Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gót Sắt (Jack London)

Năm 1907, Jack London cho ra đời cuốn tiểu thuyết Gót sắt. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của nền văn học Mỹ đề cập đến cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Mỹ. Đây là cuốn tiểu thuyết viễn tưởng thể hiện những tư tưởng ước mơ xã hội của ông. Nhà văn đã tự đặt mình là con người sống vào thế kỷ XXVI, lúc loài người đã trải qua bốn thế kỷ đại đồng và sau khi đã đập tan cái gót sắt là sự áp bức con người.

Tiểu thuyết của nhà văn Mỹ Jack London được sáng tác theo hình thức viễn tưởng, thể hiện lòng khao khát tự do, công lý và niềm tin sâu sắc vào tương lai tất thắng của cách mạng vô sản trên toàn thế giới.***

Jack London là nhà văn nổi tiếng người Mỹ, tác giả Tiếng gọi nơi hoang dã (The Call of the Wild), Gót sắt (Iron Heel), Martin Eden, Tình yêu cuộc sống (Love of Life), Nanh trắng (White Fang) và hơn 50 tác phẩm khác. Các tác phẩm của ông được dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và cho tới nay vẫn được độc giả tìm đọc.

Jack London năm 1876 ở thành phố San Francisco, và mãi ra đi vào ngày 22/11/1916 khi mới tròn 40 tuổi.

Năm 1896, do mong muốn làm giàu nhanh chóng, ông đã theo chân những người tìm vàng đến vùng Krondike thuộc Canada và đã nếm đủ mùi vất vả. Tại đây, Jack London đã được nghe những kẻ tha phương kể lại những câu chuyện về đói ăn, mất của và về những con chó trung thành. Tìm mua: Gót Sắt TiKi Lazada Shopee

Tất cả những mẩu chuyện này đã ám ảnh Jack London và ông đã viết thành những câu chuyện danh tiếng như: Đứa con của chó sói (viết năm 1902), Răng nanh trắng (1906), Ánh sáng ban ngày cháy đỏ (1910) và đặc biệt là tác phẩm Tiếng gọi nơi hoang dã (1903) đã gây được tiếng vang lớn, và từ đó Jack London đã có thể sống được bằng nghề viết truyện.***

Gió mùa hè hiu hiu lay động những cây thông khổng lồ và sông Wild-Water vỗ sóng nhịp nhàng vào những tảng đá xanh rêu. Bướm lượn dưới nắng và bốn bề tiếng ong bay vù vù như ru ngủ. Yên tĩnh quá. Thái bình quá. Và tôi ngồi đây, lo lắng, bồn chồn. Chính cái yên tĩnh làm cho tôi bồn chồn. Nó hư hư thực thực thế nào ấy. Khắp thế giới yên tĩnh, nhưng đó là cái yên tĩnh trước cơn giông tố. Tôi lắng tai nghe và tất cả các giác quan của tôi cũng căng lên chờ đón dấu hiệu của cuộc đại biến sắp nổ ra 1. Phải, miễn nó đừng nổ non! Miễn nó đừng bùng ra sớm quá!

Tôi bồn chồn cũng không có gì lạ. Tôi suy nghĩ, suy nghĩ liên mien, và không thể đừng suy nghĩ. Tôi vật lộn với cuộc sống đã từ lâu, đến nỗi thấy yên tĩnh là tức thở, không chịu được. Và tôi không thể không nghĩ đến trận cuồng phong chết chóc và tàn phá sắp sửa nổi lên. Trong tai tôi vang lên tiếng kêu gào của những người gục xuống, và tôi có thể nhìn thấy, cũng như tôi đã từng nhìn thấy 2 da thịt mơn mởn của con người bị dập vùi, tan tác, linh hồn con người bị giằng khỏi những tấm thân đầy kiêu hãnh và ném cho Thượng đế. Khốn khổ thay nhân loại chúng ta, muốn đạt đến mục đích của mình phải cố giết chóc, tàn phá, để đem lại cho trái đất một nền hoà bình và hạnh phúc bền vững.

Vả chăng, tôi chỉ có một mình. Lúc nào không nghĩ đến những điều tất phải xảy đến thì tôi nghĩ đến những điều đã qua, những điều không còn nữa. Tôi nghĩ đến con Đại bàng của tôi trước kia vẫn dang đôi cánh không biết mỏi ra vùng vẫy giữa trời xanh để bay về phía lí tưởng chói lọi của tự do nhân loại. Lí tưởng đó chính là mặt trời của anh. Tôi không thể ngồi yên để chờ đợi cái biến cố lớn lao do bản thân anh làm ra, mặc dầu anh không còn sống để nhìn thấy nó. Bao nhiêu năm anh sống làm người thì bấy nhiêu năm anh cúc cung tận tuỵ vì nó. Anh đã hiến cả đời anh cho nó. Nó là sự nghiệp của tay anh. Chính anh đã làm ra nó 3.

Cho nên trong thời gian chờ đợi lo lắng này, tôi sẽ viết về chồng tôi. Có nhiều điều chỉ mình tôi có thể nói rõ về anh, một con người cao quý dù ca ngợi bao nhiêu vẫn chưa đủ. Tâm hồn anh bao la như biển cả. Và khi tình yêu của tôi đã gột hết lòng vị kỉ thì tôi tiếc nhất là anh không còn sống để chứng kiến buổi bình minh sắp ló ra. Chúng tôi không tài nào thất bại được. Anh đã xây dựng vững chãi quá, chắc chắn quá rồi. Thảm hại thay cái Gót sắt đang dận trên ngực nhân loại! Chẳng bao lâu nữa, nó sẽ bị nhổ bỏ. Khi nào hiệu lệnh tung ra, lao động khắp thế giới sẽ dấy lên tầng tầng lớp lớp. Chưa bao giờ có một việc như thế trong lịch sử loài người. Sự đoàn kết của lao động đã được đảm bảo, và lần đầu tiên sẽ nổ ra một cuộc cách mạng quốc tế bao trùm cả thế giới 4.

Như các bạn đã thấy, óc tôi nghĩ miên man về sự kiện sắp xảy ra. Tôi sống miệt mài với nó, sống ngày, sống đêm, sống rất lâu, đến nỗi nó luôn luôn hiện ra trong tâm trí tôi. Tôi không thể nghĩ đến chồng tôi mà không nghĩ tới nó. Chồng tôi là linh hồn của nó, làm sao trong tư tưởng tôi có thể tách rời chồng tôi với nó được?

Như tôi đã nói, có nhiều điều chỉ mình tôi có thể nói rõ về anh. Ai cũng biết anh đã vì tự do mà chịu nhiều gian truân, đau khổ. Anh đã làm việc cực nhọc đến thế nào, đã đau khổ ghê gớm như thế nào, tôi biết hết. Vì tôi đã sống bên anh suốt hai mươi năm sóng gió vừa qua và tôi biết rõ lòng kiên trì, sự cố gắng không mệt mỏi và sự tận tuỵ không bờ bến của anh đối với Sự Nghiệp chung. Anh đã chết cho Sự Nghiệp, mới cách đây hai tháng.

Tôi sẽ cố viết giản dị và kể ra đây Ernest Everhard đã bước vào đời tôi như thế nào - thoạt tiên, tôi gặp anh ra sao, vì duyên cớ gì tôi đã thành một phần của chính mình anh, và anh đã gây cho đời tôi những biến đổi ghê gớm như thế nào. Như vậy, các bạn có thể nhìn anh qua mắt tôi, và biết về anh cũng như bản thân tôi - biết hết, trừ những chuyện riêng của vợ chồng chúng tôi.

Tôi gặp anh lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1912. Anh là khách của ba tôi và hôm ấy anh đến ăn cơm ở nhà tôi, tại thành phố Berkeley. Có thể nói, ngay từ lúc đầu, tôi không có cảm tình với anh. Ngoài anh ra, còn nhiều khách khứa khác. Chúng tôi đang ngồi trong phòng khách chờ mọi người đến đông đủ thì anh vào, trông đến là thảm hại. Tối hôm ấy là tối họp mặt của các mục sư - ở nhà, ba tôi 5 vẫn thường gọi thế. Ngồi giữa các nhà tu hành, Ernest nhất định là lạc lõng.

Trước hết, quần áo anh không vừa người anh. Anh bận một bộ đồ may sẵn bằng vải sẫm, xộc xà xộc xệch. Trong thực tế, chẳng có thứ quần may sẵn nào mà anh mặc vừa. Tối hôm ấy, mà bao giờ cũng thế: các bắp thịt của anh hằn lên mặt vải. Vai anh u lên, và cái áo vét-tông anh bận dăn dúm cả ở giữa hai vai. Cổ anh banh ra, chắc nịch: giống hệt cổ những kẻ đi đánh nhau ăn giải 6. Tôi nghĩ bụng: Té ra nhà triết học xã hội, nguyên làm nghề bịt móng ngựa, mà ba tôi đã phát hiện được, ngài là như thế đấy. Vai u thịt bắp như thế, thật đúng quá đi rồi. Tôi liền liệt anh vào hạng dị nhân và coi anh như một lão Blind Tom 7 của giai cấp công nhân.

Rồi anh lại bắt tay tôi nữa kia chứ! Anh xiết mạnh quá, chặt quá, nhất là anh nhìn tôi một cách táo tợn bằng cặp mắt đen lay láy - táo tợn quá, theo ý tôi. Các bạn cũng thừa hiểu tôi là sản phẩm của hoàn cảnh và khi ấy bản năng giai cấp của tôi rất mạnh. Giá một người đàn ông thuộc giai cấp tôi cũng táo tợn như thế thì không thể nào tha thứ được. Tôi đành cúi nhìn xuống đất. Lúc anh đi khỏi, tôi nhẹ cả người, quay lại nhìn đức Giám mục Morehouse. Đức Giám mục là một người tôi rất mến, một người đứng tuổi, hiền hoà, nghiêm chỉnh, tướng mạo và từ tâm hệt như đức Chúa. Chẳng những thế, Người còn là một nhà học giả.

Nhưng cái táo tợn mà tôi tưởng là tự phụ đó lại là đầu mối cho tôi tìm hiểu bản chất của Ernest Everhard. Anh giản dị, ngay thẳng, chẳng biết sợ cái gì và không thích mất thì giờ vào việc xã giao. kiểu cách. Mãi về sau, anh giải thích: “Em rất hợp ý anh, làm sao anh lại không nhìn thẳng vào người mà anh ưa thích?” Tôi đã bảo, anh chẳng sợ một cái gì. Anh là người bản chất quý phái, mặc dầu anh đứng trong phe thù địch của bọn quý phái. Anh là một siêu nhân, một “Con vật tóc vàng” như Nietzsche 8 đã miêu tả, và cộng thêm vào đó, anh mang những tư tưởng dân chủ cháy rực trong người.

Vì mải tiếp những người khác, và cũng vì sẵn có ấn tượng xấu, tôi quên khuấy mất nhà triết học của giai cấp công nhân, mặc dầu tôi có chú ý đến anh một hai lần trong bữa ăn - đặc biệt là lúc anh long lanh đôi mắt nghe các vị mục sư nói chuyện. Tôi nghĩ bụng: anh là người vui tính và tôi hầu như tha thứ cho cách ăn mặc của anh. Nhưng thời gian cứ đi, bữa ăn cứ tiếp tục, anh vẫn không buồn nói nửa lời. Trong khi ấy, các vị mục sư bàn luận miên man về giai cấp công nhân, về quan hệ của nó với Nhà thờ. Nhà thờ đã làm gì và đang làm gì cho nó. Tôi nhận thấy Ernest không nói làm cho ba tôi không bằng lòng. Nhân một lúc im lặng, ba tôi yêu cầu anh phát biểu, nhưng Ernest nhún vai: “Tôi chẳng có điều gì muốn nói cả” và lại ngồi ăn hạnh đào muối.

Nhưng ba tôi không chịu. Một lúc sau ba tôi bảo:

- Chúng ta có một người giai cấp công nhân ở đây. Tôi tin chắc người đó có thể trình bày các việc theo một quan điểm mới, vừa hay lại vừa bổ ích. Tôi muốn nói ông Everhard.

Những người khác tỏ vẻ thích thú một cách lịch sự và giục Ernest tuyên bố những quan điểm của mình. Thái độ của họ hết sức khoan dung, hoà nhã: đúng là thái độ của những kẻ đỡ đầu. Tôi thấy Ernest cũng nhận ra điều ấy và anh lấy thế làm khoái lắm. Anh chậm rãi nhìn bốn xung quanh và mắt anh sáng lên một cách ranh mãnh.

- Tôi quả thật không quen với những cuộc tranh luận tao nhã của Giáo hội, - anh bắt đầu được mấy lời đã ngập ngừng ngay, vẻ mặt khiêm tốn và do dự.

Họ giục: “Ông cứ tiếp tục đi!” và bác sĩ Hammerfield bảo: “Chân lí dù ở miệng ai nói ra chúng tôi cũng đều không ngại. Miễn là nó trung thực”.

- Vậy ra ngài tách rời trung thực khỏi chân lí ư? - Ernest cười hỏi rất nhanh.

Bác sĩ Hammerfield luống cuống trả lời:

- Giỏi đến đâu cũng phải có lúc nhầm, ông bạn trẻ ạ. Người giỏi nhất trong chúng ta cũng phải có lúc nhầm.

Ernest bỗng thay đổi hẳn. Anh đã thành một người khác.

- Vâng, được, - anh đáp. - Và tôi xin phép bắt đầu bằng câu này: là các ngài nhầm tuốt. Các ngài không biết gì về giai cấp công nhân, không biết một tí gì hết. Khoa xã hội học của các ngài sai bét và vô giá trị, cũng như phương pháp suy luận của các ngài.

Những lời anh nói chính lại không nặng bằng cách anh nói. Tôi giật cả mình trước hết vì giọng nói của anh. Nó cũng táo tợn không khác gì hai con mắt anh. Nó là một tiếng kèn chiến đấu và nó làm cho toàn thân tôi rung lên. Bàn tiệc xao động. Cái không khí đều đều buồn tẻ bị phá vỡ.

- Ông bạn trẻ tuổi! Phương pháp suy luận của chúng tôi có chỗ nào sai lầm và vô giá trị ghê gớm đến thế kia, thưa ông? - Bác sĩ Hammerfield hỏi, vẻ khó chịu thoáng hiện ra giọng nói và cách phát biểu của ông.

- Các ngài là những nhà siêu hình học. Các ngài có thể dùng siêu hình học để chứng minh bất cứ một cái gì, và xong thì mỗi nhà siêu hình học lại có thể tuỳ thích chứng minh rằng các nhà siêu hình học khác là sai. Các ngài là những kẻ vô chính phủ trong lĩnh vực tư tưởng. Các ngài là những nhà chế tạo ra vũ trụ. Điên rồ ơi là điên rồ! Mỗi ngài sống trong một vũ trụ riêng, do trí tưởng tượng riêng và những sở thích riêng của mình tạo nên. Các ngài không biết gì về cái thế giới thực các ngài đang sống, và tư tưởng điên loạn của các ngài hoàn toàn không có chỗ đứng trong thực tại.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jack London":Tiếng Gọi Nơi Hoang DãCô Gái Băng TuyếtGót SắtJack London Truyện Ngắn Chọn LọcJack London Tuyển TậpMartin EdenMối Thù Thiên ThuTừ Bỏ Thế Giới Vàng

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Gót Sắt PDF của tác giả Jack London nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Mùa Đông Dài (Scotland Chiết Nhĩ Miêu)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mùa Đông Dài PDF của tác giả Scotland Chiết Nhĩ Miêu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Mùa Cổ Điển (Quách Tấn)
Chúng ta thích những gì chúng ta thiếu. Khi, vì liên tài, tôi tìm và gặp được ông QUÁCH TẤN, lòng tôi vui sướng bao nhiêu! Ai ngờ rằng cái thế kỷ hai mươi nhộn nhịp với những thi sĩ dâm loạn, điên cuồng, gian trá, độc ác của nó, lại còn giữ nguyên vẹn, đâu đây, cả một bầu không khí Tống, Đường. Thật thế, QUÁCH TẤN chúng ta có đủ phong vận của một tao ông mặc khách thời buổi đó. Và bắt buộc tôi phải nói nhiều đến cái tâm hồn diễm lệ của người. Bởi vì, chỉ trong chốc nữa, chính nó sẽ soi xuống, vào cái mặt giếng trung thành của những trang thơ. Tôi nghĩ ngay - lố bịch thay là ý tưởng! - đến một chiếc bình lọc nước: Chậm chạp mà vững vàng, âm thầm mà mạnh mẽ, nó sẽ hút chất nước ngọt ngào chung quanh vào trong tinh khiết của lòng mình, gạn lọc, chọn lọc. QUÁCH TẤN là như thế đó. Một sự thu nhận rất đỗi thận trọng điều hòa. Cử chỉ ít, lặng, nhưng đầy ý nghĩa. Lời nói sưa, nhỏ, nhưng không thiếu sâu xa. Tóm lại có thể trong mấy chữ: hiểm tuy rằng điềm. Đó là cái tính của hồ, một mặt phẳng im, trên một lòng sâu tối. Đó là cái tính của núi, đơn sơ ba nét, ba chiều cổ điển, nhưng tâm lý chi ly từng ngọn cỏ, nhành gai. Yêu hồ yêu núi dường kia, không trách QUÁCH TẤN không thích bể là phải lắm. Một lần người bảo: « Tôi chỉ yêu nó khi nó là một mặt lặng im thôi ». Tôi tưởng như người đã nói rõ quan niệm của người trong câu nói đó. Bởi vì QUÁCH TẤN không phải chỉ là người chôn hoa khóc hoa, tưởng nhớ một lòng sen, cảm thương một thân lá. Cũng không phải ông chỉ là người ưa siêu thoát ra ngoài thế sự, mong lấy cái hư vô làm cái tâm hồn, bởi lẽ tâm hồn đã quá say đắm hư vô, Không! ông đủ cái phức tạp của chúng ta, lại thêm cái từng trải của một con người tam thập. Nhưng ông đã trót mang cái quan niệm là đàn áp, đàn áp tất cả, để được bình tĩnh mà đón tiếp thi ca. Tưởng là khô khan của Cao đạo nhưng thật ra trong suốt của Tượng trưng. Cũng không đáng lấy làm lạ, khi người ta bước ra từ địa hạt thơ Đường, nguồn tượng trưng thuần túy nhất. Tôi có cảm giác, một khi về với thơ Tầu, là thế giới chia ra hai phần: một, mặt đất, hai, cái tượng trưng của nó bên trên: không khí. Nhà thơ là người hiểu nhất về cái bên trên. Đáng lẽ than khóc cái cành hoa rơi, họ than khóc cái chỗ trống của cành hoa rơi. Đáng lẽ kêu gọi một ngọn gió, họ chỉ kêu gọi cái gì như hình thể của ngọn gió. Họ đi đến với chung quanh, với sự vật không bằng đường đất của con tim, bàn chân của cảm tình, nhưng bằng không gian, bằng cánh bay của trực giác. Riêng về QUÁCH TẤN cái quan niệm « tình nhiều nhưng không được lộ, khí mạnh nhưng mà phải dằn », như sao ta có thể đọc thấy rõ ràng, trong mấy câu, gọi đi là tâm sự: Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ, Tìm mua: Mùa Cổ Điển TiKi Lazada Shopee Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ. Và sự liên tưởng, xui chúng ta không sao không nghĩ đến một đôi nhà thi sĩ Pháp đã đưa ra cái thuyết: « Người thơ khi đi tìm cái Đẹp phải dằn lên những dục vọng tầm thường, phải gạt tro ra cho điếu thuốc được dễ dàng cháy theo với LỬA ». Phương Đông, phương Tây, ngửng lên cùng thấy trời kia xanh. Một cái quan niệm như thế ở một nhà thơ cũ, chẳng xui ta ngạc nhiên mảy may nào hết. Ai đã có thể yêu sự tự ràng buộc của tâm hồn, thì yêu luôn cái ràng buộc tâm hồn bởi ngoại cảnh. Kẻ hoàng vương sợ gì lễ nghi. Bởi vì lễ nghi làm ra kẻ hoàng vương vậy. Con cá đẹp, múa giữa bốn mặt pha lê, mà cũng làm được khoái lạc cho kẻ tài tử - chính vì nó múa giữa bốn mặt pha lê. Cái múa tự do đó, QUÁCH TẤN nuôi mãi trong hi vọng. Ông nguyện ngày kia sẽ trả lại hoàn toàn cho thơ cũ cái hoàn toàn của nó - âm điệu, nhịp nhàng, uyển chuyển, đổi thay - mà « làng thơ Việt Nam đã bao lâu đánh mất ». Mười năm, hai mươi năm, hay cần đến, cả một đời, điều ấy là một điều chẳng đáng kể với ông. Tập thơ thứ hai nầy vượt biết bao nhiêu tập thơ thứ nhất đã làm chúng ta không mãn nguyện. Tập thứ hai nầy, tuy xinh đẹp nhường ấy, yêu kiều nhường ấy, ông cũng rụt rè mà cho là thêm một bước tập tành. Và xin cảm ơn cái tập tành ấy nhé. Bởi vì, tập MÙA CỔ ĐIỂN bé bỏng nhưng quá đầy đủ, trước hết, đã giải cho ta một mối lầm ác nghiệt là phân chia bờ cõi Thơ bằng hai chữ Mới Cũ chẳng có ý nghĩa gì. Và cũng không thể gọi là sau hết, cái việc nó đã đem lại, - ngoài những ý hay, tứ mới, ngoài những cảnh đẹp, tình sâu, - một cái quí báu nhất và cốt tủy nhất là Hồn Thơ, mà chưa một ai định nghĩa cho rành mạch. Những người, không vì một lẽ rõ ràng gì, đã thích những câu: Cỏ biếc chẳng treo hồn Sở trướng. Trúc vàng thà điểm giọt Ngu cung. (Phạm Thái) Vàng rụng giếng ngô sa lá gió, Bạc xuy dậu cúc nảy chồi sương. (Tương An) Một tòa sen tỏa hơi hương ngự, Năm thức mây phong nếp áo chầu. (Thanh Quan) Xuân đào lý gió đêm hoa nở, Thu khi mưa rụng lá ngô đồng. (Tản Đà) Họ sẽ hiểu tôi muốn nói gì. Ấy là tôi muốn nói đến thơ thuần túy. Phải rồi QUÁCH TẤN, tuy chưa đến được - vì ai mà đến được, vả chăng ông cũng chẳng mong đến được bây giờ - nhưng ông đã đi gần cái thể đọng của Thơ thuần túy mà ở cổ nhân, ta chỉ thường thấy trong các bản Cung oán ngâm khúc, Tần cung nữ oán, Bái Công văn… Hỡi những bạn trẻ! Chúng ta vẫn thường say mê cái nguồn thơ phương Đông, sao hôm nay chúng ta không đón rước cái chân tài đương độ nở nầy; - huống gì đó lại là kẻ đại biểu cuối cùng cho một trường thơ hôm nay tẻ lạnh. Tôi phải nói thế nào cho đủ lòng tin của các bạn đây? Một bài tựa không phải là một chỗ ca tụng. Nhưng khi với những bài thơ đầu, TẢN ĐÀ đã không ngại ngần mà đặt QUÁCH TẤN bên Yên Đổ, Hồ Xuân Hương, bà huyện Thanh Quan, Tôn thọ Tường…, 1 thì với tập thơ thứ hai nầy, sao tôi không đủ can đảm để nói rằng: qua các cổ nhân, đến bây giờ, bạn trẻ chúng ta mới tìm thấy những bài bát cú mà chúng ta yêu được hoàn toàn, một nhà thơ cổ điển hiến dâng một mùa mà chúng ta đón tiếp với một lòng vui sướng không do dự. Cái đẹp, người ta bảo nên để nó đi đến một mình. Nhưng hôm nay sự nó đến không có tính cách dĩ nhiên, cái một mình lại thành ra bó buộc, bởi vậy nên xin. Có tựa. Nhatrang, Xuân năm rắn, Chế Lan ViênĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mùa Cổ Điển PDF của tác giả Quách Tấn nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Mù Lòa (Jose Saramago)
"Mù lòa" giống như câu chuyện ngụ ngôn giàu triết lý. Với lối viết tỉ mỉ, châm biếm, Jose Saramago cuốn hút người đọc vào từng trang sách, cười khóc với các nhân vật trong truyện. Mù lòa là cuốn tiểu thuyết siêu thực, đa nghĩa, đầy ẩn dụ được nhà văn José Saramago viết năm 1995. Năm 2008, Mù lòa được chuyển thể thành phim và chiếu mở màn tại Liên hoan phim Cannes. Đó là câu chuyện hư cấu về một thành phố kỳ lạ - thành phố bỗng dưng hóa mù. ...Căn bệnh mù trắng đã lan ra ngoài bốn bức tường của phòng giam, vỏ bọc của xã hội thành thị văn minh sụp đổ hoàn toàn và trở về trạng thái nguyên thủy man rợ. Toàn bộ cơ sở hạ tầng của thành phố bị phá hủy, mối liên kết giữa các cá thể trong cộng động sụp đổ hoàn toàn. Xác chết ngập đường, lương thực thiếu thốn, người nọ chiếm cứ nhà của người kia, ai cũng làm đủ mọi cách để sinh tồn, bất chấp việc chà đạp lên đồng loại… Chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng ấy, vợ ông bác sĩ - người sáng mắt duy nhất đã có lúc thốt lên mong muốn được mù như mọi người, “mù nhưng thấy”. Không phải bỗng dưng tác giả mở đầu cuốn sách bằng câu đề từ: “Nếu ngươi có thể thấy, hãy nhìn. Nếu ngươi có thể nhìn, hãy quan sát”. Lời đề từ như tiếng sấm truyền từ một cuốn sách cổ xưa để lại, khiến người đọc không khỏi bàng hoàng, thảng thốt. Thì ra từ “thấy” đến “nhìn” và “quan sát” là cả một chặng đường dài về nhận thức mà không phải kẻ “mắt sáng” nào cũng làm được. Tìm mua: Mù Lòa TiKi Lazada Shopee Mù lòa giống như một câu chuyện ngụ ngôn giàu triết lý. Với lối viết tỉ mỉ, châm biếm, Jose Saramago đã cuốn hút người đọc vào từng trang sách, cười khóc với các nhân vật trong truyện. Hơn hết, Mù lòa đặt ra cho người đọc những triết lý nhân sinh cần suy ngẫm qua lời vợ ông bác sĩ nói trong phần kết của tác phẩm: “Em không nghĩ chúng ta đã hóa mù, em nghĩ từ trước đến giờ chúng ta vẫn mù, Mù nhưng nhìn được, Những người mù có thể nhìn được, nhưng không thấy”.***Jose Saramago sinh năm 1922 tại Azinhaga, thuộc tỉnh Ribatejo, Bồ Đào Nha. Tác phẩm của ông đầy chất huyền thoại và đa nghĩa, gợi lại cổ tích qua cách nhìn độc đáo về lịch sử, xã hội và con người. Văn của ông đi sâu vào chỉ tiết, châm biếm và dí dỏm, siêu thực và đầy ẩn dụ. Mãi đến năm sáu mươi tuổi ông mới được nhiều người biết đến qua tác phẩm Memorial do Convento (Ký ức về nhà tu kín, 1982). Tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi nhất của ông là O Evangelho Segundo Jesus Cristo (Phúc âm theo Chúa Jesus, 1991), bị Thứ trưởng Ngoại giao Bồ Đào Nha loại khỏi danh sách các tác phẩm đề cử giải Văn chương châu Âu. Ông nhận giải Nobel Văn chương năm 1998.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mù Lòa PDF của tác giả Jose Saramago nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Mr.bu Không Phải Idol Của Tôi (Meng Qi Qi)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mr.bu Không Phải Idol Của Tôi PDF của tác giả Meng Qi Qi nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.