Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nội Ngoại Đều Thương (Khiêm Cung)

Tôi thực sự ngạc nhiên khi nhận được món quà gửi từ nước Úc xa xôi: tuyển tập truyện ngắn Nội Ngoại Đều Thươngcủa Khiêm Cung.

Bìa sách in hai màu xanh trắng trang nhã với bức ảnh làng quê ẩn hiện trong rừng dừa dọc hai bên bờ con sông lặng lẽ êm đềm. Tôi mê sách báo nhưng ít khi ngắm nghía một quyển sách mà lòng rộn ràng như lúc này. Cái tựa Nội Ngoại Đều Thương nghe thật dễ thương và một bút danh nghe thật… khiêm cung.

Nhìn cái giá bưu phí ngang gần ấn phí (tôi ước chừng vì bản đặc biệt không đề giá bán) tôi nao nao nghĩ đến cái tình đồng hương ông dành cho tôi… Tôi không quen Khiêm Cung, chỉ biết ông qua các bút ký, truyện ngắn xuất hiện đều đều

trên trang nhà Thất Sơn Châu Đốc. Nếu chỉ vì tình đồng hương thì chưa đủ lý do để quyển sách vượt ngàn dặm đường. Hẳn là phải thêm cái nòi tình đồng điệu văn chương chữ nghĩa…

Không một chút chần chừ, tôi đọc ngay tập truyện. Đọc mỗi truyện chừng một trang tôi đều nhận ra rằng truyện đó tôi đã đọc rồi. Nhưng việc đọc rồi không đủ sức để ngăn tôi đọc… một lèo hết quyển sách dầy 228 trang. Tôi gấp sách lại, lòng lâng lâng bồi hồi, một cảm giác không hề có sau khi đọc từng bài của Khiêm Cung đăng cách quảng trước đây. Sự nối kết các truyện ngắn như tạo thành một sức hút mới mẻ và mạnh mẻ. Tìm mua: Nội Ngoại Đều Thương TiKi Lazada Shopee

Bằng vào lời phi lộ “Về già rảnh rổi viết để giải khuây, nhớ gì viết nấy”, thì hẳn ông bắt đầu viết vào lứa tuổi …tri thiên mệnh. Thế nhưng những gì ông nhớ và viết ra thì thật đáng kinh ngạc so với số tuổi của ông. Truyện mở đầu Làng Tôi, ông viết về sinh quán làng Bắc Nam phía bắc Châu Đốc. Ông vẻ ra tỉ mỉ đường đi nước bước, ông nhớ các sư sãi chân đất ôm bình bát đi khất thực theo sau vài chú tiểu mới xuất gia. Ông kể chuyện người Miên đua thuyền trong ngày lễ Rước Nước. Ông mô tả vũ điệu Là Khol và các nhạc khí. Ông ghi lại sinh hoạt cúng đình, lễ Vu Lan và nhất là lễ Nghinh Ông “cứ bốn thanh niên khiêng một cái kiệu để cung nghinh chư vị Châu Sương, Quan Bình, Ông Oanh đang lên đồng, miệng thở xì xịt, tay cầm kiếm sắt cắt lưỡi lấy máu vẽ bùa, hoặc chém vào lưng, hoặc dùng cây sắt nhọn xuyên thủng hai bên má, máu chảy dầm dề…”. Thuở nhỏ tôi cũng từng chen lấn xem lễ Nghinh Ông nhưng chắc chắn không thể nhớ lại để diễn đạt sắc nét như Khiêm Cung.

Cũng trong truyện này, ông kể về những ngày Tết trẻ thơ bên lò nấu bánh tét và đốt pháo kim… Ông cũng không quên vẻ lại cái thảm cảnh mùa lũ lụt: “…Lúc đó tôi thường hay nhìn quanh nhìn quất xem ở rặng cây xa xa trên đồng nước bao la có cái giàn để quan tài người chết hay không…Người ta phải làm một cái giàn… dùng để tạm quan tài người chết, chờ khi nước rút hết mới chôn xuống đất”.

Truyện kế tiếp là Dòng Sông Kỷ Niệm nơi người lớn sống bằng nghề bắt cá qua nhiều cách thức khác nhau, còn cậu bé Dương Văn Chung thì lo bắt cá thia thia, móc đất sét nắn đồ chơi, hoặc bơi thuyền ra giữa dòng sông Châu Đốc, lấy rổ cào tôm cào cá vào xuồng…

Tôi đang miên man theo những kỷ niệm thời thơ trẻ của tác giả ở vùng biên giới Việt Miên thì đến bài liền theo đó Cái Hôn Lộ Thiên tác giả đột ngột …kéo tôi đi dự đám cưới con trai người bạn ở Úc. Qua bài này, trong tư cách người lớn tuổi, Khiêm Cung nhận xét về những cải biến trong hôn lễ của người Việt ở xứ người…

Rồi đang dự đám cưới ở nước Úc năm 1989, Khiêm Cung quay về Việt Nam thương yêu bằng cách hồi tưởng về Một Chuyến Vượt Biên rất gian nan vài năm trước đó. Lối kể chuyện của ông là lối kể chuyện trinh thám, khiến tôi gần đứng

tim và luôn mong mõi cả gia đình ông được thoát đi xuông xẻ. Quả nhiên gia đình ông không bị công an bắt. Nhưng hãy nghe ông tỏ lời kết thúc chuyến vượt biên: “Trái đất tròn, nước Việt Nam mình cũng tròn, gia đình tôi đi vòng vòng rồi trở về chỗ cũ”. Ông thất bại chua cay, mất bao nhiêu tiền của mà vẫn giữ nụ cười hóm hỉnh…

Có lẽ chính nhờ tinh thần hài hước đó mà Khiêm Cung đã tuyển chọn bài và cố tình sắp xếp theo thứ tự thời gian đột biến: từ một quá khứ ấu thơ rồi bất ngờ kể chuyện tuổi già, từ tuổi già bỗng quay lại thuở học trò, từ thuở học trò chợt nhảy sang thời… mất nước. Thời gian đột biến kéo theo không gian đột biến. Từ quê nội sang quê ngoại. Từ quê nhà chuyển sang quê người. Đề tài cũng biến đổi liên tục. Từ gia đình đến hàng xóm. Từ thầy cô đến bạn bè. Từ tập tục lễ

nghĩa đến chuyện cũ tích xưa. Từ ngôn ngữ bất đồng đến con người bất bình đẳng… Hiện tại-quá khứ xem ra không dính gì nhau mà lại đan nhau một cách một cách khéo léo, tự nhiên và lôi cuốn.

Tôi tâm đắc cái tựa sách Nội Ngoại Đều Thương. Nó phù hợp với nội dung của toàn tập truyện. Nội mang nghĩa quê nội mà cũng có nghĩa quê nhà. Ngoại là quê ngoại mà cũng có nghĩa quê người. Khiêm Cung tỏ ra thương cả bên nội lẫn

bên ngoại dù ông thú nhận thương bên ngoại nhiều hơn. Ngược lại ông hướng tâm tư tình cảm thiết tha về quê nhà so với chỉ là lòng biết ơn quê người.

Quê nội ngoại của Khiêm Cung là làng quê phía Bắc của thị xã Châu Đốc. Quê nội ngoại của tôi ở về phía Đông. Nếu ông chưa hề quên quê cha đất tổ thì trên 20 năm ở quê người tôi cũng thường tìm đọc các truyện miệt vườn để đỡ nhớ quê mình. Các tác giả ưa thích của tôi là Phạm Thăng, Nguyễn Văn Ba, Hồ Trường An, Hứa Hoành, Nguyễn Tấn Hưng. Gần đây, từ ngày trang nhà Thất Sơn Châu Đốc trình làng, tôi bắt đầu yêu chuộng Hai Trầu Lương Thư Trung, Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa. Và dành cảm tình đặc biệt cho Khiêm Cung Dương Văn Chung. Đặc biệt vì những gì Khiêm Cung viết về quê ông cũng chính là hình ảnh sự việc ở quê tôi và những gì ông quan ngại về truyền thống dân tộc trước cuộc hội nhập ở nước Úc thì cũng là mối ưu tư của mọi người.

Thêm vào đó, qua Nội Ngoại Đều Thương tôi học hỏi thêm nhiều điều thú vị. Ngoài việc tác giả giúp tôi sáng tỏ các lễ lạc, tập tục, mùa màng mà tôi hiểu biết lờ mờ hoặc đã quên lãng, ông còn đưa ra các câu ca dao dễ thương tôi chưa từng nghe đến:

Biển Hồ cực lắm em ơi. Ban đêm xẻ cá ban ngày phơi khô (tr.9).

Cây khô tưới nước cũng khô. Vận nghèo đi tới xứ mô cũng nghèo (tr.82).

Trầu vàng ăn với cau dày. Tao nghe má nói gả mày cho tao (tr.120).

Cu kêu ba tiếng cu kêu.Cho mau tới Tết dựng nêu ăn chè (tr. 124).

Ông cũng giúp tôi hiểu được vì sao có những đứa trẻ gọi chính mẹ ruột mình bằng Vú và vì sao người ta đặt tên cho loài cây có hoa đỏ rực vào mùa hè là cây phượng vỹ… Với một trí nhớ lạ thường, một tri thức quảng bác, với lời văn bình dị

sáng sủa đôi khi diểm chút khôi hài ý nhị, tôi không tin tập truyện Nội Ngoại Đều Thương được hình thành như ông bày tỏ: “Về già rảnh rổi viết để giải khuây”. Ông nói gì thì nói, tự tập truyện của ông đã hàm chứa đầy đủ các lời nhắn nhủ về đạo làm người Việt Nam, rất cần cho con cháu ông, cho con cháu tôi và cho tuổi trẻ hải ngoại.

Cuối tác phẩm là phụ lục dầy 25 trang như là lời bạt của nhà văn Lương Thư Trung. Nhà văn đã nồng nhiệt chúc mừng và ngợi khen tác phẩm đầu tay của Khiêm Cung. Tôi không có kết luận nào khác hơn là đồng ý với nhận xét của bác Hai

Trầu ở Kinh Xáng Bốn Tổng: “ … Những gì anh viết bằng chất liệu thật nuôi sống tâm hồn anh lớn dậy và những trang sách của anh làm con tim tôi rung cảm, bồi hồi”.

Mong đợi tác phẩm kế tiếp…

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nội Ngoại Đều Thương PDF của tác giả Khiêm Cung nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời - Jules Verne
Jules Verne là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Pháp trong thể loại "Tiểu thuyết khoa học viễn tưởng”. Bạn đọc Việt Nam, ai là người chẳng từng đọc qua các tác phẩm tiêu biểu của ông về đề tài này như Vòng quanh thế giới trong 80 ngày, 20. 000 dặm dưới đáy biển, Năm tuần trên khinh khí cầu. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, ngòi bút của ông cũng không kém phần sắc sảo. Bạn đọc nào ưa thích thể loại này hẳn đã phải đọc qua: Những đứa con của thuyền trưởng Grant, Phiêu lưu vào vùng mỏ Aberfoyle của ông, cũng do Nhà Xuất bản Trẻ xuất bản. Lần ấn hành này, chúng tôi cho ra mắt bạn đọc cuốn Ngọn hải đăng nơi cuối trời, một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm của Jules Verne để đóng góp thêm vào tủ sách Văn học dịch của Việt Nam. Chuyện xoay quanh việc chính phủ nước cộng hòa Argentina cho xây dựng trên một hòn đảo mang tên “Đảo các quốc gia" một ngọn hải đăng, nhằm hướng dẫn các tàu bè qua lại eo biển Lemaira, một eo biển hẹp lởm chởm các bãi đá ngầm. Sau khi khánh thành ngọn đèn biển này, toàn bộ công nhân xây dựng, kỹ sư... đã được rút đi chỉ để lại trên đảo một toán bảo vệ gồm ba người là Vasquez, Felipe và Moriz. Tổ bảo vệ này có trách nhiệm vận hành đèn hằng đêm và bảo vệ nó. Họ sẽ ở lại đảo trong một thời gian nhất định, sau đó ở đất liền sẽ có một tổ bảo vệ khác ra thay thế họ để tiếp tục công việc trên. Mọi việc đã diễn ra khá suông sẻ trong thời gian đầu. Cho đến một ngày kia, trong một lần đi săn thú để có thịt tươi cải thiện bữa ăn, toán bảo vệ hạ được một con nai đã bị thương do một viên dạn mà ai đó đã bắn vào nó trước khi bị toán bảo vệ bắt được. Sự việc này đem đến một nỗi lo ngại: trên hoang đảo này đã có người ngoài họ, mà những người này lại có súng. Những người đó là ai, người lương thiện hay kẻ bắt lương? Câu trả lời đến ngay sau đó với cái chết của hai nhân viên bao vệ là Felipe và Moriz. Họ bị hạ sát trong khi đang thi hành nhiệm vụ, bởi một băng cướp có vũ trang; bọn chúng khoảng 12 tên, tên cầm đầu là Kongre, một tên cướp khét tiếng ở vùng biển này. Chỉ còn lại một mình tổ trưởng Vasquez đối mặt với một băng cướp có số lượng đông hơn gấp nhiều lần. Anh sẽ phải hành động ra sao để có thể tự bảo vệ mình, đồng thời vẫn hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ "Ngọn hải đăng nơi cuối trời” nhằm tránh cho các tàu bè qua lại eo biển khỏi gặp hiểm nguy. *** Mặt trời sắp lặn đằng sau những quả đồi phía tây. Thời tiết rất tốt. Về phía trước, mặt biển như hòa vào bầu trời ở phía đông và đông-bắc, những đám mây nhỏ còn phản chiếu những tia nắng cuối cùng, những tia nắng mà chẳng mấy chốc nữa sẽ chìm vào bóng hoàng hôn, một hoàng hôn rất dài ở một nơi có vĩ độ năm mươi lăm độ của nam bán cầu. Đúng vào lúc đĩa mặt trời vừa khuất hẳn dưới đường chân trời thì một phát đại bác vang lên trên tuần dương hạm Santa-Fé, và lá cờ của nước Cộng hòa Argentina được kéo lên đỉnh cột buồm sau, nó phần phật cuộn bay trong gió biển. Cùng lúc đó một chùm tia sáng tỏa lan rực rỡ từ đỉnh ngọn hải đăng được xây cách vịnh Elgor, nơi tuần dương hạm Santa-Fé thả neo, một tầm súng. Hai người gác đèn cùng đám thợ tụ tập trên bãi cát còn thủy thủ đoàn thì tập họp trên boong trước của chiến hạm, tất cả cùng reo vang chào đón chùm tia sáng đầu tiên được thắp lên ở nơi bờ biển xa xôi này. Hai phát đại bác nữa lại vang lên như đáp lại những tiếng reo hò đó, những tiếng nổ đập vào những ngọn núi xung quanh vang dội trở lại nhiều lần. Những lá cờ trên chiến hạm lại được hạ xuống đúng theo nghi thức hải quân; và sự im lặng lại bao trùm lên hòn đảo “đa quốc gia” nằm đúng ở nơi gặp nhau của hai biển lớn Đại Tây dương và Thái Bình dương. Sau đó, đám thợ bước lên boong của chiếc Santa-fé và như vậy trên bờ chỉ còn lại ba người để làm công việc gác đèn. Một người gác đang làm nhiệm vụ trong phòng, hai người kia chưa về nơi nghỉ ngay mà còn dạo bước chuyện trò dọc theo bờ biển. - Anh Vasquez này! - Người trẻ nói - ngày mai chiếc tuần dương hạm mới nhổ neo chứ... - Đúng thế Felipe - Vasquez đáp - và tao hy vọng là chuyến đi về này được suôn sẻ. - Có xa không anh Vasquez?... - Chuyến đi bao xa thì trở về cũng y như thế. - Chưa chắc thế đâu - Felipe vừa cười vừa đáp. - À này - Vasquez tiếp - đôi khi lúc đi, thời gian lâu hơn lúc về trừ trường hợp gió không được ổn định lắm!... Nhưng nói cho cùng một ngàn rưỡi hải lý cũng không phải là xa nếu như con tàu có máy móc ngon lành và chuyến đi thuận buồm xuôi gió. - Và nếu như thuyền trưởng chiếc Lafayate lại rành đường đi nữa thì hẳn là... - Thì tàu cứ việc thẳng đường mà đi, lúc đi đã theo hướng nam, như vậy lúc về ta cứ hướng bắc mà tiến, và nếu gió cứ tiếp tục thổi từ đất liền ra thì ta cứ men theo bờ biển mà đi, cứ như đi trên con sông mà thôi. - Nhưng con sông đó chỉ có một bờ - Felipe tiếp. - Mặc, miễn là có gió, tốt nhất là luôn luôn được gió thổi. - Đúng thế - Felipe nhận xét - nhưng nếu gió cứ luôn đổi chiều thì...   Mời các bạn đón đọc Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời của tác giả Jules Verne.
Hòn Đảo Bí Mật - Jules Verne
Jules Verne (1828 - 1905) nhà văn Pháp nổi tiếng được mệnh danh là bậc thầy về viết truyện phiêu lưu và khoa học viễn tưởng. Ông nổi tiếng ngay từ những tiểu thuyết đầu tay của mình, sách của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài, phát hành rộng rải khắp nơi, được mọi người, nhất là giới trẻ, háo hức đón đọc. Trong những năm 1970, so với các tác giả khác thì số sách của Jules Verne được xuất bản đứng hàng thứ ba trên thế giới. Không phải ngẫu nhiên người ta gọi ông là "người đồng hành bất tử của tuổi trẻ". J. Verne vừa là nhà văn, vừa là nhà khoa học có kiến thức uyên bác, tư tưởng tiến bộ, trí tưởng tượng phong phú. Ông là người khởi xướng loại truyện khoa học viễn tưởng dựa trên sự thật khoa học. Ông còn là nhà văn kiệt xuất viết tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, đồng thời là người cố sức say sưa cho khoa học và tương lai của nó. Đến nay, nhiều dự kiến, ước mơ của ông đã trở thành hiện thực. Bằng lao động nghệ thuật sáng tạo, J. Verne đã góp phần cống hiến to lớn cho nền văn minh và tiến bộ của loài người. Nhiều thế hệ bạn đọc trẻ đã được hiểu biết và giáo dục qua các tiểu thuyết của ông. Nhiều nhà bác học, nhà phát minh, nhà du lịch đã cảm ơn J. Verne mỗi khi nhớ lại rằng, thời niên thiếu, nhờ say mê đọc sách của ông mà họ đã phát triển được năng khiếu, thậm chí đã có những phát minh quan trọng. *** Hòn Đảo Bí Mật có thể được xem là tập thứ 3 trong series sau Hai Vạn Dặm Dưới Đáy Biển và Những Đứa Con Của Thuyền Trưởng Grant. Trong tác phẩm này ta được gặp lại vị thuyền trưởng tài ba Nemo và con tàu huyền thoại Nautilus. Câu chuyện không có nhiều tình tiết ly kỳ, chỉ là một câu chuyện về năm con người trốn khỏi cuộc nội chiến ở Mỹ đã vô tình lạc lên một hòn đảo hoang vu giữa Thái Bình Dương mênh mông! Chỉ với năm con người, năm đôi bàn tay trắng nhưng với kiến thức, với sức lao động miệt mài và lòng đoàn kết họ đã chinh phục được thiên nhiên. Họ đã biến hòn đảo ấy thành một nơi cư ngụ tuyệt vời, có lúa mì, có bông vải, có nhà cửa, có điện, thậm chí có cả một toa xe lửa! Một câu chuyện chỉ với năm người đàn ông: một kỹ sư, một nhà báo, một thuỷ thủ, một nô lệ và một chú bé! 1000 trang sách không hề có bóng dáng người phụ nữ nào, cũng không có bóng dáng tình yêu, chỉ có tràn ngập tình người. Có những trang sách làm ta bất ngờ và khâm phục về khả năng của con người trước những thử thách của thiên nhiên, và có những trang sách làm ta rơi nước mắt... *** Hẳn mọi người còn nhớ cơn bão khủng khiếp xảy ra vào năm 1865. Trận cuồng phong đã hoành hành không ngớt từ ngày 18 đến ngày 26 tháng ba và sức tàn phá thật là ghê gớm: khắp châu Mỹ, châu Âu, châu Á, bao trùm cả một vùng rộng một ngàn tám trăm hải lý, kéo dài từ hướng đông bắc tới tận xích đạo. Hậu quả do bão gây ra thật khủng khiếp. Tàu bè bị sóng đập nát, thành phố bị tàn phá, hàng ngàn người bị những trận lốc xoáy cuốn đi hoặc nhận chìm xuống lòng biển. Khi trên đất liền và trên biển đang chịu đựng trận thiên tai này thì một thảm kịch không kém phần khủng khiếp cũng đã xảy ra trên không do bão tố gây nên. Trong những ngày tháng ba năm 1865, trận cuồng phong đã cuốn phăng một quả khí cầu mà trên đó có năm người khách đang viễn du, nhồi nó lên tận đỉnh cột lốc như một quả bóng, rồi xoáy hút nó theo. Trên giỏ treo của khí cầu có năm người. Ta có thể loáng thoáng nhận ra họ trong làn sương dày đặc quyện lẫn bụi nước đại dương. Lúc này các nhà du hành đang ở trong giỏ treo của khí cầu không thể biết được họ đã vượt một chặng đường bao xa và khí cầu của họ bị cuốn đi đâu, họ không có một cột mốc nào để xác định vị trí cả. Mãi đến khi khí cầu vùn vụt lao xuống họ mới hay mình đang bay trên những lớp sóng biển hung dữ, và hiểu ra mình đang gặp nguy hiểm chết người. Nhưng khi họ vứt hết những vật nặng trong giỏ treo của khí cầu như súng đạn, lương thực thì khí cầu lại vọt lên. Ngày hôm sau, khi bão bắt đầu yên cũng là lúc vỏ khí cầu lại dài ra, co rúm lại và họ xuống liên tục. Rõ ràng là không thể nào giữ cho khí cầu thăng bằng trên cao được nữa, vì nó không còn đủ hơi gas. Thế là cái chết đang sẵn sàng tìm đến họ! Bên dưới không phải là đất liền, mà là biển cả mênh mông, không có cù lao, không đảo nổi, không một dải đất để neo khí cầu. Đến hai giờ chiều ngày 24, khí cầu chỉ còn cách mặt đại dương khoảng bốn năm bộ. Đúng lúc ấy một tiếng nói quả cảm vang lên: - Vứt bỏ hết mọi thứ rồi chứ? - Chưa! Còn lại vàng, mười ngàn đồng Franc cả thảy! – một giọng nói khác kiên quyết nói. Ngay tức khắc, chiếc bao tải nặng đựng tiền rơi vụt xuống đại dương. - Còn vật gì để quẳng đi được không? - Hết rồi! - Mọi người hãy bám lấy lưới. Chúng ta sẽ vứt cái giỏ treo xuống biển. Thật vậy, chỉ còn cách cuối cùng và duy nhất ấy là có khả năng làm cho khí cầu nhẹ bớt mà thôi. Những sợi dây buộc nối vào vành đai lưới đã bị cắt đứt, và đến khi chiếc giỏ tách rời ra, khinh khí cầu bốc lên trên mực nước biển hai ngàn bộ. Năm nhà du hành leo lên vành đai và bây giờ họ trụ trên các mắt lưới, tay bám chặt vào những sợi dây. Phía bên dưới, đại dương đang gầm thét. Đến bốn giờ chiều, khí cầu chỉ còn cách đại dương năm trăm bộ. Bỗng con chó mà các nhà du hành mang theo sủa vang. Nó cũng đang ở bên dưới khí cầu, cạnh viên kỹ sư chủ nhân của nó. - Con Top đã trông thấy cái gì rồi! – một người trong số du khách kêu lên. Và liền ngay đó có tiếng reo vang: - Đất liền! Đất liền! Quả thật, trước mặt các du khách xuất hiện một bờ biển khá cao cách họ khoảng ba mươi hải lý. Muốn đến đó, khí cầu cần bay ít nhất một giờ, với điều kiện là gió không đổi hướng. Nếu hơi gas bị xì hết trước thời hạn đó thì sao? Thật là một câu hỏi khủng khiếp! Các du khách bất hạnh đã cố phân biệt rõ mặt đất phía bên dưới. Họ không biết đó là đảo hay đất liền. Nhưng dù trước mặt họ là một hòn đảo hoang, thì cũng cần phải đến được đó bằng bất cứ giá nào. Nửa giờ trôi qua, họ chỉ còn cách mặt đất không quá một hải lý, nhưng hơi gas trong khí cầu hầu như đã cạn kiệt, chỉ còn chút ít ở phần trên. Các du khách bíu chặt vào lưới và trọng lượng của họ quá tải đối với khí cầu. Vỏ khí cầu bị gấp khúc, gió thổi trôi trên mặt nước như một cái thuyền buồm, chỉ còn cách bờ hai cabeltov nữa thôi. Nhưng bỗng bốn du khách bật lên tiếng kêu, và quả khí cầu bị mất hết sức nâng lại bất ngờ vọt lên cao khoảng một ngàn tám trăm bộ. Đến đây, nó lại sa vào một vùng không khí loãng và bị gió cuốn đi, không phải vào bờ, mà hầu như song song với bờ. Hai phút sau thì gió đổi hướng và quả cầu bị hất lên bờ cát. Các du khách giúp nhau chui ra khỏi lớp lưới bao quanh họ. Quả khí cầu, sau khi thoát khỏi tình trạng quá tải, vụt bay lên khi gặp cơn gió đầu tiên, rồi biến mất trong bầu trời bao la. Trên giỏ treo của khí cầu trước đó có năm nhà du hành và một con chó, nhưng khi xuống mặt đất chỉ còn có bốn người. ... Mời các bạn đón đọc Hòn Đảo Bí Mật của tác giả Jules Verne.
Điệu Slow Trong Thang Máy - Chiu Kon-Loh
Làm sao đây, khi tình cờ bắt gặp trong thang máy, một người đẹp khiến tim mình loạn nhịp? Làm gì đây, khi tình cờ mắc kẹt trong thang máy, với người đẹp ấy trọn một đêm dài? Buồng thang máy chật hẹp, bầu không khí ngất ngây, những hình dung kích thích… Mang theo dư âm kỳ ngộ, chàng trai cố truy tìm tung tích người đẹp mà không ngờ rằng, nàng chính là đồng nghiệp cùng công ty. Chỉ có điều, nàng đã… góa chồng, lại có cô em gái cũng xinh đẹp quyến rũ không kém. Đường đua bắt đầu chật chội khi sếp nữ đa tài đa sắc cũng bày tỏ sự quan tâm “vượt mức” tới anh chàng. Một chàng trai, ba mỹ nữ. Những chân tình liệu có thể đỗ cùng một bến bờ hạnh phúc? Hài hước, cá tính, mà sâu lắng thiết tha, Điệu slow trong thang máy mang lại cho chúng ta những phong vị mới về tình yêu hiện đại. *** Chiu Kon-Loh, một cái tên quê mùa, bỗng chốc lừng danh và được lùng tìm khắp mạng Internet, nhờ một câu chuyện hấp dẫn dị thường. Trong vòng một tháng, Điệu slow trong thang máy nhận được hơn 100 triệu lần nhấp chuột. Mỗi ngày, có hàng vạn người lên mạng chờ đọc truyện của anh. Mỗi ngày, họ đều tìm thấy ở Chiu Kon-Loh những bất ngờ hoan hỉ. *** Chuyện bắt đầu khi tôi vừa tốt nghiệp đại học.   Lúc đó tôi vẫn còn làm ở Phòng Phát triển mới thành lập của công ty.   Nhìn bề ngoài thì phòng này có vẻ ghê gớm lắm, nhưng thực ra công việc toàn là mấy thứ chán ngắt chẳng ai thèm làm. Vì là phòng ban mới thành lập nên những việc lặt vặt nhiều vô kể, ngày nào cũng phải làm thêm giờ. Lại thêm tôi là nhân viên mới, thành thử mỗi lần tăng ca, tôi hầu như luôn là người về muộn nhất.   Quãng thời gian đó vô cùng buồn chánm thậm chí còn mệt mỏi hơn cả hồi thi đại học. Tôi thường không ngăn nổi suy nghĩ: Lẽ nào cả đời mình sẽ thế này, ngày ngày chỉ biết hùng hục làm việc, cứ thế cho đến già rồi chết đi.   Còn nhớ hôm đó là thứ Tư, một ngày quá đỗi bình thường. Tôi vẫn là kẻ yếu thế ra về cuối cùng. Làm xong mọi việc đã hơn mười giờ, bên ngoài trời đã tối om từ lâu. Tôi đi thang máy từ Phòng Phát triển trên tầng 8 xuống sảnh. Thang máy xuống đến tầng 5 thì dừng lại, cửa mở ra, có người bước vào.   Choáng! Hóa ra trong công ty này vẫn còn có người tan làm muộn như tôi, kỳ lạ quá đi mất. Lòng tôi hơi lấy lại được cảm giác cân bằng, nhưng ngay lập tức, cảm giác này biến mất tiêu, thay vào đó là trạng thái kinh ngạc, ngây ngất!   Người vừa bước vào là một phụ nữ, tuổi xấp xỉ 30, không cao không thấp, không béo không gầy, mắt to miệng nhỏ, eo thon chân thẳng, tóc dài vấn cao, trang điểm theo kiểu thiếu phụ.   Vừa vào thang máy, thấy tôi nàng cũng hơi lộ vẻ kinh ngạc.   Chỉ một cái nhìn thôi, mà tôi có cảm giác như mình bị nhìn xuyên thấu! Thực ra ánh mắt nàng khá dịu dàng. Nhưng không hiểu vì sao, ánh mắt dịu dàng đó lại như một lưỡi kiếm sắc ngọt, thoắt cái đâm xuyên trái tim tôi. Tôi vừa có chút vui sướng, lại thấy hơi mơ màng, nhưng nhiều hơn cả vẫn là cảm giác bất lực không thể chống đỡ…   Nàng nhìn tôi một cái rồi chẳng buồn chú ý đến tôi nữa. ... Mời các bạn đón đọc Điệu Slow Trong Thang Máy của tác giả Chiu Kon-Loh.
Bay Trên Tổ Chim Cúc Cu
Mọi chuyện ở một trại tâm thần đầy quy tắc dường như đảo lộn khi McMurphy xuất hiện. Bất trị như một chú ngựa hoang, hắn vào viện để trốn án lao động khổ sai và không hề có ý định cứu thế. Nhưng trong những ngày ở đó, cái phần tốt đẹp yêu tự do, thích tung hoành của hắn đã làm nên một cuộc cách mạng, tạo ra mối liên kết giữa những thân xác yếu ớt, những trí não bị tổn thương, nhắc họ nhớ về cá tính, về chính mình hoặc về những kẻ đã-từng-là-mình. Sự nổi loạn đó thách thức trật tự đạo đức giả mà Liên hợp áp đặt.. Cuộc chiến bất cân sức bắt đầu. Và rồi đúng như cuộc đời, kẻ yếu đã không thể thắng. McMurphy đã chết dữ dội như cách hắn sống, nhưng Liên hợp không giết được hắn, cũng không thể bắt hắn sống theo cách nó đặt ra...  Được tạo nên từ những trang văn vừa sảng khoái vừa bi thương, Bay trên tổ chim cúc cu đã chạm tới những câu hỏi phức tạp nhất về tự do và khuôn khổ, cá nhân và hệ thống, bình thường và bất thường, sự tỉnh táo và điên loạn... Một best seller, một kiệt tác văn chương có mặt trong danh sách những cuốn sách vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi, làm chỗ dựa cho một trong ba bộ phim duy nhất trong lịch sử giải Oscar từng chiến thắng ở toàn bộ các đề cử quan trọng nhất, Bay trên tổ chim cúc cu có sức mạnh của một tác phẩm không thể bị lãng quên. *** Chúng ngay ngoài đó. Đen nhẻm trong bộ quần áo trắng, chúng dậy trước tôi để làm trò dâm đãng trong hành lang và lau sạch trước khi tôi bắt được. Khi tôi bước ra khỏi buồng ngủ thì chúng đang kỳ cọ, ba đứa cau có hận thù tất cả - cả buổi sáng, cả ngôi nhà và cả những người quanh chỗ chúng đang làm việc. Và khi chúng hận thù thì đừng dại mà giơ mặt ra. Đi đôi giày vải, tôi men theo tường lặng lẽ như chuột, song chúng có những thiết bị cảm ứn siêu nhạy phát hiện ngay ra sự sợ hãi của tôi và nhất loạt ngẩng đầu lên, ba đứa một lúc, cặp mắt lóe lên trên những gương mặt đen đúa hệt những bóng đèn lóe lên sau lưng chiếc máy thu thanh cũ kỹ. “Thủ lĩnh kia rồi. Thủ lĩnh xiêu phàm kia rồi, tụi bay. Thủ lĩnh Bàn chải thân mến. Lại đây coi, Thủ lĩnh Bàn chải…” Dúi cho tôi cây giẻ và chỉ cho chỗ chúng muốn tôi phải lau chùi hôm nay, và tôi làm theo. Một thằng cho luôn cán chổi vào gót chân tôi: lẹ lên. “Tụi bay thấy không, nó làm vù vù. Dài lêu nghêu và cây sào, có thể dùng răng đớp được cả quả táo trên đầu tao, thế mà ngoan đáo để, như là em bé ấy.” Chúng cười vang và sau đó chụm đầu vào nhau thầm thì sau lưng tôi. Những cỗ máy đen xỉn gầm gừ, gầm gừ về hận thù và chết chóc lẫn nhiều bí ẩn khác của bệnh viện. Có tôi ở gần chúng cũng chẳng thèm giữ ý nói nhỏ hơn về sự hận thù của chúng bởi chắc chắn rằng tôi vừa điếc, vừa câm. Tất cả đều nghĩ như thế. Chỉ cần chút ít ranh mãnh là lừa được chúng. Điều duy nhất mà một nửa dòng máu da đỏ giúp được tôi trong cuộc sống bẩn thỉu này là trở nên ranh mãnh, nó đã giúp tôi từ hồi ấy đến giờ. Tôi đang lau sàn nhà trước cửa phòng trực thì ai đó tra chìa khóa vào ổ từ bên ngoài và tôi nhận ra mụ Y tá Trưởng khi nghe ruột khóa ôm lấy chìa, rất nhanh, rất nhẹ và thân thuộc vì mụ đã quen các loại khóa lắm rồi. Mụ lách qua cửa cùng luồng không khí lạnh ùa vào hành lang rồi khóa cửa, và tôi nhìn thấy những ngón tay mụ lướt trên mặt thép nhẵn – móng tay cùng màu với môi. Thứ màu vàng ệch. Hệt như đầu mỏ hàn. Thứ màu cực nóng hay cực lạnh đến mức ta không biết là nóng hay lạnh ngay cả khi mụ chạm vào ta. Mụ xách cái giỏ đan bằng liễu gai hình dáng như hộp đồ nghề với cái quai bằng dây gai dầu, loại giỏ này bộ tộc Umpqua vẫn bán dọc đường quốc lộ tháng Tám nóng hầm hập. Bao nhiêu năm tôi ở đây thì bấy nhiêu năm mụ ta xách nó. Mắt đan thưa và tôi thấy hết mọi thứ bên trong; chẳng có phấn, sáp hay nước hoa, mụ bỏ đầy giỏ hàng nghìn thứ sẽ dùng đến trong ca trực hôm nay – các vòng bi và bánh răng, răng đánh bóng lộn, các viên thuốc trắng nhỏ xíu sáng lên như sứ, kim tiêm, kẹp y tế, kìm mũi nhỏ và các cuộn dây đồng… Đi ngang qua chỗ tôi, mụ thoáng gật đầu. Tôi tì lên cây giẻ và nép sát vào tường mỉm cười và để lẩn trốn càng kỹ càng hay khỏi các thiết bị của mụ, tôi nhắm mắt lại – bởi khi ta nhắm mắt, người ta khó nhận biết ta hơn. Trong bóng tối tự tạo, khi mụ đi ngang qua, tôi nghe rõ tiếng đế giày cao su gõ xuống sàn và những tiếng loảng xoảng trong túi mụ theo nhịp mỗi bước chân. Mụ bước thẳng đơ như gỗ. Mở mắt ra tôi thấy mụ đã ở tít giữa hành lang chuẩn bị rẽ vào phòng Y tá; mụ sẽ ngồi suốt cả ngày trong buồng trực bằng kính, tám tiếng đồng hồ chỉ nhìn qua cửa sổ và ghi lại những gì xảy ra trước mặt mình trong phòng chung. Bộ mặt mụ lặng lẽ, hài lòng khi nghĩ về điều này. Nhưng bỗng nhiên… mụ nhận ra đám hộ lý da đen. Chúng vẫn tụm vào nhau thầm thì mà không hề phát hiện ra sự xuất hiện của mụ. Khi chợt cảm thấy cái nhìn dữ tợn chiếu tới thì đã muộn. Lẽ ra chúng chẳng nên cả gan tụ tập và ba hoa thiên địa khi sắp đến giờ mụ tới đây. Chúng sợ hãi tản ra. Mụ khuỳnh khuỳnh bước tưói, chúng dồn về mắc kẹt phía cuối hành lang. Mụ thừa biết chúng vừa thậm thụt về cái gì, và tôi thấy mụ đã điên lên không kìm chế nổi. Mụ sẽ xé xác mấy thằng nhọ khốn kiếp, mụ điên thế cơ mà. Người mụ phình lên, phình mãi đến khi cái áo trắng tưởng như nứt tung ra đến nơi, và mụ vươn dài những khúc tay đến mức có thể quấn năm sáu vòng qua ba đứa chúng. Quay cái đầu đồ sộ, mụ liếc nhìn xung quanh. Chẳng còn ai ngoài thằng Bromden Bàn chải già, thằng con lai da đỏ, nấp sau cây giẻ lau nhà và cũng không kêu cứu được bởi bị câm. Mụ bèn phát tiết ra mà bẻ cong đôi môi, biến nụ cười bằng son thành cái nhe răng gớm ghiếc, thân thể vẫn tiếp tục nở ra lớn nữa, lớn nữa, lớn nữa bằng cả chiếc máy kéo, lớn đến mức tôi ngửi thấy cả mùi khét bốc lên từ người mụ, giống như thể mùi của động cơ chạy quá tải. Vừa nín thở tôi vừa nghĩ: Chúa ơi lần này thì chúng làm thật rồi! Lần này chúng để hận thù bốc quá cao và chúng sẽ phanh thây nhau ra trước khi hiểu mình đang làm gì! ... Mời các bạn đón đọc Bay Trên Tổ Chim Cúc Cu của tác giả Ken Kesey.