu xa mà chúng ta phải chứng kiến: chiến tranh, nhà tù, và mọi sự hành hạ mà con người hàng ngày gây ra cho đồng loại. Bằng cuốn sách bé nhỏ này, tôi muốn chia sẻ với bạn đọc tình cảm trìu mến đối với những gì quý báu nhất trong cuộc đời, những gì bạn và tôi đều có nhưng chóng quên, ở một miền thơ ấu của mỗi chúng ta. VTH.   Mời các bạn đón đọc Miền Thơ Ấu của tác giả Vũ Thư Hiên.
Đứa Con Đi Hoang Trở Về
Đứa con đi hoang trở về của André Gide khởi nguồn cảm hứng từ dụ ngôn Đứa con hoang đàng trong Kinh Thánh Tân ước. Với một sự triển khai đa chiều, André Gide đưa vào đó bốn cuộc đối thoại, như một vở kịch bốn màn, kéo câu chuyện khỏi không gian của bản kinh giáo điều để nối kết với cuộc sống nhân gian vốn dĩ phức tạp. Qua Ngôi Nhà và khát vọng tự do, chọn lựa phiêu lưu của tuổi trẻ và sự trở về kiếm tìm cứu rỗi nơi một con người đã nếm trải gió bụi lạc lối… André Gide mở ra các cảnh huống triết lý mà ở đó, có thể mỗi người đọc đều đã từng “nhập vai”. Về tác giả ANDRÉ GIDE (1869-1951) Là nhà văn Pháp; nhận giải Nobel Văn học năm 1947. André Gide sinh ra tại Paris, trong một gia đình trung lưu theo đạo Tin lành. Cha là giáo sư Luật học, mất sớm. Gide lớn lên trong một không gian khá cô lập ở vùng Normandy, với sự giáo dục khắc kỷ của người mẹ. Sau những chuyến du hành sang Bắc Phi (từ 1893-1894), ông rơi vào cuộc dằn vặt tinh thần khi nhận ra mình đồng tính luyến ái.  André Gide ấn hành tác phẩm đầu tiên năm 22 tuổi, có tựa: Những cuốn vở của André Walter. Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch ra tiếng Việt: Bọn làm bạc giả, Dưỡng chất trần gian, Kẻ vô luân, Trường học đờn bà,… Mã hàng 8936144200254 Tên Nhà Cung Cấp Phanbook Tác giả André Gide NXB NXB Văn hóa văn nghệ Năm XB 2018 Trọng lượng (gr) 100 Kích Thước Bao Bì 12 x 18 Số trang 68 Hình thức Bìa Mềm Sản phẩm bán chạy nhất Top 100 sản phẩm Tiểu thuyết bán chạy của tháng Giá sản phẩm trên Fahasa.com đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như Phụ phí đóng gói, phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh,... Đứa con đi hoang trở về của André Gide khởi nguồn cảm hứng từ dụ ngôn Đứa con hoang đàng trong Kinh Thánh Tân ước. Với một sự triển khai đa chiều, André Gide đưa vào đó bốn cuộc đối thoại, như một vở kịch bốn màn, kéo câu chuyện khỏi không gian của bản kinh giáo điều để nối kết với cuộc sống nhân gian vốn dĩ phức tạp. Qua Ngôi Nhà và khát vọng tự do, chọn lựa phiêu lưu của tuổi trẻ và sự trở về kiếm tìm cứu rỗi nơi một con người đã nếm trải gió bụi lạc lối… André Gide mở ra các cảnh huống triết lý mà ở đó, có thể mỗi người đọc đều đã từng “nhập vai”. Về tác giả ANDRÉ GIDE (1869-1951) Là nhà văn Pháp; nhận giải Nobel Văn học năm 1947. André Gide sinh ra tại Paris, trong một gia đình trung lưu theo đạo Tin lành. Cha là giáo sư Luật học, mất sớm. Gide lớn lên trong một không gian khá cô lập ở vùng Normandy, với sự giáo dục khắc kỷ của người mẹ. Sau những chuyến du hành sang Bắc Phi (từ 1893-1894), ông rơi vào cuộc dằn vặt tinh thần khi nhận ra mình đồng tính luyến ái.  André Gide ấn hành tác phẩm đầu tiên năm 22 tuổi, có tựa: Những cuốn vở của André Walter. Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch ra tiếng Việt: Bọn làm bạc giả, Dưỡng chất trần gian, Kẻ vô luân, Trường học đờn bà,… *** ĐỨA CON ĐI HOANG TRỞ VỀ - Review từ bạn Twineaquarius (Goodreads) "Con người ta cần có một mái nhà nghỉ đầu trong đó. Kiêu căng nào! Con tưởng ngủ giữa gió lặng được sao?" "Vì tôi đây sống trong vòng trật tự; cái gì khác với trật tự đều là kết quả của kiêu căng hoặc mầm mống của kiêu căng" #Đứa_con_đi_hoang_trở_về #AndréGide Lấy cảm hứng từ dụ ngôn Đứa con hoang đàng trong Kinh thánh Tân ước, André Gide viết Đứa con đi hoang trở về với góc nhìn đa chiều hơn những điều Kinh Tân ước đưa ra trong dụ ngôn. Gần gũi, thực tế và quan điểm của mỗi nhân vật trong dụ ngôn đều được André Gide thể hiện trọn vẹn qua bốn cuộc hội thoại giữa Đưa con đi hoang và gia đình. Dụ ngôn Đứa con hoang đàng được ghi và để truyền giảng vào Thứ Bảy sau Chúa nhật II Mùa Chay, nhằm nổi bật lên Thông điệp Tình yêu và ân điển của Thiên Chúa được ban cho vô điều kiện (trích wikipedia). Dụ ngôn không đề cao việc một người chăm chỉ ngoan đạo làm ăn, hết lòng vì "ngôi nhà" (người anh cả), mà để cao hành động quay đầu lại trong ăn năn hối cải thì sẽ được hưởng sự bao dung. Có lẽ dụ ngôn có khá nhiều điểm tương đồng với một xã hội đề cao nền tảng gia đình của người Châu Á. Đối với tác phẩm Đứa con đi hoang trở về của André Gide, ngoài câu chuyện chính về sự trở về của Đứa con (Đãng tử), với bốn phân đoạn hội thoại giữa Đãng tử với Cha, Anh cả, Mẹ và Người em là câu chuyện của Đãng tử với quyết định ra đi, là cái nhìn của mỗi người với hành vi từ bỏ "ngôi nhà" của Đãng tử. Về phần này André Gide còn thành công hơn cả khi khiến mình phải suy nghĩ nhiều về hình ảnh Đứa con vì sao muốn ra đi, vì sao sống trong sự chở che của "ngôi nhà" nhưng anh lại quyết tâm từ bỏ, vì sao quãng đời từ bỏ anh lại quay về, và khi quay về điều gì khiến anh ăn năn hối hận với quyết định đó. Mình cực thích phân đoạn hội thoại giữa người em và Đãng tử. Nó giống như sự tiếp nối, nhưng ở một phương diện trọn vẹn hơn. Ví như Đãng tử mang toàn bộ tài sản được chia cho để ra đi thì người em lại sẵn sàng "ra đi không có gì hết", và chính vì như thế lại có khi hay hơn. Hình ảnh Đãng tử nhìn về Khu vườn nơi an nghỉ của họ hàng và Hình ảnh Người em kêu Đãng tử dìu ra khỏi cửa, mang theo "tất cả hy vọng của anh" thực sự khiến mình cảm động. Bởi mình cảm thấy giống như việc bao bọc được chuyển biến thành tin tưởng, như việc giao cho người ta cần câu chứ không phải con cá. Từ sự trở về của Đãng tử đến bước ra đi của người em là hai thế hệ, hai luồng tư duy hoàn toàn khác và tốt lên rất rất nhiều. Thêm một phần nữa ấy là lời bạt của dịch giả Bửu Ý cũng quá ấn tượng. "Trở về là thất bại của đứa con đi hoang, nhưng là một thất bại động lòng người... Có ra đi, đến khi trở về, hắn mới biết mình không phải là người sinh ra cho những cuộc ra đi...Hắn bây giờ hy vọng cho người khác." Phải nói đọc Đứa con đi hoang trở về mới thấy đôi khi giá trị một cuốn sách không nằm ở việc thậy dày, thật nhiều trang nhiều chữ. Một cuốn sách cực mỏng, có khi chỉ cần 15p đọc nhưng lại mang đến quá nhiều tư tưởng hay ở trong đó. Đúng là đáng đồng tiền bát gạo mà!" ***     Image Tôi vẽ lại đây, thể theo niềm vui thầm kín của mình, tương tự như ngươi đời thực hiện trên các họa bản tam bình, lời ngụ ngôn mà Đức Chúa Giêsu đã truyền thuật cho chúng ta. Mặc đôi đường hứng cảm sinh động lòng mình phân tán trà trộn vào nhau, tôi không tìm cách minh chứng một đấng nào vượt thắng tôi - mà cũng không minh chứng rằng tôi vượt thắng. Song le, nếu độc giả buộc tôi có lòng hiếu hạnh, cũng có thề độc giả sẽ không hoài công tìm kiếm lòng hiếu hạnh ấy trong bức tranh tôi, nơi đây khác nào người tặng tranh tại vị ở góc tranh, tôi đã phủ phục quỳ gối, đối diện với tên đãng tử, giống như nó, tươi cười mà mặt đầm đìa nước mắt. Image Đứa Con Phóng Đãng   Sau một thời gian vắng mặt lâu dài, mỏi mệt theo cao hứng nhất thời và chừng như đã qua thời luyến ngã, thằng con phóng đãng, giữa tình cảnh xác xơ mà hắn chọn tìm, chạnh lòng nhớ tới nét mặt cha, nhớ căn buống ấy, một căn buồng không chật hẹp, nơi mẹ đến lom khom trên giường hắn, nhớ khuôn viên tưới mát bằng nước chảy thông, nhưng bịt bùng, mà hắn luôn muốn thoát ra, nhớ người anh cả cần kiệm hắn chẳng hề yêu, nhưng người anh trong khi chờ đợi hiện còn nắm giữ phần của cải mà hắn vì phóng đãng nên không thể tiêu pha – thằng con nhìn nhận chẳng tìm được hạnh phúc mà cũng khó thể kéo dài lâu thêm cơn mê say này nữa mà hắn truy tầm đền bù lấp vào hạnh phúc khiếm khuyết.— Hỡi ôi! Hắn nghĩ, ví thứ ban đầu cha ta giận dỗi ngỡ ta chết mất rồi, e có lẽ, dù ta có tội đấy, người cũng hoan hỉ thấy lại ta chứ lẽ nào. Ôi! Về lại với người vô cùng bé nhò, vẩng trán ta gầm xuồng phủ đầy tro than, nếu ta cúi đầu trước mặt người, thưa gửi: “Lạy cha, con trót phạm tội nghịch ý trời ý cha”, ta sẽ xứ trí ra làm sao đây nèu người đưa tay nâng ta dậy, bảo: “Vào nhà đi con”, làm sao?... Thế là đứa con bắt đầu nhắm đường đi tới, thiện tâm từ tính. Image   Khi khuất bóng ngọn đồi, đáo cùng hắn nhác thầy lớp lớp mái nhà khói tỏa, ấy là về chiều; nhưng hắn còn đợi bóng đêm hầu che đậy phần nào cảnh cùng xúc của mình. Hắn nghe ra xa xa giọng nói người cha; gối quỵ ngã: hắn vật mình lấy tay che mặt, bởi tủi hổ thấy mình tủi hổ, đành rằng hắn là con chính thức. Hắn đói; trong nếp áo bành tô thủng nát, còn đâu vỏn vẹn nẳm hạt dẻ ngọt bùi hắn quen dùng làm lương thực, giống y như đàn lợn con hắn chăn giữ. Hắn hình dung những đồ gia vị bữa ăn khuya. Hắn nhận ra mẹ đi tới trên thềm... Không kềm lòng được nữa, hắn chạy dốc xuống đồi, tiến vào sân nhà, con chó không nhận ra hắn, lên tiềng sủa. Hắn muốn ngỏ lời cùng bọn nô bộc, nhưng bọn này nghi ngại lánh xa, đi thưa báo cho chủ; đây ông chủ. Có lẽ ông vẫn trông thằng đãng tử, vì ông nhận hắn ra ngay. Ông giang tay; đứa con trước mặt bây giờ sụp gối, và cánh tay bưng lấy trán, hô hoán cùng cha, hắn đưa bàn tay mặt hướng tới lòng ân xá: - Lạy cha! Lạy cha, con phạm trọng tội nghịch ý trời ý cha; con không còn đáng được cha gọi tới tên; nhưng may ra, cầm bằng như đứa tôi tớ, tôi tớ mạt hạng, cha hãy rủ lòng cho con sống trong xó nhà... Người cha nâng hắn dậy và vồn vã: - Con của cha ôi! trời run rủi cho ngày con vể lại với cha! - và niềm vui sướng của người, rào rạt tràn lòng, chảy thành nước mắt; người cứ đẩu lên khỏi vầng trán con, người hôn lên đó, quay sang bọn gia nhân: - Chúng bây đem chiếc áo nào đẹp nhất ra đây; đi giày vào chân cho cậu, đeo nhẫn quý vào ngón tay cậu. Chúng bây tìm trong các chuồng coi con bê nào béo nhất làm thịt; sửa soạn một bữa lạc yên, bởi đứa con trước kia ta bảo từ trần nay còn sồng. Và vì tin đã lan truyền, người cha chạy đi, không chịu để một ai khác nói: - Mẹ nó ơi, đứa con ta khóc thương đã được trả về cho chúng ta. Niềm vui của hết thẩy mọi người dâng dậy tựa hồ khúc nhạc khiến người con trưởng đăm chiêu. Anh ngổi chung bàn ư, là bởi tại người cha mời mọc hối thúc anh buộc lòng anh ngói đây thôi. Mình anh giữa đông đủ thực khách, vì cho chí tên tội tớ hèn mọn nhất cũng được mời vào, anh để lộ vầng thiên đình thịnh nộ: đối với tên hối tội, cớ sao lẳm vinh dự thế này hơn là đối với chính anh, là kẻ chưa từng phạm tội? Anh chuộng trật tự nghiêm minh hơn tình yêu thương. Anh chịu ra mặt trong bữa tiệc, chẳng qua là vì, nhượng thằng em, anh có thể cho nó vui mượn một tối; phương chi song thân cùng hứa với anh ngày mai sẽ khiển trách tên phóng đãng và chính anh cũng sẵn sàng thuyết giáo nó nghiêm túc. Các đuốc lửa thở khói lên trời. Bữa ăn đã tàn. Bọn gia đinh dọn dẹp xong. Bây giờ; trong đêm khuya không có lầy một hời thoảng vào trối dậy; ngôi nhà mê mỏi, người lại người, sẽ ngủ nghê. Song, bên trong căn buồng kê cận buổng tên phóng đãng, tôi biêt có một đứa con, thằng em nó, trọn đêm chí hừng sáng, sẽ không tài nào dỗ giấc.   Mời các bạn đón đọc Đứa Con Đi Hoang Trở Về của tác giả Andre Gide & Bửu Ý (dịch).