Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bánh Xe Nghiệt Ngã

Tiểu thuyết “BÁNH XE NGHIỆT NGÔ của tác giả PHI TRƯỜNG đưa bạn đọc đi sâu vào một cơ sở sản xuất của nền công nghiệp hiện đại Hoa Kỳ, hé cho ta thấy bí quyết thành công của nó : những giám đốc năng nổ, tháo vát làm việc mười hai mười bốn tiếng một ngày, những kỹ sư tận tụy yêu nghề luôn tìm cách ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất để nâng cao chất lượng sản phấm, tổ chức lao động chặt chẽ trong nhà máy mẹ kết hợp với hệ thống xí nghiệp vệ tinh qui tụ những tay nghề cao, bộ máy quảng cáo và dịch vụ thương mại rộng khắp thuận tiện cho người tiêu dùng… Đồng thời tác giả cũng phanh phui những mâu thuẫn đang ngáng trở nền sản xuất lớn tư bản. Chủ nghĩa phát triển thậm chí có nguy cơ sa sút : sự cạnh tranh tàn nhẫn giữa các công ti cá mập, nạn ô nhiễm môi trường sống, tệ phân biệt chủng tộc và nạn mafia có mặt khắp nơi dùng khủng bố tàn bạo để bòn rút công nhân, số đông người lao động bần cùng nổi giận… Qua câu chuyên xoay quanh một nhà máy sản xuất ôtô lớn với nhiều gương mặt rất khác nhau, chủ tịch công ty, quản đốc phân xưởng, công nhân bình thường, da trắng và da đen, những cặp vợ chồng chung thủy và những cô nhân tình quí phái… bạn đọc có thể cảm nhận được ánh hào quang kỳ diệu nhưng đầy lo lắng của một hình thái kinh tế xã hội đang tìm cách thích nghi để tồn tại. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như: Bản Tin Chiều Lời Chẩn Đoán Cuối Cùng Phi Trường Tập 1 Phi Trường Tập 2 Nhà Băng Khách Sạn Phi Trường (Người dịch: DgHien) Bánh Xe Nghiệt Ngã ... *** Chủ tịch hãng Động Cơ Thông Dụng bực mình, cả đêm qua mất ngủ : chiếc chăn điện trở chứng liên tục và mỗi lần như thế ông lại thức giấc vì lạnh. Lúc này vẫn mặc bộ đồ ngủ, choàng áo khoác, ông rón rén đi lục tìm khắp ngôi nhà vắng lặng rồi mang bầy lên nửa còn lại của chiếc giường lớn nhiều thứ dụng cụ đồ nghề, bắt đầu tháo bộ phận điện trong khi Côrali vợ ông vẫn còn ngủ. Ông phát hiện ngay chỗ tiếp xúc kém. Vừa cằn nhằn các tay sản xuất chăn điện làm ẩu, ông mang xuống xưởng riêng dưới hầm để sửa. Người vợ vươn vai. Chỉ vài phút nữa đồng hồ báo thức sẽ đánh chuông. Lúc ấy bà mới dậy lo bữa điểm tâm trong khi vẫn còn ngái ngủ. Ở thị trấn Blumfin Hin cách Đitơroi mười lăm kilômét này bây giờ vẫn còn tối. Sáng sớm hôm đó chủ tịch hãng ĐCTD, người khô khan, cử chỉ lanh lẹn nhưng bản tính nói chung điềm tĩnh có hai cớ để bực mình : chiếc chăn điện tất nhiên là một, còn một nữa là cách xử sự rất đáng giận của Imơcxơn Vên. Mấy phút trước đây qua chiếc đài bán dẫn đặt trên bàn ngủ mở thầm đủ nghe ông đã nhận ra giọng nói chua ngoa quen thuộc và dễ ghét của nhà “phê phán xe hơi” cỡ lớn này. Bữa qua trong cuộc họp báo ở Oasinhtơn một lần nữa Imơcxơn Vên lại công kích ba người đáng ghét nhất xưa nay của lão : Động Cơ Thông Dụng, Fo và Craixlơ. Lên án ba ông Lớn về tội “tham lam, tụ tập bè đảng lưu manh, bội tín, cưỡng đoạt tiền của dân chúng”. Vì ba Ông Lớn đã hoàn toàn thỏa thuận cùng nhau ngăn cản việc phát triển loại xe “sạch sẽ” thay cho xe chạy xăng, loại xe chạy hơi nước hoặc chạy điện là những loại Vên cho rằng “đã sẵn sàng lăn bánh”. Lời buộc tội chẳng có gì mới. Nhưng Vên vốn rất khôn khéo trong sự giao tiếp với công chúng và giới báo chí nên đã lồng vào lời tuyên bố những tư liệu mới làm nó có giá trị thông tin, thu hút được người đọc. Vị chủ tịch hãng công nghiệp lớn nhất thế giới tốt nghiệp kĩ sư một trường nổi tiếng ngồi sửa bộ phận hâm nóng của chiếc chăn điện với niềm vui thích thường thấy khi có thì giờ làm các việc trong gia đình. Rồi ông đi tắm, cạo mặt, bận quần áo, tới dùng bữa sáng với Côrali. Trên bàn ăn có tờ Đitơroi Tự Do. Vừa trông thấy tên và ảnh Imơcxơn Vên in trên trang nhất ông chửi thề và quăng tờ báo xuống đất. Côrali đặt trước mặt chồng các món của bữa điểm tâm theo chế độ “chống tăng côléttêrôn” : bánh mì nướng không phết bơ, lòng trắng một quả trứng luộc, cà chua xắt khoanh, fomát trắng. Sáng nào vợ ông chủ tịch ĐCTD cũng tự tay soạn bữa ăn đầu tiên này và cùng ăn với chồng mặc dầu chồng phải đi làm sớm. Côrali ngồi xuống trước mặt chồng, nhặt tờ báo mở ra và nói : “Theo Imơcxơn Vên, chúng ta đã có đủ trình độ kỹ thuật để đưa người lên mặt trăng hoặc sao Hỏa thì ngành kỹ nghệ xe hơi cũng phải cho ra được loại xe hoàn hảo, không có khuyết điểm gì và không gây ô nhiễm không khí”. Người chồng đặt khăn xuống. “Định làm tôi ăn mất ngon đấy à ? Bữa ăn đã chẳng có gì lại còn…” Người vợ tủm tỉm cười. “Em thấy hình như anh đã hết ngon miệng rồi thì phải ! Ông Vên còn trích dẫn Kinh thánh nói về ô nhiễm nữa cơ. - Lay Chúa Kitô ! Kinh thánh nói gì về cái đó được ! - Không phải Chúa Kitô đâu. Đoạn này trích trong kinh Cựu Ước. - Thì đọc đi vậy. Đằng nào bà cũng định đọc”. Người chồng lầu bầu, vẻ tò mò muốn biết. “Thánh Giêrêmi: Ta cho ngươi tới xứ sở xanh tươi như một khu vườn để các người được ăn những trái quả tươi ngon nhất. Nhưng sau khi đến các người đã làm ô trọc xứ sở của ta, biến gia tài của ta thành thứ ghê tởm.” Bà rót cà phê vào tách. “Em thấy tay ấy viết khá tài tình”. - Chẳng ai cho cái thằng đểu ấy là kém thông minh. Người vợ đọc tiếp. “Ngành kỹ nghệ xe hơi và dầu mỏ đồng tình kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật đáng lẽ từ lâu đã dẫn đến việc phát minh ra xe chạy điện hoặc hơi nước. Lập luận của họ rất đơn giản : loại xe này sẽ biến thành số không toàn bộ khoản tiền khổng lồ đầu tư vào loại động cơ đốt trong đang đầu độc khí quyển”. Bà đặt báo xuống. “Bài này có gì đúng sự thật không ? - Rõ ràng Vên cho tất cả những điều ấy là đúng. - Anh thì không ? - Nhất định không. - Không có một tí nào ? - Đôi khi có thể thoang thoảng tí chút sự thật trong một lời tuyên bố ngoa ngoắt. Chính bằng cách đó mà những kẻ như Imơcxơn làm ra vẻ mình có lý”. Người chồng đáp lại, vẻ bực bội. - Anh sẽ bác bỏ những điều lão nói chứ ? - Có lẽ không. - Sao vậy ? - Vì nếu Động Cơ Thông Dụng nện Imơcxơn, người ta sẽ lên án cái Hãng lớn như thế mà đi đè bẹp một cá nhân tầm thường. Nếu không đập lại thiên hạ cũng sẽ nguyền rủa bọn anh, nhưng dù sao họ không thể trích dẫn lời bọn anh để xuyên tạc. - Sao không để một người nào khác đập lại ? - Nếu có tay nhà báo kha khá nào đó đụng đến Hăngri Fo xem, có lẽ ông ta sẽ trả miếng - ông mỉm cười - có điều là Hăngri sẽ nói toạc móng heo và sẽ không công bố lời ông ta được. - Ở địa vị anh, có lẽ em sẽ nói một cái gì. Tất nhiên nếu em tin chắc mình có lý. - Cám ơn lời khuyên của em. Vị chủ tịch ĐCTD chấm dứt bàn cãi ngồi ăn xong bữa. Nhưng cuộc tranh luận với những lời châm chọc cố tình mà Côrali cho là thỉnh thoảng đưa ra sẽ bổ ích cho ông, đã làm tiêu tan nỗi bực dọc từ sáng. Ông nghe phía ngoài cửa bếp bước chân người hầu gái đang vào. Như vậy là lái xe đón cô ta dọc đường đã về và đang đợi ông dưới kia. Ông đứng lên, ôm hôn vợ. Mấy phút sau, khoảng sáu giờ sáng chiếc Cađilắc chở ông theo đường Têlêgráf đi về phía đường FriUê và khu trung tâm. Vào một sáng tháng mười trong trẻo có từng cơn gió tây bắc báo hiệu mùa đông đang về. Thành phố Đitơroi bang Misigân, thủ đô thế giới của công nghiệp xe hơi bắt đầu tỉnh giấc. Ở Blumfin Hin, cách nhà ông chủ tịch ĐCTD mười phút đi bộ, phó chủ tịch hãng Fo cũng đang sửa soạn ra sân bay Mêtrôpôlitên của thành phố. Ông đã dùng xong bữa sáng, một mình. Người nữ nhân viên phục vụ bưng khay thức ăn vào tận văn phòng chiếu sáng yếu ớt trong đó ông ngồi đọc các bản báo cáo từ năm giờ sáng (phần lớn các báo cáo đều viết trên loại giấy xanh đặc biệt mà văn phòng phó chủ tịch dùng cho các văn kiện về thực hiện đề án mới) và ghi vào băng từ những chỉ thị rõ ràng, chính xác. Gần như ông không ngẩng lên nhìn khi bữa điểm tâm được mang vào và cũng chẳng nhìn xem mình đang ăn gì. Trong có một giờ ông làm xong khối công việc người khác phải làm trong cả một ngày hoặc hơn nữa mới xong. Phần lớn các quyết định xoay quanh việc xây dựng thêm xưởng máy mới hoặc mở rộng những nhà máy hiện có, tốn kém hàng mấy tỉ đô la. Phó chủ tịch ngoài nhiều nhiệm vụ khác, có trách nhiệm phê chuẩn hoặc bác bỏ các đề án được đệ trình và định thứ tự ưu tiên. Hôm có người hỏi ông phê duyệt những khoản lớn như vậy có thấy run tay không, ông đáp lại : “Không, bởi vì bao giờ tôi cũng thầm bỏ bớt ba chữ số cuối. Thành ra cũng không khó hơn khi cân nhắc mua một ngôi nhà”. Câu trả lời rõ ràng, bật ra rất nhanh, nói lên bản lĩnh của người vốn là anh bán xe xoàng xĩnh chỉ trong thời gian kỉ lục đã trở thành một trong mười hai ông chủ có quyền quyết định trong vương quốc xe hơi. Cũng chính cách làm ăn kiểu đó giúp ông trở thành siêu triệu phú. Vấn đề cần xem xét là sự tiến bộ và sự giàu sang có đáng với cái giá phải trả không. Phó chủ tịch làm việc mỗi ngày mười hai có khi mười bốn tiếng, thường là bẩy ngày trong một tuần với nhịp độ dồn dập. Như ngày hôm nay, trong lúc phần đông dân thành phố còn đang ngủ ông đã phải lên máy bay riêng của hãng bay đi NiuYoóc, trong lúc ngồi trên máy bay ông tranh thủ nghiên cứu thị trường với các nhân viên dưới quyền, vừa đến nơi phải chủ tọa ngay cuộc họp với các giám đốc địa phương cũng về vấn đề đó. Cuộc họp vừa xong ông phải tranh cãi gay gắt với hai mươi đại lý bang NiuGiơdi về việc bảo hành và các dịch vụ hậu mãi. Sau dó đến Manhattan dùng bữa trưa với một nhóm chủ ngân hàng, đọc một bài diễn văn. Rồi họp báo, đương đầu với các phóng viên. Buồi trưa trở về Đitơroi cũng bằng chiếc máy bay đó, ông có nhiều cuộc gặp gỡ để giải quyết công việc thường lệ cho đến bữa chiều. Trong ngày, vào một lúc nào đó chưa sắp xếp được, phải đưa đầu cho thợ đến tận nơi cắt tóc. Bữa tối ăn trên sân thượng sẽ được điểm xuyết bằng cuộc trò chuyện với người phụ trách các ban quan trọng về kiểu xe mới. Cuối cùng sẽ đến vĩnh biệt một đồng nghiệp mới từ trần tối qua vì nghẽn động mạch vành, (tại nhà thờ tang lễ Hêminhtơn, một chặng trên con đường đưa các ông Lớn ngành xe hơi tới nghĩa trang Út Lên). Sau tất cả những việc đó cuối cùng phó chủ tịch mới được về nhà ôm theo chiếc cặp căng phồng hồ sơ phải nghiên cứu để chuẩn bị cho ngày mai. Lúc này ông đẩy khay điểm tâm ra xa, thu gom giấy từ rồi đứng lên. Bốn bức tường của phòng làm việc đều có giá xếp đầy sách. Đôi khi, vào những buổi không bận rộn tối tăm mắt mũi như sáng nay ông ném lên chúng một cái nhìn tiếc nuối và thèm muốn. Vì nhiều năm trước đây có một thời ông đọc rất nhiều. Có thể ông đã trở thành sinh viên nếu đời ông đi theo hướng khác. Bây giờ thì không có thì giờ đọc sách nữa. Ngay cả việc đọc tờ báo hàng ngày cũng phải rình chộp thời cơ tranh thủ liếc thật nhanh. Nên ông cầm tờ báo còn nguyên nếp gấp khi nhân viên phục vụ mang tới và nhét luôn vào cặp. Vì thế mãi sau ông mới biết những lời công kích mới nhất của Imơcxơn Vên và nguyền rủa hắn như những người khác trong ngành xe hơi đã nguyền rủa từ sớm. Tại sân bay ban tham mưu cùng đi với ông đã tề tựu trong phòng đợi của đoàn Vận chuyển hàng không Hăngri Fo. Ông ra lệnh giọng khô khan. “Lên đường”. Động cơ chiếc Jết Xta bắt đầu chạy, trong lúc cả đoàn tám người lên máy bay. Những người lên sau chưa kịp đeo dây an toàn máy bay đã lăn bánh. Chỉ những người thường đi máy bay riêng mới thấy rõ cái lợi về tiết kiệm thì giờ so với đi máy bay công cộng. Máy bay lăn nhanh ra đường băng cất cánh trong lúc mọi người mở cặp đặt trên đầu gối. Phó chủ tịch mở đầu ngay cuộc thảo luận. “Kết quả thu được ở khu vực đông bắc mấy tháng gần đây không được khả quan. Các ông đều đã nắm được số liệu, cũng như tôi. Tôi đòi hỏi sự giải thích tình hình đó. Và muốn biết những biện pháp nào đã được thi hành”. Ông vừa nói xong thì máy bay cất cánh. Phía chân trời vầng dương đỏ quạch nhô dần, sáng lên giữa những đám mây xám trôi rất nhanh. Dưới cánh máy bay đang nâng độ cao, ánh sáng ban mai làm nhìn rõ thành phố và các vùng phụ cận trải dài. Khu trung tâm Đitơroi, ốc đảo vuông mỗi cạnh một cây số giống như một Manhattan thu nhỏ; tiếp liền sau đó là những héc ta đường phố buồn tẻ, nhà cao tầng, nhà máy, nhà ở, phần lớn cáu bẩn. Một thành phố công nghiệp dơ dáy phát sợ vì không chịu vung tiền cho công việc quét dọn vệ sinh. Phía tây thành phố, Điếcbơn sạch sẽ xanh tươi hơn, tận cùng bằng tổ hợp công nghiệp khổng lồ của LơRu. Ngược lại ở đầu phía đông, khu Mũi Lớn, phô những rặng cây thẳng tắp : đó là thiên đường của những kẻ giầu có. Phía Nam là khu công nghiệp Vianđốt mù mịt khói; đảo Bel-In nép sát bờ sông Đitơroi như chiếc sà lan mầu rỉ đồng chở khẳm. Bờ sông bên kia là lãnh thổ Canada, thành phố Oaixo cũng xấu xí cũng gớm ghiếc không kém Đitơroi trên đất Mĩ. Và trên khắp mọi miền, ánh sáng ban ngày làm nổi rõ mật độ giao thông dầy đặc trên mạng đường sá. Hàng vạn con người như đàn kiến cỏ (hoặc đàn chuột len-mút tùy theo cách nhìn từng người) gồm thợ thuyền, nhân viên, viên chức lũ lượt kéo nhau bước vào một ngày sản xuất mới trong vô vàn xí nghiệp lớn nhỏ. Đitơroi kiểm soát và điều khiển nền sản xuất xe hơi của cả nước, nên khi ngày làm việc bắt đầu thì nhịp xuất xưởng lập tức hiện trên tấm bảng lớn đặt tại điểm giao thông lộ các con đường đi tới Fo và tới Craixlơ, những con đường đầy ứ xe. Nhờ sử dụng một hệ thống thống nhất trong cả nước, từng phút một số lượng xe xuất xưởng trong năm hiện lên bằng những con số cao một mét rưỡi trên bảng. Mỗi khi có thêm một dây chuyền khởi động thì tổng số lại tăng lên. Lúc này đã có hai mươi chín nhà máy trong vùng đông bắc làm việc, gửi số liệu lên bảng, số liệu tăng vọt sau khi mười ba xưởng lắp ráp của trung tâm tây và sáu xưởng của Califoócnia khởi động. Những người chạy xe trên đường nhìn tấm bảng với tâm trạng của người bác sĩ nhìn số đo huyết áp, của kẻ đầu cơ chứng khoán khi nhìn bảng giá ở ngân hàng. Có những người còn cá cược nhau về tổng số lúc sáng, lúc chiều. Những xưởng gần nhất cách đây khoảng 1,5km là của Craixlơ, nói chính xác là các xưởng Đốt và Plai-mao mỗi giờ cho ra hơn trăm xe. Trước đây viên chủ tịch hội đồng quản trị của Craixlơ thỉnh thoảng đến giám sát việc bắt đầu chế tạo một sản phẩm mới và tự mình thử khi sản phẩm ra đời. Gần đây ít khi ông làm thế. Buổi sáng hôm đó ông vẫn còn ngồi nhà đọc từ nhật báo Phố Uôn và uống ly cafê do vợ pha trước khi bà đi dự cuộc họp Hiệp hội Nghệ thuật. Hồi đó ông tổng giám đốc hãng Craixlơ (mới nhậm chức chủ tịch gần đây) tất bật chạy ngược chạy xuôi khắp nhà máy không hề mệt mỏi, phần vì nhà máy thiếu máu đang rất cần một giám đốc năng nổ, phần khác là vì bản thân ông đang muốn dứt khoát dứt bỏ cái nhãn “kế toán” người ta thường gán cho những người ngoi lên theo con đường của ngành tài vụ chứ không qua ngạch kỹ sư hoặc chuyên viên thương mại. Dưới quyền ông, hãng đã trải qua nhiều bước thăng trầm : sáu năm thịnh vượng gây được lòng tin cho các cổ đông tiếp theo là sáu năm sa sút đến mức báo động. Sau đó bằng những cố gắng ghê gớm và những tiết giảm khắc nghiệt hãng đã vượt qua cơn hiểm nghèo, khiến có người cho rằng chưa bao giờ hãng hoạt động tốt bằng trong thời kì khó khăn. Tuy nhiên thời khó khăn đã qua, không ai cho rằng chiếc Pentátta đời mới nhất của Craixlơ có thể lại mất cái vị trí nó đã chiếm được. Vị chủ tịch có thể rảnh rang một chút, suy nghĩ nhiều hơn, đọc những thứ thấy thích đọc. Lúc này ông đang đọc bài của Imơcxơn Vên; bài đăng trên nhật báo Phố Uôn có phần kín đáo hơn trên từ Đitơroi Tự do. Nên làm ông chán ngấy, ông thấy lời chỉ trích của lão cùn mòn, không có bản sắc. Nên ông chỉ lướt qua rồi chuyển qua mục bất động sản có sức thuyết phục hơn. Không mấy người biết ít lâu nay Craixlơ đang chăm lo xây dựng một vương quốc bất động sản, trước mắt làm cho hoạt động kinh doanh của công ti phong phú hơn, và sao lại không ? trong vài thập kỷ nữa sẽ đưa “số ba” lên ngang hàng hoặc cao hơn Động Cơ Thông Dụng. Trong khi chờ đợi ngày đó, vị chủ tịch hài lòng ghi nhận nhịp độ sản xuất trên mức khả quan của các nhà máy Craixlơ. Như vậy đó, sáng nay cũng như tất cả các buổi sáng, Ba Ông Lớn vật lộn ráo riết để giữ vững ngôi thứ của mình trong khi một hãng khác ở bang Uýtcơnxin, hãng Động Cơ Mĩ bé nhỏ hơn cũng góp vào dòng lũ xe hơi này một phần tuy ít ỏi hơn nhưng hiện đại hơn. Mời các bạn đón đọc Bánh Xe Nghiệt Ngã của tác giả Arthur Hailey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ác Quỷ Thành Phố Trắng
“Ác quỷ thành phố trắng” là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất của tác giả Erik Larson, và được tờ The New York Times bình chọn là cuốn sách best seller. Năm 2004, cuốn sách nhận giải thưởng Edgar cho hạng mục Tác phẩm về tội phạm có thật xuất sắc nhất.  Cuốn sách thuật lại hành trình xây dựng Hội chợ thế giới của nhóm kiến trúc sư tài hoa ở Chicago sau khi thành phố này giành quyền đăng cai tổ chức hội chợ. Thành phố Chicago nhanh chóng thành lập một công ty chính thức mang tên là: “Công ty hội chợ thế giới Hoa Kì”, nhằm cung cấp tài chính và xây dựng. Và nhà thiết kễ chính là Burnham và Root, được yêu cầu phải xây dựng gần như cả một thành phố và vượt lên trên sự tuyệt vời của hội chợ Paris, gánh nặng đè lên vai, việc thất bại là không thể vì nó sẽ ảnh hưởng đến danh dự và tổn hại của quốc gia. Quá trình xây dựng được bắt đầu, nhưng không ai ngờ rằng chỉ cách khu hội chợ quy mô và hấp dẫn nhất thế giới vào thời kì ấy chỉ vài bước chân, tên sát nhân hàng loạt đã xây dựng một khách sạn được trang bị bàn mổ, lò thiêu và những thùng axit. Cả thành phố hối hả với hội chợ mà “bỏ lỡ” kẻ sát nhân tàn ác với những thủ đoạn tinh vi. Thời gian diễn ra hội chợ hắn đã giết chết hàng chục người, đa số là phụ nữ trẻ. “Tôi sinh ra với ác quỷ trong mình. Tôi không thể thay đổi sự thật rằng tôi là kẻ sát nhân, giống như các nhà thơ biến cảm hứng thành vần điệu”.Vậy hắn là ai mà giết chóc nhiều như vậy nhưng không bị phát hiện? *** Erik Larson là tác giả nổi tiếng với dòng truyện phi hư cấu về lịch sử và trong đó không thể không nhắc tới cuốn “Sống sót ở Berlin”. Cuốn sách nói về lịch sử nước Đức ngày càng chìm sâu trong bóng tối sau thời khắc Trùm Phát xít Adolf Hitler trở thành Thủ tướng của Đế chế Đức vào năm 1933. Kể từ đó trở đi, nước Đức xảy ra bạo lực liên miên và nạn phân biệt chủng tộc, đặc biệt đối với người Do Thái, Hitler quan ngại với người Do Thái bởi chính sự tài năng của nhóm người đó sẽ làm ảnh hưởng, cản trở đối với quyền lực của hắn. Đúng vào thời điểm đó, ông William E.Dodd – một giáo sư lịch sử được cử sang Berlin làm Đại sứ Hoa Kỳ tại Đức. Ông cùng cô con gái – Martha sớm được trải nghiệm một nước Đức kỳ lạ, tươi đẹp, nhưng cũng đầy rẫy hiểm nguy bủa vây. Trong khi đó, Hitler lại ngày càng tỏ ra thiện chí và ưa chuộng hòa bình. Nhưng liệu mọi người nghe thấy, nhìn thấy và ngửi thấy gì? Các nhà ngoại giao và du khách giải thích những sự kiện diễn ra xung quanh họ như thế nào? Và có ai thấy được bộ mặt thật của Trùm Phát xít Hitler và ngăn hắn lại khi quá muộn???... *** CÁI ÁC ẨN HIỆN (GHI CHÚ) Tại Chicago vào cuối thế kỷ XIX, giữa làn khói công nghiệp và tiếng còi tàu vang vọng, xuất hiện hai người đàn ông, cả hai đều đẹp trai, mắt xanh và đều lão luyện một cách bất thường trong các kĩ năng của họ. Mỗi người là hiện thân của một yếu tố trong động lực vĩ đại đặc trưng cho sự hối hả tiến vào thế kỷ XX của nước Mỹ. Một người là kiến trúc sư, đã xây dựng rất nhiều những công trình quan trọng bậc nhất của Mỹ, trong đó có tòa nhà Flatiron tại New York và Nhà Ga Trung Tâm của Washington, D.C.; người còn lại là một tên sát nhân, một trong những kẻ khát máu nhất trong lịch sử và là điềm báo của một hình mẫu Mỹ: Kẻ giết người hàng loạt tại đô thị. Mặc dù cả hai không bao giờ gặp nhau, ít nhất là một cách chính thức, số phận của họ lại được liên kết bởi một sự kiện huyền diệu độc nhất, dù hiện tại không còn được nhớ đến nhiều, tuy nhiên vào thời điểm bấy giờ thì lại sở hữu một sức mạnh có khả năng làm xáo trộn gần tương đương với cuộc nội chiến. Trong những trang tiếp theo, tôi sẽ kể câu chuyện của hai người đàn ông và sự kiện này, nhưng tôi phải thông báo trước: Dù một vài sự kiện sau đây có kỳ lạ hoặc rùng rợn đến đâu chăng nữa, đây không phải là một tác phẩm hư cấu. Bất cứ điều gì nằm trong dấu ngoặc kép đều đến từ một lá thư, hồi kí, hoặc các văn bản khác. Sự việc chủ yếu diễn ra ở Chicago, nhưng tôi xin độc giả lượng thứ khi thỉnh thoảng lại đảo qua ranh giới bang khác, như khi Thám tử Geyer đau buồn nhưng kiên cường bước vào căn hầm khủng khiếp cuối cùng. Tôi cũng mong độc giả kiên nhẫn khi đọc các cuộc hành trình bên lề thường xuyên diễn ra theo yêu cầu của câu chuyện, bao gồm cả những chuyến du ngoạn vào ngành kinh doanh xác chết nhằm mục đích y tế và việc sử dụng cây phong lữ Hoàng Tử Đen trong cảnh quan của Olmsted. Phía sau làn khói, máu me và mùn đất, cuốn sách này viết về sự phù du của cuộc sống và lí do tại sao một số người chọn cách lấp đầy thời gian trên cõi đời ngắn ngủi của mình bằng việc thực hiện những điều không tưởng, trong khi những người khác tạo ra nỗi buồn đau. Cuối cùng, đây là một câu chuyện của những xung đột không thể tránh khỏi giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Thành Phố Trắng và Thành Phố Đen. ERIK LARSON SEATTLE  Mời bạn đón đọc Ác Quỷ Thành Phố Trắng của tác giả Erik Larson.
Kẻ Cướp Cuối Cùng
David Loogan, biên tập viên của tạp chí trinh thám Gray Streets, tìm thấy một bản thảo bên ngoài văn phòng làm việc. Trong đó là danh sách với ba cái tên: Henry Kormoran, Sutton Bell và Terry Dawtrey. Hai người vừa bị sát hại, người còn lại ở trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Cách đây 17 năm, họ bị dụ dỗ tham gia vào một kế hoạch cướp ngân hàng. Vụ cướp đổ bể và họ bị bắt. Giờ đây, cuộc sống của cả ba đã rẽ sang những hướng khác nhau, người hoàn lương, kẻ tù tội. Nhưng còn một bí mật chưa được tiết lộ: Danh tính của Kẻ Cướp Cuối Cùng, người đã chạy thoát khỏi tay cảnh sát. Cảnh sát tin rằng tập bản thảo mô tả cách thức gây án chỉ là câu chuyện hư cấu. Một người vô tội bị bắt vì tội ác mình không phạm phải. Một nhà báo đang điều tra lại vụ cướp bỗng dưng mất tích. David cảm nhận được sự hiện diện của kẻ thủ ác và những người sẵn sàng bao che cho hắn vì lợi ích bản thân. Anh cùng nữ cảnh sát Elizabeth quyết tâm tìm ra tên sát nhân trước khi hắn ra tay lần nữa. Họ cần bảo vệ kẻ cuối cùng trong danh sách tử thần và lật tẩy danh tính kẻ cuối cùng tham gia vụ cướp năm xưa. *** “Kẻ cướp cuối cùng” tạo sức hút với phong cách viết sắc nét và các nhân vật cá tính của Harry Dolan, khiến độc giả bị cuốn vào câu chuyện ngay lập tức. Tác giả Harry Dolan sinh trưởng ở Rome, New York trước khi chuyển đến sống tại Ann Arbor, Michigan. Ông đã lấy chính thành phố nơi mình sinh sống làm bối cảnh chủ yếu cho series tác phẩm về nhân vật David Loogan, giúp câu chuyện trong cuốn sách thêm phần chân thực. Hiện hai cuốn sách sách trong series đã được phát hành tại Việt Nam là Vòng xoáy tội ác và mới đây nhất là Kẻ cướp cuối cùng. Cuốn cuối cùng trong series là The Last Dead Girl cũng sẽ sớm ra mắt bạn đọc Việt Nam. Kẻ cướp cuối cùng bắt đầu với việc David Loogan, biên tập viên của tạp chí trinh thám Gray Streets, tìm thấy một bản thảo bên ngoài văn phòng làm việc. Trong đó là danh sách với ba cái tên: Henry Kormoran, Sutton Bell và Terry Dawtrey. Hai người vừa bị sát hại, người còn lại ở trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Cách đây 17 năm, họ bị dụ dỗ tham gia vào một kế hoạch cướp ngân hàng. Vụ cướp đổ bể và họ bị bắt. Giờ đây, cuộc sống của cả ba đã rẽ sang những hướng khác nhau, người hoàn lương, kẻ tù tội. Nhưng còn một bí mật chưa được tiết lộ: Danh tính của kẻ cướp cuối cùng, người đã chạy thoát khỏi tay cảnh sát. Cảnh sát tin rằng tập bản thảo mô tả cách thức gây án chỉ là câu chuyện hư cấu. Một người vô tội bị bắt vì tội ác mình không phạm phải. Một nhà báo đang điều tra lại vụ cướp bỗng dưng mất tích. Nhưng David cảm nhận được sự hiện diện của kẻ thủ ác và những người sẵn sàng bao che cho hắn vì lợi ích bản thân. Anh cùng nữ cảnh sát Elizabeth quyết tâm tìm ra tên sát nhân trước khi hắn ra tay lần nữa. Họ cần bảo vệ kẻ cuối cùng trong danh sách tử thần và lật tẩy danh tính kẻ cuối cùng tham gia vụ cướp năm xưa. Kẻ cướp cuối cùng vẫn duy trì được sức hút như ở Vòng xoáy tội ác, với phong cách viết sắc nét và các nhân vật cá tính, khiến độc giả bị cuốn vào câu chuyện ngay lập tức. Nhịp truyện nhanh và các âm mưu được xây dựng chặt chẽ. Câu hỏi quan trọng, và cũng là điểm mấu chốt của cả câu chuyện, là tại sao có kẻ lại muốn giết họ sau từng ấy năm, được giữ kín cho đến nửa sau của cuốn sách. Trong cuốn sách thứ hai, nhân vật David Loogan tiếp tục giữ vai trò một biên tập viên nhiều thuyết âm mưu và một thám tử nghiệp dư liều lĩnh. Giờ đây, đồng hành bên anh còn có nữ cảnh sát Elizabeth Waishkey điềm tĩnh và mạnh mẽ. Truyện dành cho Elizabeth và cô con gái thông minh của mình, Sarah, nhiều cơ hội tỏa sáng. Câu chuyện bắt đầu bằng lời tự thuật của David Loogan, sau đó được chuyển đổi góc nhìn giữa các nhân vật khác nhau, để người đọc có thể hình dung những gì đang xảy ra bên ngoài tầm ảnh hưởng của nhân vật chính. Mặc dù được tiếp xúc với tên sát nhân qua điểm nhìn của hắn ngay từ những chương đầu, độc giả vẫn khó lòng suy ra toàn bộ âm mưu phía sau. Khi một nhà báo láu cá, một thượng nghị sĩ sắp nghỉ hưu, ứng cử viên Thượng nghị sĩ Callie Spencer cùng cha mình, viên cảnh sát bị bắn trong vụ cướp cách đây 17 năm, lần lượt xuất hiện trong cuốn sách, câu chuyện nhanh chóng trở nên phức tạp và khó đoán vô cùng. *** Trong văn phòng của tôi có một chuỗi hạt thủy tinh. Nó được treo trên thanh ngang của chiếc đèn bàn, đung đưa theo từng rung động nhỏ nhất. Những hạt thủy tinh có màu xanh thẳm như nền trời đêm. Khi ánh sáng nhảy múa trên đó, chúng toát lên vẻ dịu dàng, rạng rỡ và đầy sức sống. Tôi sẽ kể cho các bạn xuất xứ của chuỗi hạt này. Elizabeth đã đeo nó khi chúng tôi trao nhau nụ hôn đầu. Chuyện đó xảy ra ngay tại đây, trong văn phòng này vào một đêm đông, sáu tầng nhà bên trên phố Main ở Ann Arbor. Elizabeth là thám tử. Tối hôm đó, cô được triệu tập tới hiện trường một vụ tai nạn xe hơi: Những đống kim loại nát bét, kính vỡ khắp nơi. Ba người chết, trong đó có một trẻ em. Đó là loại tai nạn bạn không bao giờ muốn chứng kiến, còn khi đã thấy rồi, bạn chỉ còn biết hi vọng mình có thể quên được nó. Cô đã nhìn thấy mọi chuyện và sau đấy muốn tránh khỏi đó càng xa càng tốt. Rồi cô đến chỗ tôi. Hôm đó, tôi ở lại làm việc muộn, nghe thấy tiếng cửa mở cùng tiếng chân cô bước qua văn phòng trống không phía ngoài. Và rồi cô đứng đó, trước ngưỡng cửa văn phòng. Elizabeth vốn có vóc người cao, chiếc áo khoác dài chỉ càng khiến cô trông cao hơn. Trên vai áo cô, mấy bông tuyết đang tan. Hai tà áo khoác mở rộng, chiếc áo cánh cô mặc bên trong cũng không cài cúc cổ áo. Ngón tay cô mân mê những hạt thủy tinh màu xanh dương đeo trên cổ. Nhưng toàn thân cô thì vẫn bất động. Tôi biết ngay có điều gì đó không ổn. Mặt cô tái nhợt, mái tóc đen nhánh và óng ả như cánh quạ buông xõa quanh khuôn mặt. Tôi đứng dậy khỏi bàn và bước tới chỗ cô, nhưng sự bất động của cô khiến tôi e ngại không dám đụng tới. Sau cùng, tôi đặt một bàn tay lên vai cô, rồi rút tay lại. Tuyết rơi nhẹ ngoài cửa sổ văn phòng. Chúng tôi đứng bên nhau một lúc lâu, tôi chẳng hỏi cô bất cứ điều gì. Tôi chờ đợi và rồi cô bắt đầu kể. Cô kể lại cho tôi nghe mọi điều, tất cả những gì cô đã chứng kiến. Lời nói tuôn ra như dòng chảy không ngừng. Những ngón tay cô lần trên chuỗi hạt sau mỗi tình tiết kinh hoàng. Kể xong, cô quay mặt đi. Ngượng ngập, gần như lúng túng. Và cũng lúng túng không kém, tôi lùi lại phía sau. Không biết phải làm gì, tôi mời cô một ly từ chai Scotch cất sâu trong ngăn kéo bàn. Nhưng cô không muốn uống. Tôi nhìn cô cởi áo khoác vắt lên lưng ghế, nhìn cô tiến tới gần, mắt cô nhìn thẳng vào mắt tôi. Cô vẫn mở mắt khi hôn tôi, đôi mắt cũng xanh như chuỗi hạt thủy tinh. Nụ hôn đầu thật chậm rãi, vương vấn và khoan thai. Cả hai đều hiểu đó là gì: Một hành động thách thức. Đó là bản tính tự nhiên của con người. Ta đối diện cái chết, thách thức nó, tự chứng tỏ với bản thân là ta vẫn đang sống. Những ý nghĩ đó lướt qua tâm trí tôi, nhưng tôi chẳng có thời gian mà nghiền ngẫm. Nụ hôn thứ hai mãnh liệt và hứng khởi hơn. Tôi cảm thấy tay cô choàng qua vai mình ra sau cổ, cảm thấy những ngón tay cô xoắn lấy tóc tôi. Cô ép sát người vào tôi và chúng tôi ôm chặt lấy nhau. Tôi có thể cảm nhận rõ ràng hơi ấm, sức sống, nghị lực tiềm tàng trong cô. Tôi chỉ muốn chia sẻ kỉ niệm này một cách có chừng mực thôi và giờ tôi cho rằng chúng ta đã đạt tới giới hạn đó rồi. Những gì còn lại là bí mật của riêng hai chúng tôi. Tuy thế, đó chính là xuất xứ chuỗi hạt mà tôi cất trong văn phòng. Elizabeth đã để nó lại vào đêm hôm ấy. Không phải bỗng dưng tôi kể cho các bạn chuyện này đâu. Nó liên quan tới động cơ hành động. Nếu bạn đưa chuỗi hạt này cho một người thợ kim hoàn, hẳn là ông ta sẽ nói rằng nó chẳng có giá trị gì. Chỉ là mấy hạt thủy tinh được xâu lại bằng một sợi dây thôi. Ở một chừng mực nào đó, tôi biết đó là sự thật. Nhưng tôi cũng biết nếu một tên trộm cố đánh cắp nó, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để ngăn hắn lại. Thậm chí, tôi sẽ không ngần ngại giết hắn nếu cần thiết. Câu chuyện tôi kể sau đây không phải là về chuỗi vòng, mà là về động cơ khiến con người giết hại lẫn nhau. Tôi khá rành về chủ đề này, một phần vì tôi là biên tập viên và mọi người gửi truyện giết chóc tới chỗ tôi suốt ngày. Tên tôi là David Loogan. Phần lớn bản thảo gửi tới chỗ tôi đều dở tệ, nhưng một vài trong số đó cũng có chút tiềm năng. Tôi lọc ra những bản thảo khá nhất, chỉnh sửa lại rồi cho xuất bản trên tạp chí truyện trinh thám mang tên Gray Streets. Vậy nên, có lẽ cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi vai trò của tôi trong câu chuyện này cũng bắt đầu từ một tập bản thảo. Sự việc thật ra khá đơn giản. Tôi tìm thấy nó vào một tối thứ Tư khoảng giữa tháng Bảy, trên hành lang phía ngoài văn phòng. Chuyện này chẳng có gì lạ. Các nhà văn trong vùng để lại bản thảo của mình ở đó thường xuyên hơn mọi người vẫn tưởng. Tuy vậy, đây là một bản thảo rất đặc biệt. Nó dài chưa tới mười trang, được bỏ trong một chiếc phong bì trắng trơn, không ghi địa chỉ. Đó là câu chuyện về ba vụ giết người, hai vụ đã xảy ra, một sắp được tiến hành. Và đây chẳng phải chuyện hư cấu. Không có chữ ký hay tên tác giả. Người viết bản thảo này không muốn để lộ danh tính. Hắn ta đã viết nó trên máy tính và đem in ở một hiệu photocopy. Dĩ nhiên, khi đó tôi chẳng thể biết được. Sau này, Elizabeth mới khám phá ra điều đó. Khi đưa tập bản thảo cho cô, tôi có chút hi vọng mong manh rằng nó có thể cung cấp chứng cứ xác thực nào đó. Thời buổi này, phòng giám định có thể làm được những điều kỳ diệu với tóc, sợi vải và ADN. Tôi chắc rằng phải có dấu vân tay trên trang giấy, ngoài vân tay của chính tôi. Nhưng khi cô gửi tập bản thảo tới phòng thí nghiệm, mọi thứ đi vào ngõ cụt. Nó chẳng hé lộ bí mật nào - ai là tác giả tập bản thảo và động cơ của hắn ta là gì? Muốn giải đáp những câu hỏi này, chúng ta phải quay ngược thời gian, tới trước cả cái ngày trung tuần tháng Bảy đó. Chúng ta cũng phải gạt bỏ những quy tắc thông thường, vì câu chuyện này chẳng hề tuân theo chúng. Nó bao hàm những ý nghĩa riêng. Mặc dù đây là câu chuyện của tôi và của cả Elizabeth nữa, thực ra nó không bắt đầu từ chúng tôi. Mọi chuyện khởi đầu ở vùng phía bắc Michigan, tại thành phố Sault Sainte Marie, trong một phòng khách sạn. Chuyện bắt đầu từ một cuốn sổ tay.   Mời các bạn đón đọc Mục Tiêu Cuối Cùng của tác giả Harry Dolan.
Kẻ Đoạt Hồn
Kẻ đoạt hồn của Sebastian Fitzek được Phan Ba dịch, do Nhà Xuất Bản Hồng Đức năm 2018. Cuốn sách nói về: Một ông giáo sư mời các sinh viên của ông tham gia một thí nghiệm khác thường. Những người tham gia thí nghiệm cần phải đọc một tập hồ sơ bệnh án mà người ta tìm thấy trong số đồ vật còn để lại của một bác sĩ tâm lý. Tập hồ sơ bệnh án này được viết giống như một quyển tiểu thuyết, thuật lại sự việc đã xảy ra tại một bệnh viện tâm thần trước đây, cũng là nơi mà các sinh viên phải ngồi đọc. Câu chuyện thuật về ba người phụ nữ – trẻ trung, xinh đẹp, hoạt bát – mất tích không để lại một dấu vết. Chỉ một tuần là đủ để hung thủ biến họ thành những cái xác không hồn. Khi cảnh sát phát hiện ra thì họ nằm bất động, không có phản ứng lại với thế giới bên ngoài, nhưng vẫn không chết. Cũng vì vậy mà giới báo chí đã đặt cho hắn cái tên “Kẻ Đoạt Hồn”. Ngay trước lễ Giáng Sinh, Kẻ Đoạt Hồn này lại xuất hiện, lần này thì ở trong một bệnh viện tâm thần tư nhân sang trọng. Toàn bộ bệnh viện bị cắt đứt với thế giới bên ngoài vì một cơn bão tuyết, và ở giữa họ là “Kẻ Đoạt Hồn”. Đêm kinh hoàng trong bệnh viện đã bắt đầu như vậy, và Kẻ Đoạt Hồn không cho bất cứ ai trốn thoát. Đây là một quyển nhiều thành công của Sebastian Fitzek. Đọc hết sức hồi hộp. Đọc đến chừng một nửa thì thật không muốn bỏ xuống. Cái tài của ông là để cho hiện thực với quá khứ hòa vào nhau, để cho người đọc có cảm giác như mình giống như những người sinh viên đang đọc tập hồ sơ bệnh án kinh hoàng đó. *** 71 NGÀY TRƯỚC CƠN SỢ HÃI Trang 1 và tiếp theo sau đó của hồ sơ bệnh nhân số 131071/VL   Thật may, tất cả chỉ là một giấc mơ. Cô không trần truồng. Và chân cô cũng không bị cột chặt vào chiếc ghế khám bệnh phụ khoa cổ lỗ, trong khi tên điên đó đang sắp xếp những dụng cụ của hắn trên một cái bàn phụ đã rỉ sét. Khi hắn quay lại, lúc đầu cô không nhận ra được rằng hắn đang cầm cái gì trên bàn tay vấy máu khô. Thế rồi, khi nhìn thấy, cô muốn nhắm mắt lại, nhưng không làm được. Cô không thể rời mắt khỏi cái mỏ hàn nóng đỏ rực đang tiến tới gần chỗ mình. Kẻ xa lạ với gương mặt bị bỏng nước sôi đó đã kéo hai mi mắt của cô lên và dùng máy dập ghim khí nén kẹp chặt nó vào gờ ổ mắt. Cô nghĩ rằng cô sẽ không còn phải chịu đựng cơn đau nào khủng khiếp hơn thế nữa trong phần ngắn ngủi còn lại của cuộc đời mình. Nhưng khi cái mỏ hàn biến mất khỏi tầm nhìn của cô và ở giữa hai chân cô càng lúc càng nóng hơn, cô cảm nhận được rằng đau đớn của những giờ vừa qua chỉ là màn dạo đầu. Thế rồi, trong khoảnh khắc mà cô tin rằng mình đã ngửi được mùi thịt bị cháy sém, thì mọi thứ trở nên trong suốt. Căn hầm ẩm ướt lạnh lẽo nơi cô bị lôi đến, ngọn đèn halogen chớp tắt trên đầu cô, chiếc ghế của kẻ tra tấn và cái bàn bằng kim loại - tất cả đều bốc hơi biến mất, chỉ còn lại một khoảng không đen kịt. Ơn Chúa, cô nghĩ thầm, chỉ là một giấc mơ thôi. Cô mở mắt ra, và hoàn toàn không hiểu gì cả. Cơn ác mộng mà cô vừa mới bị giam hãm bên trong không hề mất đi hình dạng của nó, mà chỉ biến đổi. Mình đang ở đâu đây? Xét theo nội thất thì đây là phòng của một khách sạn đã xuống cấp. Tấm phủ đầy vết bẩn trên chiếc giường đôi cũ rích cũng dơ dáy và đầy lỗ cháy do đầu mẩu thuốc lá giống như cái thảm trải sàn nhà màu nâu xanh. Cô có thể cảm nhận được những sợi thảm thô cứng dưới chân mình, nên cô co rút người lại nhiều hơn nữa trên chiếc ghế gỗ khó chịu. Mình đi chân đất. Tại sao mình không mang giày nhỉ? Và tại sao mình lại ở trong một cái khách sạn rẻ tiền bẩn thỉu và nhìn trừng trừng vào hình ảnh kiểm tra tín hiệu truyền hình đầy đốm trắng trên một cái ti vi đen trắng cơ chứ? Các câu hỏi bật nảy thật mạnh như những trái bi da trong đầu cô. Bất thình lình, cô giật bắn người, như thể có ai đó đã đánh cô một phát, rồi nhìn xem tiếng ồn phát ra từ đâu. Từ cửa phòng. Cánh cửa lung lay một lần, rồi thêm lần nữa, và cuối cùng bật tung ra. Hai viên cảnh sát lao vào. Cả hai đều mặc cảnh phục và mang súng - cô chỉ có thể nhận thấy được ngần ấy. Lúc đầu, họ chĩa súng vào thân trên của cô, nhưng rồi họ từ từ hạ súng xuống. Sự hồi hộp, căng thẳng trên gương mặt họ nhường chỗ cho sự kinh hoàng, sửng sốt. "Mẹ kiếp, có chuyện gì thế này?", cô nghe người nhỏ con hơn nói. Chính người này đã đạp cánh cửa và lao vào đầu tiên. "Cứu thương", người kia hét lên. "Gọi bác sĩ đi. Chúng tôi cần giúp đỡ ngay lập tức!" Ơn Chúa, cô nghĩ thầm, đây là lần thứ hai cô cầu Chúa trong vòng vài giây. Cô sợ tới mức gần như không thở được nữa. Cô đau toàn thân, cả người đầy mùi phân với nước tiểu. Tất cả những điều đó, và việc cô không biết cô đến đây bằng cách nào, khiến cho cô gần như phát điên lên, nhưng giờ thì ít ra cũng có hai cảnh sát đứng trước cô và gọi trợ giúp cứu thương. Điều này không tốt lắm, nhưng vẫn tốt hơn một tên điên với cái mỏ hàn rất nhiều. Chỉ vài giây sau, một bác sĩ cấp cứu hói đầu đeo hoa tai lao vào phòng và quỳ xuống bên cạnh cô. Rõ ràng là dịch vụ cấp cứu đã đến đây cùng với một chiếc xe cứu thương. Đó cũng không phải là một dấu hiệu tốt. "Cô có nghe tôi nói không?" "Có…", cô trả lời ông bác sĩ. Những quầng thâm trên mắt trông như được xăm vĩnh viễn lên gương mặt ông. "Cô ấy có vẻ không hiểu tôi." "Có chứ, có chứ," cô muốn giơ cánh tay lên, nhưng cơ bắp của cô không tuân lệnh. "Cô tên gì?" Ông bác sĩ lấy ra từ túi áo một cái đèn pin trông giống như cây bút và chiếu vào mắt cô. "Vanessa", cô cất giọng khàn khàn, rồi nói thêm, "Vanessa Strassmann." "Cô ấy chết rồi à?" Cô nghe một người cảnh sát hỏi từ phía sau. "Chết tiệt, con ngươi hầu như không phản ứng lại với ánh sáng nữa. Và cô ấy dường như không nghe thấy và cũng không nhìn thấy chúng ta. Cô ấy bị căng trương lực*, có lẽ là hôn mê rồi." "Thật vô lí quá!" Vanessa hét lên và muốn đứng dậy, thế nhưng cô thậm chí còn không thể nhấc tay lên được. Chuyện gì đang xảy ra thế này? Cô nhắc lại thật to ý nghĩ đó và cố gắng nói càng rõ ràng càng tốt. Dường như không ai muốn lắng nghe cô. Thay vào đó, tất cả mọi người đều quay lưng lại với cô và nói chuyện với một người nào đó cô chưa thấy bao giờ. "Chị nói là cô ấy đã không rời gian phòng này bao lâu rồi?" Đầu của vị bác sĩ che mất tầm nhìn của cô ra cửa. Giọng một phụ nữ trẻ tuổi vang lên, "Chắc chắn là ba ngày rồi. Có thể còn lâu hơn nữa. Lúc cô ấy làm thủ tục nhận phòng, tôi đã nghĩ có cái gì đó không ổn với cô ấy rồi. Nhưng cô ấy nói không muốn bị quấy rầy." Chị ta nói cái gì vớ vẩn thế nhỉ? Vanessa lắc đầu. Tôi sẽ không bao giờ tự ý vào đây đâu. Một đêm cũng không! "Lẽ ra tôi không định gọi cô ấy đâu, nhưng mà tiếng thở khò khè đáng sợ đó cứ mỗi lúc một to hơn, và…" "Nhìn kìa!" Giọng nói của viên cảnh sát nhỏ người hơn vang lên ngay bên tai cô. "Cái gì?" "Ở đây có cái gì đó. Đây này." Vanessa cảm thấy ông bác sĩ gỡ ngón tay cô ra và dùng nhíp cẩn thận gắp một cái gì đó ra khỏi bàn tay trái của cô. "Cái gì thế?" Viên cảnh sát hỏi. Vanessa cũng ngạc nhiên như tất cả những người khác trong phòng. Cô không hề nhận ra là mình có cầm một cái gì đó. "Một tờ giấy ghi chú." Ông bác sĩ mở tờ giấy được gập làm đôi ra. Vanessa cố liếc mắt để có thể đọc được, thế nhưng cô chỉ thấy những chữ viết tượng hình khó hiểu. Những chữ trên đó được viết bằng một thứ tiếng hoàn toàn lạ lẫm đối với cô. "Nó viết gì thế?" Viên cảnh sát đứng gần cửa lên tiếng hói. "Thật lạ," ông bác sĩ cau mày đọc, "Người ta chỉ mua nó để ném nó đi ngay thôi." Lạy Chúa. Ông bác sĩ cấp cứu đọc những chữ đó mà không ngần ngừ. Việc này khiến cho cô thấy rõ toàn bộ nỗi kinh hoàng của cơn ác mộng đang giam giữ cô. Không hiểu vì lí do gì mà cô đã mất mọi khả năng trao đổi. Trong khoảnh khắc này, Vanessa không thể nói hay đọc, và cô đoán rằng thậm chí cô còn không thể viết được nữa. Ông bác sĩ lại chiếu đèn thẳng vào con ngươi của cô, và rồi bất thình lình, tất cả các giác quan còn lại của cô dường như cũng bị gây mê. Cô không còn ngửi được mùi hôi của cơ thể, không còn cảm nhận được chiếc thảm dưới đôi chân trần của mình nữa. Cô chỉ nhận thấy nỗi sợ hãi trong cô càng lúc càng lớn hơn và những tiếng nói lộn xộn quanh cô mỗi lúc một nhỏ đi. Bởi lẽ, khi ông bác sĩ vừa mới đọc xong dòng chữ ngắn ngủi đó, một sức mạnh vô hình đã chiếm lấy cô. "Người ta chỉ mua nó để ném nó đi ngay thôi." Một sức mạnh đang vươn bàn tay lạnh giá của nó tới và kéo cô xuống dưới - trở lại nơi mà cô không bao giờ muốn nhìn thấy lần nữa trong đời, nơi cô vừa mới rời bỏ vài phút trước. Đây không phải là một giấc mơ. Hay đúng là mơ? Cô cố ra dấu cho ông bác sĩ, thế nhưng khi hình dáng của ông ấy tan biến dần thì cô bắt đầu hiểu được, và một nỗi kinh hoàng trần trụi chiếm lấy cô. Họ thực sự không nghe thấy những lời cô nói. Cả ông bác sĩ lẫn cô nhân viên tiếp tân và các viên cảnh sát đều không thể nói chuyện với cô. Bởi lẽ cô chưa từng tỉnh dậy trong cái khách sạn tồi tàn này, thậm chí là ngược lại. Khi ngọn đèn halogen ở phía trên cô lại bắt đầu lóe lên, cô nhận ra rằng cô đã bất tỉnh khi cuộc tra tấn bắt đầu. Không phải tên điên đó, mà căn phòng khách sạn mới là một phần của giấc mơ. Giấc mơ ấy giờ đây đã trốn chạy, nhường chỗ cho hiện thực tàn khốc. Hay là mình lại nhầm lẫn nữa rồi? Cứu. Cứu tôi với! Tôi không còn có thể phân biệt được gì nữa. Cái gì là thực? Cái gì là mơ? Và tất cả mọi thứ lại giống như trước đó - căn hầm ẩm thấp, cái bàn kim loại. Cô bị trói chặt trên chiếc ghế khám phụ khoa. Trần truồng. Trần truồng tới mức cô cảm nhận được hơi thở của tên điên đó giữa hai chân mình. Hắn hà hơi vào người cô, ở đúng chỗ nhạy cảm nhất trên cơ thể cô. Rồi gương mặt đầy thẹo của hắn xuất hiện trong giây lát trước mắt cô, và cái miệng không môi cất tiếng nói, "Chỉ đánh dấu thêm lần nữa thôi. Bây giờ có thể bắt đầu rồi." Hắn nắm lấy cái mỏ hàn. Mời bạn đón đọc Kẻ Đoạt Hồn của tác giả Sebastian Fitzek & Phan Ba (dịch).
Bí Mật Đen Tối
Câu chuyện mở màn bằng một cuộc gọi đến sở cảnh sát. Roger Eriksson, một thiếu niên bị mất tích trong thị trấn thuộc tỉnh lị Västerås. Cuộc tìm kiếm nhanh chóng được tổ chức và một nhóm hướng đạo sinh trẻ tuổi trong lần khảo sát đầm lầy đã phát hiện ra sự thật khủng khiếp: Roger bị chết thảm. Cùng lúc đó, Sebastian Bergman - chuyên gia tâm lí học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt - đang ở Västerås thu xếp điền sản của mẹ mình sau cái chết của bà. Sebastian đã rút chân khỏi ngành cảnh sát sau cái chết của vợ và con gái trong trận sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004. Khi Cục Điều tra Tội phạm nhờ Sebastian giúp sức trong vụ án mạng Roger, với tính kiêu ngạo của mình, ban đầu Sebastian tỏ ra xa cách với đồng đội. Nhưng rồi khi đi sâu vào vụ án, ông bắt xóa bỏ dần khoảng cách và cùng đội điều tra phát hiện ra những bất thường tại trường tư thục Roger đang theo học. *** Tác giả: Michael Hjorth & Hans Rosenfeldt. Dịch giả: Nguyễn Hữu Công. Thể loại: Trinh thám Thụy Điển, tâm lý xã hội . Mức độ ưa thích: 6/10. Cậu bé Roger Eriksson 16 được tìm thấy đã chết rất thảm ở vùng đầm lầy Listakarr. Quá trình điều tra diễn tiến chậm chạp với sự tắc trách của cảnh sát địa phương, do đó Riskmord – Đơn vị chống tội phạm giết người quốc gia được mời vào cuộc. Người phụ trách Riskmord là Torkel Hoglund vì cả nể tình bạn xưa cũ với Sebastian Bergman nên đã đồng ý để ông tham gia điều tra trong sự phản đối của các thành viên khác. Sebastian vốn là chuyên gia tâm lý học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt, nhưng lần này ông ở Vasteras chỉ để lo thủ tục bán nhà sau khi mẹ ông qua đời. Càng điều tra, họ càng thấy mình như đang bước vào một mê cung vô cùng rối rắm chứa đầy những bí mật đen tối. Khi biết quyển sách này hơn 700 trang, mình bị thôi thúc bởi ý nghĩ “phải đọc”. Vốn đã quen với các thể loại trinh thám Mỹ thiên về loại hình siêu anh hùng, tốc chiến tốc thắng, không quá lắt léo đau lòng nên khi đọc “Bí mật đen tối”, nhịp văn chậm kiểu trinh thám Bắc Âu, quá nhấn mạnh vào cảm xúc + hành động sai trái của nhân vật, đọc hoài không có tiến triển gì mới – khiến mình hơi chán. Có một chi tiết trong truyện sau 500 trang cảnh sát vẫn chưa đoán được thì mình đoán đúng từ sớm. Cũng sau 500 trang thì mình mới thấy câu chuyện bắt đầu thú vị hơn, nhưng lúc kết thúc quyển sách thì mình không có được cảm giác hài lòng quen thuộc sau khi đọc một tuyệt phẩm. Trong cả truyện, mình chỉ tìm được vài đoạn hài hước hiếm hoi, thường là hài hước kiểu châm biếm sâu cay. “…chiếc túi chứa thứ gì đó, mà ông đoán chừng chắc trước kia là phó-mát, nhưng giờ nó chẳng khác nào dự án nghiên cứu trong phòng thì nghiệm chuyên về nấm mốc rất thành công”. Sau khi đọc “Tàn thế” và “Dị chủng”, mình có một tư duy lối mòn là cuốn nào do hai tác giả chấp bút thì cuốn đó đều rất dày và rất hay, nhưng cốt truyện trong “Bí mật đen tối” không gây ấn tượng sâu sắc với mình. Có lẽ các tác giả muốn nhấn mạnh tính thực tế tàn nhẫn của xã hội, nên các nhân vật trong truyện đều bị mô tả đầy khuyết điểm, từ chính diện đến phản diện. Chưa bao giờ mình đọc quyển sách nào mà mình ghét tất cả các nhân vật như quyển này, đặc biệt ghét nhân vật chính vì cách ông ta [dùng tình dục để lãng quên nỗi đau mất vợ con trong quá khứ]. Dù xã hội ông đang sống có nghĩ thoáng đến đâu, dù những người phụ nữ hoàn toàn tự nguyện trong những chuyện tình một đêm của ông thì mình vẫn cho rằng hành động đó […] vẫn gây ra rất nhiều tổn thương cho người khác. Ngay trong quyển này, độc giả sẽ thấy Sebastian phải trả giá cho những chuyện ông đã làm. Bìa sách bình thường, giấy màu ngà rất đẹp, chữ in to rõ, không có lỗi in ấn, trình bày đẹp, có kèm bookmark cùng thiết kế với bìa sách. Với một tác phẩm đồ sộ như “Bí mật đen tối” thì phần dịch thuật quả thật rất được chăm chút, nhưng dường như vẫn còn một chỗ viết nhầm “Bergman” thành “Berman”. Vì mình không thích cốt truyện nên không thích quyển này nhưng đối với một số độc giả khác, nhất là những ai thích “Bạch Dạ Hành” hoặc các quyển của Donato Carrisi thì có lẽ “Bí mật đen tối” sẽ là một tác phẩm rất đáng đọc và sở hữu. (Sea, 21-7-2019) Camellia Phoenix *** Suốt chiều dài hơn 700 trang, tác phẩm có nhiều chi tiết thừa, những nhân vật có cũng được, không có cũng chẳng sao, chỉ có tác dụng tung hỏa mù làm cho người đọc bối rối, hoang mang. Tuy nhiên, cách dẫn chuyện vẫn có nét hấp dẫn riêng, khiến cho người đọc cứ phải lật hết trang này đến trang khác để xem tác giả đưa mình đến đâu. Mỗi nhân vật sẽ tự kể câu chuyện cuộc đời họ trong một chừng mực. Họ có riêng "sàn diễn" để mặc sức vẫy vùng. Câu chuyện mở màn bằng một cuộc gọi đến sở cảnh sát. Roger Eriksson, một thiếu niên bị mất tích trong thị trấn thuộc tỉnh lị Västerås. Cuộc tìm kiếm nhanh chóng được tổ chức và một nhóm hướng đạo sinh trẻ tuổi trong lần khảo sát đầm lầy đã phát hiện ra sự thật khủng khiếp: Roger bị chết thảm. Cùng lúc đó, Sebastian Bergman - chuyên gia tâm lý học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt - đang ở Västerås thu xếp điền sản của mẹ mình sau cái chết của bà. Sebastian đã rút chân khỏi ngành cảnh sát sau cái chết của vợ và con gái trong trận sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004. Khi Cục Điều tra Tội phạm nhờ Sebastian giúp sức trong vụ án mạng Roger, với tính kiêu ngạo của mình, ban đầu Sebastian tỏ ra xa cách với đồng đội. Nhưng rồi khi đi sâu vào vụ án, ông bắt xóa bỏ dần khoảng cách và cùng đội điều tra phát hiện ra những bất thường tại trường tư thục Roger đang theo học. Một cách tiếp cận vấn đề khiến người đọc có phần… sốt ruột và thôi thúc việc đọc không thể ngừng nghỉ, chỉ với một mục đích: đọc đến trang cuối cùng để tìm thấy ánh sáng, để nhìn rõ sự thật. Bằng lối viết tinh tế, sắc sảo, Michael Hjorth và Hans Rosenfeldt dẫn dắt bạn đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Những chi tiết được khéo léo cài cắm, đầy những nút thắt, mở và cũng rất nhiều chi tiết tưởng như không cần thiết nhưng đến cuối, bạn sẽ hiểu tại sao chi tiết ấy lại xuất hiện. Trong các tiểu thuyết trinh thám không thiếu những cảnh tra tấn và giết người, nhưng ở “Bí mật đen tối” thì quá trình đó được miêu tả chân thực và rùng rợn đến mức chúng ta không tưởng tượng được làm thế nào tác giả lại có thể nghĩ ra những chi tiết đó một cách tài tình đến như vậy. Quả tim của nạn nhân đã biến mất, chi tiết mở đầu tiểu thuyết đã đủ lôi cuốn trí tò mò của người đọc.  Tác giả đã rất biết cách xây dựng một vụ án vừa đáng sợ vừa hóc búa và gay cấn đến phút cuối cùng, khiến cho người đọc tuy sợ nhưng cũng phải mau chóng lia mắt đọc tới dòng tiếp theo vì họ hoàn toàn không muốn bỏ lỡ bất kỳ tình tiết nào trong chuyến hành trình tìm ra sự thật. Bên cạnh những chi tiết hấp dẫn, gây tò mò, độc giả cũng sẽ bắt gặp những dòng văn nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu sắc, giản dị. Con người gai góc của Sebastian cũng có lúc lắng sâu, thâm trầm khi ông nhận ra thứ đơn giản như nước mắt: "Những năm gần đây, đó là điều biến đổi. Nước mắt. Thật lạ lùng, ông nghĩ, từng tuổi này, mình lại phải phát hiện ra thứ đơn giản như nước mắt". Nếu bạn là một độc giả yêu thích thể loại truyện trinh thám, chắc chắn "Bí mật đen tối" sẽ không làm bạn thất vọng. *** Gàkhông phải là kẻ giết người. Gã lặp lại trong đầu khi kéo xác thằng bé xuống dốc: Mình không phải là sát nhân. Sát nhân là tội phạm. Sát nhân thật kinh tởm. Bóng tối đã nuốt chửng linh hồn họ, và vì nhiều lý do họ đã nương theo và chào đón nó, quay lưng lại với ánh sáng. Gã không kinh tởm. Ngược lại là đằng khác. Chẳng phải gần đây gã không chứng minh được điều hoàn toàn ngược lại sao? Chẳng phải gã đã không gạt cảm xúc, ao ước của riêng mình sang một bên, mà tự kiềm chế, tất cả vì hạnh phúc của người khác? Làm ngơ – đó là những gì gã đã làm. Chẳng phải sự hiện diện của gã ở bãi lầy này, giữa một nơi xa xôi hẻo lánh với thi thể thằng bé càng chứng tỏ rằng gã muốn làm điều lương thiện sao? Phải làm điều lương thiện? Như thể gã chẳng bao giờ muốn làm việc tốt một lần nào nữa? Gã dùng chân và thở ra một hơi dài. Dù thằng bé chưa thật sự trưởng thành nhưng nó rất nặng. Rắn chắc. Nhiều giờ đã đổ ra ở phòng tập thể hình. Nhưng quãng đường không còn quá xa. Gã túm lấy hai ống quần, từng mang màu trắng nhưng giờ đây hầu như đã chuyển sang đen trong bóng đêm. Thằng bé máu me đầm đìa. Đúng, giết người là sai. Điều răn thứ năm nói rằng: Ngươi không được giết người. Nhưng có những ngoại lệ. Ở nhiều nơi, Kinh Thánh thực ra biện hộ cho giết chóc. Có người xứng đáng được như thế. Sai có thể thành đúng. Không có gì tuyệt đối cả. Rồi thế nào đây nếu lý do đằng sau việc giết người không phải vì ích kỷ? Nếu mất đi một nhân mạng mà cứu được những người khác? Thì hãy cho những người đó cơ hội. Cho họ được sống. Vào hoàn cảnh này, hành động ấy chắc chắn không thể liệt vào loại tàn ác. Nếu có động cơ tốt. Gã dừng chân bên làn nước đen của cái ao. Thường ngày, ao sâu chừng vài thước, nhưng cơn mưa gần đây đã làm mặt đất úng thủy, và giờ đây nó giống cái hồ giữa bãi lầy ứ đọng hơn. Gã cúi xuống và túm lấy hai vai chiếc áo phông của thằng bé. Cũng khá nhọc công, gã vần cho đến khi xác chết gập lại. Trong thoáng chốc, gã nhìn thẳng vào mắt thằng bé. Nó đã nghĩ gì trước khi chết? Liệu có đủ thời gian cho ý nghĩ cuối cùng? Nó có biết mình sắp chết không? Có tự hỏi tại sao không? Nó đã nghĩ về những thứ chưa làm được trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, hay về những thứ đã thật sự làm được? Không còn quan trọng nữa. Tại sao gã lại tra tấn bản thân thế này – hơn cả cần thiết? Gã không còn cách nào khác. Gã không thể làm họ thất vọng. Không một lần nào nữa. Tuy nhiên, gã đã do dự. Nhưng không, họ chẳng cảm thông đâu. Sẽ không tha thứ. Sẽ không làm ngơ, như gã đã làm. Gã đẩy thằng bé và thi thể nó rớt xuống nước, nghe rõ tiếng nước bắn tóe. Gã giật bắn người bởi thứ âm thanh không mong đợi vang lên trong khoảng không thinh lặng, mù mịt. Thi thể thằng bé chìm xuống nước và dần biến mất. Gã đàn ông không phải là sát nhân cuốc bộ về chiếc xe hơi của mình, đang đậu ở con đường mòn dẫn vào rừng, rồi lái xe về nhà. “Cảnh sát thành phố Västerås, Klara Lidman nghe đây.” “Tôi muốn báo con trai mình đã mất tích.” Giọng người phụ nữ nghe có vẻ ái ngại, như thể cô không chắc là mình gọi đúng số, hay cô không nghĩ là người ta tin mình. Klara Lidman với tay lấy xấp giấy ghi chú dù cuộc nói chuyện đang được ghi âm. "Vui lòng cho biết tên cô?" “Eriksson, là Lena Eriksson. Con trai tôi là Roger. Roger Eriksson.” “Con cô bao nhiêu tuổi?" “Mười sáu. Tôi vẫn chưa gặp lại nó kể từ chiều hôm qua." Klara chú ý đến độ tuổi thằng bé và nhận ra mình phải hành động ngay. Tất nhiên là nếu thằng bé đã mất tích. “Hồi mấy giờ chiều hôm qua?” “Nó dông mất lúc năm giờ.” Vậy là hai mươi hai giờ trước. Hai mươi hai giờ mấu chốt nếu đó là một vụ mất tích. “Cô có biết con mình đi đâu không?” “Có, đi gặp Lisa." “Lisa là ai?” “Bạn gái nó. Hôm nay tôi đã gọi cho con bé, nhưng nó bảo con tôi rời khỏi chỗ nó lúc mười giờ tối qua." Klara gạt bỏ con số “hai mươi hai” và thay bằng “mười bảy”. “Sau đó thằng bé đi đâu?" “Con nhỏ không biết. Nó nghĩ là về nhà. Nhưng con trai tôi vẫn chưa về nhà. Nó không hề về nhà cả đêm hôm qua. Và bây giờ sắp hết một ngày nữa rồi.” Và cô đã không gọi điện báo cho đến tận bây giờ, Klara nghĩ. Trong cô bỗng bật ra ý nghĩ rằng người phụ nữ ở đầu dây bên kia đã không cuống lên. Mà thờ ơ. Cam chịu. “Họ của Lisa là gì?” “Hansson." Klara ghi lại họ của con bé. “Roger có dùng điện thoại di động không? Cô thử gọi cho thằng bé chưa?” “Rồi, nhưng không ai trả lời.” "Và cô không biết nó có thể đi đâu? Liệu thằng bé có qua đêm ở chỗ bạn bè hay nơi nào đại loại như thế không?” “Không, như thế thì nó đã gọi cho tôi rồi.” Lena Eriksson ngưng lại một chút và Klara đoán chừng là người kia đang nghẹn ngào, nhưng khi nghe làn hơi rít vào ở đầu dây bên kia, cô nhận ra là cô ta đang kéo một hơi thuốc dài. Cô nghe thấy Lena thổi khói thuốc ra. “Nó đã biến mất.” Mời bạn đón đọc Bí Mật Đen Tối của tác giả Michael Hjorth & Hans Rosenfeldt & Nguyễn Hữu Công (dịch).