Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hà Đồ Trong Văn Minh Lạc Việt (Nguyễn Vũ Tuấn Anh)

Cuốn sách “Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt” của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh sẽ đem đến cho bạn đọc ham nghiên cứu nhiều giải đáp mới đầy hấp dẫn. Trong cuốn sách ông đã đã bỏ nhiều công phu để tìm hiểu cả những ứng dụng của Hà đồ trong khoa Phong thuỷ và Tử vi, đồng thời đã giải mã nhiều vấn đề vẫn còn nằm trong vòng bí hiểm. Tài liệu thật phong phú, chắc chắn sẽ giúp ích nhiều cho những bạn đọc quan tâm.

Hà đồ là khi họ Phục Hy làm vua thiên hạ, có con Long Mã hiện ở sông Hoàng Hà, họ ấy bèn bắt chước cái vằn ấy của nó để vạch ra tám quẻ. Lạc thư là do vua Vũ chữa được nước lụt, có con rùa thần đội vằn, trên lưng có số tới 9, vua Vũ bèn nhân đó mà làm ra chín loài”.

Lưu Hâm nói rằng:

“Họ Phục Hy nối trời làm vua, nhận đồ sông Hà mà vạch ra tám quẻ. Vua Vũ chữa được nước lụt, trời ban cho Thư ở sông Lạc, vua ấy bắt chước thư đó xếp thành chín loại. Đó là chín trù”. Quan Lăng nói rằng: ”Nét của Hà đồ, bảy trước, sáu sau, tám ở tả, chín ở hữu. Nét của Lạc thư, chín trước, một sau, ba tả, bảy hữu, bốn tả đằng trước, hai ở phía hữu đằng trước, tám ở phía tả đằng sau, sáu ở phía hữu đằng sau”. Thiệu Ung nói rằng: ”Tròn là hình sao, số của lịch kỷ có lẽ gây từ đó chăng? Vuông là hình đất, những cách chia Châu, đặt “tỉnh” có lẽ phỏng theo đó chăng? Bởi vì tròn là số của Hà đồ, vuông là nét của Lạc thư, cho nên vua Hy, vua Văn nhân đó mà làm ra Kinh Dịch, vua Vũ, ông Cơ theo đó mà làm ra thiên Hồng Phạm”.

Chu Hy nói rằng: Tìm mua: Hà Đồ Trong Văn Minh Lạc Việt TiKi Lazada Shopee

”Trong khoảng trời đất, chỉ có một vật là khí, chia làm hai thì là Âm Dương, năm hành gây dựng, muôn vật trước sau đều bị cai quản trong đó. Cho nên ngôi Hà đồ, một và sáu cùng tông mà ở về phía Bắc, hai và bảy làm bạn mà ở về phía Nam, ba và tám đồng đạo mà ở về Đông, bốn và chín thành lứa mà ở về Tây, năm và mười giữ lẫn cho nhau mà ở chính giữa. Nghĩa là cái số của nó chẳng qua chỉ có một Âm, một Dương, một lẻ, một chẵn để làm gấp đôi năm hành mà thôi.

Gọi là trời tức là khí Dương nhẹ trong, ngôi ở bên trên. Gọi là đất tức là khí Âm nặng đục, ngôi ở phía dưới. Số Dương lẻ nên 1, 3, 5, 7, 9 đều thuộc về trời. Đó là số của trời có 5. Số Âm chẵn, cho nên 2, 4, 6, 8, 10 đều thuộc về đất. Đó là số của đất có 5. Số của trời và số của đất, đằng nào theo loại đằng ấy, mà cũng tìm nhau. Ngôi “năm” tương đắc với nhau vì thế.

Trời lấy số 1 mà sinh hành Thủy, đất lấy số 6 mà làm cho thành.(*) Đất lấy số 2 mà sinh hành Hỏa, trời lấy số 7 mà làm cho thành. Trời lấy số 3 mà sinh hành Mộc, đất lấy số 8 mà làm cho thành. Đất lấy số 4 mà sinh hành Kim, trời lấy số 9 mà làm cho thành. Trời lấy số 5 mà sinh hành Thổ, đất lấy số 10 mà làm cho thành. Đó là “Các số đều có hợp nhau”. ”Chất 5 số lẻ thành 25, chất 5 số chẵn thành 30. Hợp cả hai số thành 55, tức là toàn.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hà Đồ Trong Văn Minh Lạc Việt PDF của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Kinh Dịch - Trí huệ và quyền biến (Mưu của người quân tử) - Quyển hạ
Kinh Dịch xuất hiện từ thời thượng cổ, là cuốn Kinh đứng đầu những cuốn Kinh – quần Kinh chi thủ của Trung Hoa. Từ khi ra đời cho đến nay, Kinh Dịch đã cuốn hút không biết bao nhiêu nhà nghiên cứu thuộc nhiều thế hệ. Kinh Dịch xuất hiện từ thời thượng cổ, là cuốn Kinh đứng đầu những cuốn Kinh – quần Kinh chi thủ của Trung Hoa.Từ khi ra đời cho đến nay, Kinh Dịch đã cuốn hút không biết bao nhiêu nhà nghiên cứu thuộc nhiều thế hệ. Kinh Dịch không chỉ là thế giới hấp dẫn đối với các học giả Trung Quốc, học giả các nước phương Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, mà còn hấp dẫn các nhà nghiên cứu ở các nước phương Tây như Anh, Pháp, Mĩ, Đức. Kinh Dịch bao gồm cả Đạo Trời – Đạo Đất – Đạo Người. Riêng Đạo Người, Kinh Dịch có 64 quẻ, tượng trưng các thời ; 384 hào tượng trưng 384 nhân vật điển hình, thiện có, ác có, sang có, hèn có ; mỗi nhân vật ở trong hoàn cảnh đặc biệt và có thời riêng. Trong thời chung, thời cơ riêng, ở hoàn cảnh đặc biệt, mỗi nhân vật điển hình trong Kinh Dịch thường đứng giữa ranh giới thiện – ác, tối – sáng, hoạ – phúc, thuận – nghịch, lợi – hại, tốt – xấu … chọn hướng nào là ẩn số của bài toán ở đời? Phù hiệu, văn tự của mỗi quẻ, mỗi hào là những dữ kiện của những bài toán ấy. Dịch là biến dịch, biến hoá ; quan trọng của Dịch là chữ Thời. Các nhà nghiên cứu thường dựa vào các dữ kiện tìm ra đáp số là lợi hay hại, thuận hay nghịch, xấu hay tốt. Kinh Dịch không chỉ là thế giới hấp dẫn đối với các học giả Trung Quốc, học giả các nước phương Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, mà còn hấp dẫn các nhà nghiên cứu ở các nước phương Tây như Anh, Pháp, Mĩ, Đức.Kinh Dịch bao gồm cả Đạo Trời – Đạo Đất – Đạo Người. Riêng Đạo Người, Kinh Dịch có 64 quẻ, tượng trưng các thời ; 384 hào tượng trưng 384 nhân vật điển hình, thiện có, ác có, sang có, hèn có ; mỗi nhân vật ở trong hoàn cảnh đặc biệt và có thời riêng.Trong thời chung, thời cơ riêng, ở hoàn cảnh đặc biệt, mỗi nhân vật điển hình trong Kinh Dịch thường đứng giữa ranh giới thiện – ác, tối – sáng, hoạ – phúc, thuận – nghịch, lợi – hại, tốt – xấu … chọn hướng nào là ẩn số của bài toán ở đời? Phù hiệu, văn tự của mỗi quẻ, mỗi hào là những dữ kiện của những bài toán ấy.Dịch là biến dịch, biến hoá ; quan trọng của Dịch là chữ Thời. Các nhà nghiên cứu thường dựa vào các dữ kiện tìm ra đáp số là lợi hay hại, thuận hay nghịch, xấu hay tốt.Mở đầu Thượng kinh là hai quẻ Càn – Khôn, mở đầu Hạ kinh là quẻ Hàm, nam – nữ gặp nhau ; thể hiện tam tài Thiên – Địa – Nhân hoặc Thiên – Nhân hợp nhất. Thứ tự quẻ, tự quái giải thích như sau : Đầu tiên có Trời Đất, sau mới có vạn vật, đã có vạn vật, sau mới có trai gái, có trai gái mới có âm dương giao kết mà thành vợ chồng, đã có vợ chồng mới có công sinh dục mới thành cha con. Vậy sau mới thành trật tự loài người, mới sinh ra quân thần, đã có quân thần mới có chế độ mà chia ra trên dưới, đã có trên dưới, vậy sau mới đặt ra lễ nghĩa, mới có chỗ thực hành. (Hữu thiên địa, nhiên hậu hữu vạn vật, hữu vạn vật, nhiên hậu hữu nam nữ, hữu nam nữ, nhiên hậu hữu phu phụ, hữu phu phụ, nhiên hậu hữu phụ tử. Hữu liễu phụ tử nhiên hữu quân thần, hữu liễu quân thần, nhiên hậu hữu thượng hạ, hữu liễu thượng hạ, nhiên hậu lễ nghĩa hữu sở kiến lập, hữu sở thực chi. Mở đầu Thượng kinh là hai quẻ Càn – Khôn, mở đầu Hạ kinh là quẻ Hàm, nam – nữ gặp nhau ; thể hiện tam tài Thiên – Địa – Nhân hoặc Thiên – Nhân hợp nhất.Thứ tự quẻ, tự quái giải thích như sau : Đầu tiên có Trời Đất, sau mới có vạn vật, đã có vạn vật, sau mới có trai gái, có trai gái mới có âm dương giao kết mà thành vợ chồng, đã có vợ chồng mới có công sinh dục mới thành cha con. Vậy sau mới thành trật tự loài người, mới sinh ra quân thần, đã có quân thần mới có chế độ mà chia ra trên dưới, đã có trên dưới, vậy sau mới đặt ra lễ nghĩa, mới có chỗ thực hành.(Hữu thiên địa, nhiên hậu hữu vạn vật, hữu vạn vật, nhiên hậu hữu nam nữ, hữu nam nữ, nhiên hậu hữu phu phụ, hữu phu phụ, nhiên hậu hữu phụ tử. Hữu liễu phụ tử nhiên hữu quân thần, hữu liễu quân thần, nhiên hậu hữu thượng hạ, hữu liễu thượng hạ, nhiên hậu lễ nghĩa hữu sở kiến lập, hữu sở thực chi.
Địa lý Tảo Ao - Cao Trung
Khoa Địa Lý của Trung Hoa, xưa kia, là khoa phối hợp thuyết âm dương, ngũ hành với sự quan sát cách thế, hình thể của các mạch đất cùng lối đi của sông, ngòi, suối, lạch mà tìm ra nơi có chứa tụ khí mạch của đất, dùng nơi đó làm đất kết. Họ quan niệm rằng nơi có đất kết, có thể chôn xương người chết nếu là kết âm - phần và có thể làm nhà, đình chùa, lập Doanh trại, Thị Trấn, Đô thị lên trên nếu là đất kết dương cơ, để người sống được hưởng sự thịnh vượng, phát đạt do tụ khí của vùng đất kết đó.  Khoa Địa lý có từ lâu, sự ích lợi của đất kết đã được Ông cha chúng ta tin tưởng và cả chúng ta cũng có nhiều người công nhận là đúng; sử sách có ghi chép nhiều sự kiện chứng tỏ là khoa Địa Lý có một giá trị nào ảnh hưởng đến đời sống con người.Câu ca dao: " Sống về mồ mả chứ không ai sống về cả bát cơm" đã chứng minh sự quan trọng của khoa học địa lý với con người Việt Nam. Khoa địa lý, có một huyền thoại vàng son như vậy tiếc thay đến nay đã gần như thất truyền, vì phép địa lý chính tông đã bị những man sư và man thư làm cho sai lạc đi nhiều. Lý do của sự tàn tạ sa sút của khoa này trước kia do quan niệm người xưa để giữ ngôi vị của một số dòng họ nên họ giữ bí mật chỉ một số ít được truyền lại....Địa Lý Tả Ao Địa Đạo Diễn CaNXB Sài Gòn 1969Cao Trung112 Trang
Hi Di với vền văn hóa Trung Hoa đời Tống
Cuốn sách Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời Tống được soạn giả Dương Thành sưu tầm và biên soạn, gồm 2 phần: Phần 1: Khoa Lý số học – giới thiệu xuất xứ và trình bày những nét văn hóa Trung Hoa đời Tống trong này. Nhận định của soạn giả về những căn bản của Lý số học. Phần 2: Thuật Lý số học – xưa và nay – giới thiệu các cách phân tích, sử dụng những kiến thức của Khoa Lý số học, xưa và nay.​ Cuốn sách Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời Tống được soạn giả Dương Thành sưu tầm và biên soạn, gồm 2 phần: Phần 1: Khoa Lý số học – giới thiệu xuất xứ và trình bày những nét văn hóa Trung Hoa đời Tống trong này. Nhận định của soạn giả về những căn bản của Lý số học. Phần 2: Thuật Lý số học – xưa và nay – giới thiệu các cách phân tích, sử dụng những kiến thức của Khoa Lý số học, xưa và nay.​ Lý số học, theo tương truyền được đạo sĩ Trần Đoàn, tự là Đồ Nam, hiệu là Hi Di, ở núi Vũ Dương sáng lập ra vào cuối đời Đường, đầu nhà Tống ở Trung Quốc. Trong dân gian còn được gọi là Tử Vi, gọi theo tên ngôi sao đứng đầu các sao trong môn học này.Môn học này đã được truyền vào Việt Nam hơn 1000 năm nay và được người Việt Nam tiếp nhận một cách sáng tạo, có thể nói, trường phái Lý số học Việt Nam đã có những khác biệt nhất định so với Trung Quốc. Kể cũng kỳ lạ, hiện nay Lý số học không còn được thịnh hành lắm ở Trung Quốc. Người Trung Quốc bây giờ thường hay dùng Tử Bình và bốc Dịch để giải lý xem số! Điều này phải chăng cũng cảy ra giống quy luật lan truyền văn hóa, lan truyền đạo Phật, là truyền từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam.Những bí ẩn về Lý số học chắc chắn chưa thể khai thác hết, vì môn học này liên quan chặt chẽ đến thiên văn, địa lý và cấu trúc con người ở tầm vũ trụ, ở tầm tâm linh. Cũng vì thế mà nó mang một dáng dấp mơ hồ, vì cơ sở khoa học của nó dường như vẫn còn nằm trên ngưỡng nhận thức của khoa học hiện đại, nhưng cũng vì thế có nhiều phiên bản sáng tạo một cách chủ quan hạn hẹp đã xuất hiện, phủ lên cho nó một tấm áo dị đoan. Nhưng hàng nghìn năm tồn tại của nó đã chứng minh sức sống mạnh mẽ của một cốt lõi có giá trị thật.Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời Tống Hi Di Với Nền Văn Hóa Trung Hoa Đời TốngDương Thành biên soạnNXB Lao ĐộngSố trang: 639
THÁI ẤT THẦN KINH - TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Đức Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà triết lý, nhà văn hóa vĩ đại. Ông được xếp vào là một trong 3 vị Thánh tiên tri của nhân loại. Đức Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà triết lý, nhà văn hóa vĩ đại. Ông được xếp vào là một trong 3 vị Thánh tiên tri của nhân loại.“Thái Ất Thần Kinh”  là một tác phẩm kỳ thư huyền bí của ông. Đây là một công trình nghiên cứu công phu, vĩ đại. Nó tổng hợp sức mạnh chuẩn xác của triết học toán rút ra từ những luồng vũ trụ. Là nguồn tri thức hữu thể để hiện thực mệnh sống của con người, với môi trường cảm ứng giữa người và trời đất cùng vạn vật. “Thái Ất Thần Kinh”  là một tác phẩm kỳ thư huyền bí của ông. Đây là một công trình nghiên cứu công phu, vĩ đại. Nó tổng hợp sức mạnh chuẩn xác của triết học toán rút ra từ những luồng vũ trụ. Là nguồn tri thức hữu thể để hiện thực mệnh sống của con người, với môi trường cảm ứng giữa người và trời đất cùng vạn vật. “Thái Ất Thần Kinh”“Thái Ất Thần Kinh”  cung cấp những tri thức để ta hiểu về vũ trụ và con người có luồng thông lưu với nhau trong định luật cảm ứng. Bản thân cơ thể con người là một sinh cơ nhạy bén, quan hệ ba chiều sinh hóa nhiên với vạn vật và vũ trụ. “Thái Ất Thần Kinh”  cung cấp những tri thức để ta hiểu về vũ trụ và con người có luồng thông lưu với nhau trong định luật cảm ứng. Bản thân cơ thể con người là một sinh cơ nhạy bén, quan hệ ba chiều sinh hóa nhiên với vạn vật và vũ trụ.“Thái Ất Thần Kinh”