Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khang Kiều (Loan)

Về sau tôi mới biết, thì ra Khang Kiều là tên một người con gái - Các nữ phụ.***

*Bản văn án đầy thành ý:

Mùa hè năm 2006, cảnh sát Indonesia nhận được một cú điện thoại báo án. Khi họ tới hiện trường thì phát hiện hai nam nữ thanh niên đang thoi thóp hơi tàn vì sử dụng thuốc ngủ quá liều, địa điểm xảy ra vụ việc là hang Tình Nhân - thánh địa tự tử vì tình nổi tiếng ở đảo Bali. Về sau, cảnh sát đặt tên cho vụ này là: Tự tử vì tình thất bại. Chàng trai tên Hoắc Liên Ngao, cô gái tên Khang Kiều.

Mười lăm tiếng đồng hồ sau, khi tỉnh lại, Khang Kiều đã hỏi Hoắc Liên Ngao: Vì sao lại gọi điện thoại?

Vì sao anh gọi cú điện thoại ấy vào giây phút cuối cùng, thật ra Khang Kiều đã sớm hiểu rõ, chẳng qua cũng chỉ vì yêu chưa đủ mà thôi.*** Tìm mua: Khang Kiều TiKi Lazada Shopee

*Bản văn án tác giả yêu thích:

Con sinh ra vào thứ Hai thì diện mạo bảnh bao, con sinh ra vào thứ Tư thì dễ đau thương, con sinh ra vào thứ Sáu thì bụng dạ tốt, còn đứa sinh ra vào thứ Năm đã đi xa rồi.

Bài đồng dao của nước Anh cổ kính dường như đã hát lên số phận của họ. Đứa sinh ra vào thứ Hai tên Hoắc Liên Ngao, đứa sinh ra vào thứ Tư tên Khang Kiều, đứa sinh ra vào thứ Sáu tên Văn Tú Thanh, còn đứa sinh ra vào thứ Năm tên Hoắc Tiểu Phàn.***

Trên cây thành công có vô vàn trái táo, nhưng nếu bạn chọn trúng thành phố New York thì tức là bạn đã chọn được trái to nhất trên cái cây ấy đấy…Ngày 31 tháng 12 năm 2013, 7 giờ đúng tại bờ biển phía Đông Bắc Mỹ, chỉ còn năm tiếng nữa là năm 2014 tới.

Khói thuốc vấn vít mù mịt cả một căn phòng. Hút xong điếu cuối cùng, tay còn đang kẹp đầu lọc, Giản Liêu đã đứng dậy khỏi ghế.

Dừng lại trước ô cửa sổ sát sàn rộng lớn, nhìn xuống đô thị hàng đầu thế giới qua làn khói mông lung. Ngọn đèn lung linh che khuất những ánh sao trên trời, từng tòa nhà cao chọc trời được ánh đèn chiếu rọi trông càng giống hàng loạt mũi tên bắn lên bầu trời, mạnh mẽ, thẳng tắp, khí thế hơn người, khiến người ta phải chùn bước.

New York được mệnh danh là thành phố Táo. Về nguyên nhân của cái tên này có rất nhiều phân trần, ý kiến duy nhất Giản Liêu còn nhớ là vì lời bài hát nhạc Jazz đã cũ đến rụng răng: “Trên cây thành công có vô vàn trái táo, nhưng nếu bạn chọn trúng thành phố New York thì tức là bạn đã chọn được trái to nhất trên cái cây ấy đấy”.

Lời bài hát khí thế hăm hở này chắc chắn đã khích lệ những giấc mơ anh hùng còn đang rục rịch nơi lồng ngực.

Mười tám tuổi, Giản Liêu một thân một mình từ Quảng Châu tới New York. Mười năm đã trôi qua, cuộc sống hiện tại của Giản Liêu không tốt cũng không xấu. Anh có một ngôi nhà riêng tại Manhattan, có một số tiền tiết kiệm nhất định tại ngân hàng, tháng trước vừa mua ô tô, Mercedes-Benz C63. Nếu đi trên đường phố Manhattan, anh và những nhân viên hành chính cao cấp tay xách những chiếc cặp công vụ hàng hiệu của những công ty hàng đầu chẳng mấy khác biệt, điều may mắn là so với họ, trông anh trẻ hơn một chút.

Thành tựu hiện thời của Giản Liêu có lẽ là do anh gặp được người tốt, nói chính xác hơn là anh gặp được quý nhân.

Giống như tâm trạng của những người đã quen ăn cá ngon thịt tươi, thi thoảng lại trông sang những bữa cơm rau đạm bạc của những gia đình bình dân vậy, Giản Liêu cũng hay nhớ lại khoảng thời gian ngày ngày đến nhà hàng rửa bát khi mới đặt chân tới New York, nhớ căn nhà ổ chuột bao ngày không nhìn thấy mặt trời, cả cô bạn gái với mái tóc dài và thẳng yêu nhau hồi đó, mặc dù tới bây giờ anh chẳng còn nhớ diện mạo của cô ấy nữa.

Thở hắt một hơi, Giản Liêu quy tất cả những tâm trạng mang theo chút buồn bã vu vơ ấy thành chuyện khi sắp qua một tuổi. Khi đối mặt với một năm mới sắp đến, con người ta dù ít dù nhiều cũng sẽ tưởng nhớ lại năm cũ sắp qua.

Bỏ đầu lọc vào trong gạt tàn, bước ra khỏi phòng hút thuốc, bóc một viên kẹo cao su bỏ vào miệng, năm phút sau, Giản Liêu đẩy cửa lớn phòng họp ra, viên kẹo cao su kia đã thành công mang đi mọi mùi thuốc lá còn sót lại trong khoang miệng.

Đây là một hộp đêm cá nhân, nằm ở gần sông Hudson. Từ tòa nhà xanh màu nước hồ đó, đi thẳng thang máy lên là có thể tới được hộp đêm. Từ tầng 60 trở lên, toàn bộ đều thuộc phạm vi kinh doanh của hộp đêm.

Vẫn giống như mười mấy phút trước khi Giản Liêu ra ngoài, trong không gian rộng bằng hai sân quần vợt, ngoài giọng nói của người tổ chức đấu giá ra thì không còn một tạp âm nào khác.

Giản Liêu trở về vị trí của mình, đó là một góc không mấy nổi bật. Tại đây có mười mấy người cũng không có chỗ người như anh, phải tìm một chỗ kín đáo để đứng. Họ và anh cũng có chung một thân phận: Trợ lý cấp cao.

Tính chất công việc của nghề trợ lý cấp cao thực ra không khác lắm so với một chân lon ton trong văn phòng. Công việc của họ chính là giúp Boss của mình xử lý một vài việc khá lặt vặt.

Boss của Giản Liêu tên là Hoắc Liên Ngao.

Hiện giờ Giản Liêu đang đứng trên tầng cao nhất của hộp đêm, một tháng có tới hai mươi chín ngày nơi đây yên ắng, chỉ tới ngày cuối cùng mỗi tháng mới mở cửa. Chỉ những hội viên cấp kim cương mới có tư cách nhận được lời mời. Tất cả những người cầm thiếp mời trên tay ngoài việc đều là những nhà tỷ phú thì còn cần có thêm một thân phận khác: Những nhà sưu tầm.

Tại rất nhiều địa điểm công cộng, càng ngày càng nhiều những người tiền tài như nước vui vẻ nói về những món đồ mình sưu tầm. Người nghe hùa theo, ngợi khen chúng hết lời. Lâu dần, sưu tầm trở thành một trào lưu trong thế giới thượng lưu. Dường như số lượng và chất lượng các món đồ sưu tầm của ai nhiều hơn và tốt hơn thì đời sống tinh thần của họ sẽ vô cùng giàu có, phong phú vậy.

Về sở thích sưu tầm của những nhà tỷ phú, người ngoài thi thoảng lại truyền tai nhau những câu chuyện cười như “Bảo bối mà ông trùm dầu mỏ Trung Đông bỏ ra số tiền hàng triệu mới mua được lại là lon nước tiểu của ông nội của ông nội của người đẹp Trung Mỹ tên Vanessa”.

Nhắm vào trào lưu này, một vài “triển lãm nghệ thuật” do những hộp đêm tư nhân đẳng cấp tổ chức đã ra đời. Các triển lãm này chủ yếu là những buổi đấu giá, quy mô tuy không lớn nhưng các sản phẩm được trưng bày lại khiến người ta phải tặc lưỡi.

Bây giờ đây, tại hội trường được trang trí bằng hai tông màu chủ đạo là vàng hồng và xanh dương Địa Trung Hải đang diễn ra một buổi triển lãm như thế. Ngoài bốn cây cột trụ to đùng và sân khấu thủy tinh ra thì không còn thiết kế dư thừa nào khác. Mấy chục chỗ ngồi được xếp vòng quanh sân khấu, không một chỗ nào trống. Các vị khách quý ăn diện xuất hiện cùng với món đồ đặc biệt mới mẻ khiến buổi triển lãm này trông giống như một buổi ra mắt những đồ xa xỉ.

Buổi triển lãm đã sắp kết thúc, đại gia người Nga bụng phệ là người giành được nhiều nhất. Ngoài việc sở hữu bản nháp của người nổi tiếng cùng điếu xì gà đang rất hot gần đây thì ông ta còn giành được cho tình nhân của mình món trang sức mà vị phu nhân bá trước thời trung cổ từng sưu tầm.

Cô gái chỉ vừa đôi mươi mãn nguyện dựa vào lòng người đàn ông đáng tuổi bố mình. Món trang sức trị giá mấy chục vạn khiến đôi mắt cô ta cần nũng nịu bao nhiêu có bấy nhiêu.

Từ phía Giản Liêu có thể nhìn rõ cô gái đang nằm trong vòng tay đại gia người Nga ấy vô thức liếc mắt sang trái. Sân khấu thủy tinh thay đổi nhiều hình ảnh này rất có lợi cho trò chơi ánh mắt giữa nam và nữ.

Người đàn ông trẻ ngồi ở mé trái chính là Hoắc Liên Ngao. Có lẽ, tuyệt đại đa số mọi người sẽ giống Giản Liêu, lần đầu tiên gặp Hoắc Liên Ngao, trong đầu đã lập tức hiện lên một suy nghĩ: Đó quả thực là một người đàn ông đẹp.

Vẻ đẹp của Hoắc Liên Ngao là kiểu đẹp phi điển hình mà khi dùng những từ ngữ bình thường như “vẻ đẹp tỏa nắng”, “anh tuấn phi phàm”, “cao lớn vạm vỡ” để miêu tả vẫn cảm thấy thiếu chút gì đó.

Vẻ đẹp của Hoắc Liên Ngao thuộc kiểu tinh tế, lạnh lùng, kết hợp với đôi mắt hờ hững sẽ càng khiến anh giống một bức tượng đá tuyệt diệu yên lặng ngồi đó.

“Người đàn ông trẻ đó giống một kẻ xâm nhập và quan sát vô tình đến Trái Đất, mang theo sự mê hoặc trí mạng, khiến người ta không thể hiểu được.” Năm ngoái đã có một nhân vật nổi tiếng cấp giáo chủ nào đó hình dung về Hoắc Liên Ngao như thế.

Cho dù nghe có vẻ khoa trương, nhưng cũng được rất nhiều người đồng tình, vì cho dù Hoắc Liên Ngao mặc một chiếc áo phông tầm thường giá mười đồng xếp hàng mua McDonald thì cũng có thể thu hút đám con gái ngay từ cái nhìn đầu tiên. Ý nghĩa này cũng giống như việc “một vị hoàng tử thực thụ cho dù bị vứt vào cuộc sống bình thường vẫn vô cùng nổi bật”.

Khi những lời hình dung kia lọt vào tai Hoắc Liên Ngao, anh cũng chỉ cười, sau đó trả lời bằng một chất giọng nghiêm túc, nửa phản bác, nửa đùa giỡn: “Cảm ơn lời ngợi khen của ngài Enge. Tôi nghĩ, tôi phải sửa lại, tôi chắc chắn là một người tham gia vào cuộc sống trên hành tinh này. Sự nhiệt tình của tôi không kém bất kỳ ai cùng tuổi. Tôi và họ đều có những sở thích giống nhau, thích ăn uống, du lịch, những cô gái xinh đẹp và gợi cảm, ba thứ này không thể thiếu thứ gì”.

Câu nói này của Hoắc Liên Ngao không còn nghi ngờ gì, chính là muốn tuyên bố với mọi người: Thật ra, tôi chỉ là một kẻ phàm phu tục tử.

Việc thích ăn uống và du lịch cỡ nào thì anh chưa thể hiện ra ngoài, vì anh quá bận rộn, anh đã dồn mọi sức lực vào việc kinh doanh của mình.

Có điều, thứ cuối cùng mà Hoắc Liên Ngao nhấn mạnh thì đúng. Những cô gái từng hẹn hò với anh đa số đều xinh đẹp, ngực to, eo thon và chân dài.

Đương nhiên, thi thoảng cũng có ngoại lệ, ví dụ như cô gái tên Miêu Tiểu Cơ đang ngồi bên cạnh anh kia. Miêu Tiểu Cơ ngoài điều kiện xinh xắn ra thì không một điều kiện nào khác phù hợp với thẩm mỹ quan của anh, ngực lép, chân gầy, dáng người cũng không cao ráo.

Về Miêu Tiểu Cơ, tối qua Hoắc Liên Ngao khi đối mặt với những lời đùa cợt của đám bạn đã thản nhiên buông một câu: “Thỉnh thoảng đổi khẩu vị một chút”. Khi đó, Miêu Tiểu Cơ cũng có mặt.

Miêu Tiểu Cơ là cô sinh viên vừa tốt nghiệp trường mỹ thuật, món đồ đặc biệt của triển lãm nghệ thuật là tác phẩm tốt nghiệp của cô ấy. Tác phẩm được đấu giá ba mươi ngàn đô la Mỹ đó do Hoắc Liên Ngao mở hầu bao.

Hoắc Liên Ngao nói thế này về tác phẩm mình vừa đấu giá: “Ba năm sau, nó có thể giúp tôi kiếm được năm mươi ngàn đô”.

Giản Liêu không chút nghi ngờ gì về câu nói của Hoắc Liên Ngao. Bà ngoại anh là một nhà nghệ thuật nổi tiếng, anh di truyền từ bà mình sự nhanh nhẹn và nhạy bén đối với nghệ thuật.

Trong số các sản phẩm đấu giá lần này tại triển lãm có những món đồ của riêng Hoắc Liên Ngao, bản nháp của người nổi tiếng do người Nga đấu giá thành công và con dao võ sỹ mà người Trung Đông nắm chắc phần thắng. Hai sản phẩm này mấy năm nay luôn được cất dưới tầng hầm của Hoắc Liên Ngao, khi bán ra anh kiếm được không dưới một triệu.

Tầng hầm của Hoắc Liên Ngao còn rất nhiều món đồ sưu tầm kiểu như vậy. Anh sở hữu một đoàn đội với kinh nghiệm phong phú. Những thứ này đều được họ thu về từ khắp nơi trên thế giới, sau đó đút tiền cho những nhà bình luận, nhà giám định hoạt bát trên thị trường triển lãm vào một thời cơ thích hợp, thế là, chúng trở thành những sản phẩm nghệ thuật đáng sưu tầm, có một không gian thăng tiến vô hạn.

Tiền đầu tư vào sản phẩm nghệ thuật là một trong những nguồn thu nhập của Hoắc Liên Ngao.

Vì buổi triển lãm kéo dài sáu mươi phút vừa vui vẻ kết thúc, hai mươi mốt vật phẩm đã được các đại gia tới từ khắp nơi trên thế giới chia chác nhau.

Hoắc Liên Ngao không chỉ là người khởi xướng là buổi triển lãm, đồng thời cũng là chủ nhân của hộp đêm này. Hoắc Liên Ngao sở hữu sáu hộp đêm cao cấp có quy mô đạt tiêu chuẩn quốc tế, hai căn ở New York, hai căn ở Chicago, Las Vegas và Los Angeles mỗi nơi một căn. Sáu hộp đêm này có thể mang tới cho Hoắc Liên Ngao lợi nhuận xấp xỉ tám trăm triệu đô mỗi năm.

Theo thông lệ, sau khi buổi triển lãm kết thúc, Hoắc Liên Ngao sẽ mời những người này tới căn phòng mình chuẩn bị trước để giao lưu một bữa rượu tiệc. Lần này cũng không phải là ngoại lệ. Rõ ràng các khách mời rất hứng thú với lời mời của Hoắc Liên Ngao, ngược lại, Miêu Tiểu Cơ nãy giờ vẫn yên lặng ngồi bên cạnh anh lại có vẻ ủ dột.

Khi Hoắc Liên Ngao giành được tác phẩm tốt nghiệp của Miêu Tiểu Cơ với giá ba mươi ngàn đô, cô ấy không như vậy. Lúc đó, Miêu Tiểu Cơ còn đỏ bừng mặt vì phấn khích.

Điều khiến Miêu Tiểu Cơ không vui có lẽ là khi Hoắc Liên Ngao đùa cợt nói: “Ba năm sau, nó có thể kiếm về cho tôi năm mươi ngàn đô”.

Những người theo nghiệp nghệ thuật trước nay luôn thanh cao, Miêu Tiểu Cơ cũng vậy.

Dường như ý thức được mình đã khiến bạn gái không vui, Hoắc Liên Ngao nghiêng mặt hôn nhẹ lên tóc Miêu Tiểu Cơ. Lúc đó, Giản Liêu đang ở ngay phía sau.

“Tưởng anh bán tác phẩm của em đi thật sao?” Vì khoảng cách gần, Giản Liêu nghe rất rõ những lời thầm thì của Hoắc Liên Ngao.

Miêu Tiểu Cơ không nói gì.

“Ngốc ạ, đó rõ ràng là một lời ngợi khen và tin tưởng. ‘Anh tin tưởng em, em làm được’.” Anh dịu dàng lẩm nhẩm, câu nói cuối cùng nghe còn thánh thót.

Cho dù Giản Liêu không nhìn thấy biểu cảm của Hoắc Liên Ngao khi nói những lời này nhưng cũng có thể dễ dàng đoán ra, người đàn ông dịu dàng kia ánh mắt lúc này nhất định vẫn rất thản nhiên, không một gợn sóng, giống như mặt biển phẳng lặng mà ánh trăng đổ xuống, lạnh lẽo, hoa mỹ, xa xăm và hư ảo.

Nhưng, mấy cô gái đang chìm đắm trong ái tình, chẳng thể nào nhận ra những điều ấy.

“Thật ư?” Giọng nói khe khẽ, có chút mừng thầm, vui thầm.

“Đương nhiên!”

Thế là cơ thể nhỏ bé sát lại gần cơ thể cao gầy, dính rất chặt, có thể tưởng tượng được khuôn mặt Miêu Tiểu Cơ lúc này như đang nở hoa.

Đúng là một cô gái không giấu được tâm sự thầm kín…

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Khang Kiều PDF của tác giả Loan nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Trang Viên Mansfield (Jane Austen)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Trang Viên Mansfield PDF của tác giả Jane Austen nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Trang Trại Hoa Hồng (Đỗ Kim Cuông)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Trang Trại Hoa Hồng PDF của tác giả Đỗ Kim Cuông nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Trần Trụi Giữa Bầy Sói (Bruno Apitz)
Trần trụi giữa bầy sói là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai, được dịch ra hai mươi thứ tiếng và trở thành một sự kiện văn học. Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va ly cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xít sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Đây không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện đại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công.*** THƯ CỦA TÁC GIẢ GỬI ĐỘC GIẢ VIỆT NAM Cuốn sách của tôi kể lại cuộc đấu tranh của các tù nhân, trong trại tập trung Bukhânvan để cứu một đứa trẻ Ba Lan; đứa trẻ đó được đưa nào trong trại, bất chấp muôn ngàn nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuốn sách còn nhằm xa hơn nữa: nó muốn nói lên cái đẹp về tinh thần của con người bênh vực cho con người và làm nổi bật sự vĩ đại của con người. Nó muốn ca ngợi tình đồng chí giữa những con người của bao nhiêu dân tộc châu Âu đằng sau những hàng rào dây thép gai mắc điện cao thế - tình đồng chí có một không hai trong lịch sử. Cuốn sách cũng muốn kể lại sự chiến thắng của con người đối với bản tính thú vật của bọn phát xít. Hạt mầm của lòng bác ái mà hàng triệu con người khi chết xuống đã vùi theo họ trong mảnh đất đẫm máu ở Bukhânvan, ngày nay lại bùng nổ lên trong cuộc chiến đấu của các dân tộc chống kẻ thù, những kẻ mang thảm họa tới cho nhân loại. Tìm mua: Trần Trụi Giữa Bầy Sói TiKi Lazada Shopee Tôi chỉ là mật con người bình thường nên mục đích cuốn sách của tôi cũng bình thường: đó là Hòa bình và Hạnh phúc cho hết thảy mọi người. Đem dịch nó ra tiếng nước ngoài, cũng không cần phải có nghệ thuật lắm mới làm nổi, vì mọi người tất sẽ hiểu được nó.Berlin tháng 6 năm 1962 BRUNO APITZ *** TRẦN TRỤI GIỮA BẦY SÓI là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai. Xuất bản lần đầu tiên năm 1958 với 60 vạn cuốn ở Cộng hòa dân chủ Đức, cùng năm ấy tác phẩm này được Chính phủ Cộng hòa dân chủ Đức tặng giải thưởng Văn học Quốc gia, được tái bản liên tiếp ngay cả ở Tây Đức, được dịch ra hai mươi thứ tiếng rà trở thành một sự kiện văn học được nhiều người bàn đến ở châu Âu. Tác giả cuốn sách, Brunô Apitz (1900 - 1979), xuất thân từ một gia đình công nhân ở Laixich, một trung tâm công nghiệp lớn ở Đức. Con người ấy suốt đời là một chiến sĩ chống bọn gây chiến. Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, ông bị giam hai năm vì tuyên truyền hòa bình. Năm 1934 ông lại bị bọn Hítle bỏ tù vì hoạt động chống phát-xít. Ba năm sau ông là một trong những tù nhân đầu tiên bị bọn phát-xít đưa đến Bukhânvan[1] để xây dựng trại tập trung khổng lồ nhốt hàng vạn người. Ông đã ở đấy mãi cho đến khi Hồng quân đánh bại phát-xít Đức, và là một trong những tù nhân cuối cùng của địa ngục Bukhânvan. Phải có nước Cộng hòa dân chủ Đức, người công nhân đã hy sinh tất cả tuổi trẻ của mình trong các nhà tù ấy, mới thành một nhà văn. Ông viết báo, được cử làm chủ nhiệm một nhà hát của nước Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1950 ông làm biên tập cho hãng phim Đêfa và đã chuyển thể quyển tiểu thuyết này thành kịch bản để xây dựng thành phim. Từ mười mấy năm nay đã có rất nhiều tác phẩm viết về các trại tập trung của phát-xít Đức, nhưng không tác phẩm nào để lại cho độc giả ấn tượng mãnh liệt như Trần trụi giữa bầy sói. Điều đó có nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân chủ yếu là vì tác giả của quyển tiểu thuyết này là một chiến sĩ. Là một chiến sĩ nên đối với ông, Bukhânvan không phải chỉ có lò đốt xác, có boong-ke, trại giam, có tháp canh, hàng rào dây điện cao thế, có lũ phát-xít hoành hành bắn giết tra tấn và hàng vạn tù nhân đói khổ, đau ốm, chết chóc và nếu còn sống sót thì kiếp sống cũng chẳng hơn gì thú vật. Điều đó là hiển nhiên. Nhưng còn có điều quan trọng hơn, và là trung tâm sự chú ý của Brunô Apitz. Đó là sự vĩ đại của con người, tình đồng chí “có một không hai trong lịch sử” của hàng chục dân tộc. Con người ở đây “trần trụi” thực đấy, nhưng họ gắn bó với nhau, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đảng có mặt mọi nơi. Hơfen, một nhân vật trong chuyện, nói: “Nếu chúng mình sống sót ra khỏi nơi đây, tôi sẽ chịu trách nhiệm trước Đảng về việc ấy, anh có thể tin như vậy”. Thì Krêmơ nghiêm nghị nhìn vào mặt Hơfen: “Đảng ở ngay đây”. Đảng ở ngay đây, ở ngay Bukhânvan, đó mới là chủ đề của cuốn truyện, ở đây không phải chỉ có đàn sói mà còn có con người, tuy bên ngoài ai cũng như ai đều mặc áo tù kẻ sọc, nhưng bên trong, đó là những con người lớn, đoàn kết, kỷ luật, sáng suốt, kiên nhẫn, mạnh hơn cái chết. Nội dung Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va-li cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xit sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Thời gian trong Trần trụi giữa bầy sói là thời gian của một vở kịch. Tác giả miêu tả Bukhânvan trong những ngày cuối cùng của nó. Sự việc xảy ra trên dưới một tháng. Ở trang đầu là tháng ba năm 1945, quân Mỹ vượt qua sông Rainơ, biên giới Đức, ở quãng Rêmagân là Hồng quân ào ạt tiến vào đất Đức. Và cứ thể: Haau, Opênhaimơ, Katxen, Aidơnăc... rồi ngày 8 tháng 4 tới Ecfuôc, và cuối cùng quân đồng minh ở cách trại giam 12 cây số và cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Bukhânvan. vấn đề đối với trại Bukhânvan là làm sao theo dõi được tin tức bên ngoài và tìm cách giành giật từng giờ từng phút, vì tương lai thuộc về họ cho nên họ càng trì hoãn được phút nào là họ tiến gần đến thắng lợi phút ấy. Không khí do đó càng ngày càng nồng nặc mùi thuốc súng. Trong những giờ phút ấy, tất nhiên con người càng dễ lộ bản chất của mình. Bọn phát-xit càng điên cuồng, lồng lộn, tàn ác, tìm cái khoái trá trong việc tra tấn, kìm kẹp, bắn giết, nhưng lại càng hốt hoảng, nhớn nhác, tìm cách tháo thân. Đối lập với chúng, Đảng Cộng sản càng nêu cao tinh thần kỷ luật, kiên quyết, sáng suốt lợi dụng thời cơ, ráo riết chuẩn bị. Chính trong khoảng thời gian ấy, cơn lốc của cuộc sống lôi cuốn mọi sự việc diễn biến rất nhanh, khiến từng giờ từng phút phải đối phó, đặt kế hoạch, tranh cãi, quyết định. Người ta không còn thì giờ nghĩ đến quá khứ, không còn thì giờ để hồi tưởng, mơ màng. Toàn bộ tác phẩm chỉ có hai cảnh nhắc đến quá khứ, nhưng trong một trăm trang đầu đã có tới sáu mươi cảnh khác nhau, trong đó người ta phải vật lộn với những vấn đề trước mắt. Biến cố xảy ra dồn dập với tốc độ của tia chớp. Jankôpxki đưa đứa bé vào trại, Hơfen phát hiện, Pipich đem giấu, Rôsơ bắt gặp, Bôkhâu ra lệnh: nó phải ra khỏi trại, Hơfen băn khoăn… Thế rồi người giữ đứa bé lại, người tìm ra nó, người đem giấu nó... Biến cố này chưa hết, biến cố khác đã xảy tới, trong khi bên ngoài là máy bay oanh tạc ầm ầm, và xa hơn nữa, những đoàn quân đang rầm rộ tiến. Cuộc sống ở đây căng thẳng đến nỗi các đồng chí trong ủy ban quốc tế các trại tập trung (ILK) không nhớ đứa bé làm cả trại khốn đốn kia là con trai hay con gái nữa cũng như chúng ta dễ dàng quên rằng mụ Horten có cái bộ ngực núng nính là người đàn bà duy nhất trong truyện. Đọc Trần trụi giữa bầy sói, không ai có thể quên những con người bảo vệ danh dự cho dân tộc Đức, Hơfen, Suyp, Pipich, Krêmơ anh chàng Ba Lan Krôpinxki, và những người lãnh đạo ủy ban quốc tế các trại tập trung; Bôkhâu, Bôgoxki, Riômăng, Van Đalen, Kôđixec. Họ khác nhau về tính tình, có người nôn nóng, có người trầm lặng, có người bao giờ cũng bình tĩnh, có người vui vẻ, có người lạnh lùng. Nhưng tất cả đều mang trong người tình nhân đạo cao quý. Cái gì đã khiến Hơfen giữ đứa bé lại, cái gì bắt Krêmơ làm ngơ không kiểm soát công việc của Hơfen, cái gì làm Hơfen đau khổ hơn là bị tra tấn khủng khiếp, cái gì làm Pipich sung sướng khi sắp chết vì đã kịp thời giấu súng. Họ không phải không có khuyết điểm hưng họ vẫn là những hình ảnh đẹp vô cùng. Đó là bài ca về cái đẹp của con người. Càng về sau, tính chất anh hùng ca càng nổi bật. Nếu ở nửa đầu tác phẩm, chủ yếu là miêu tả tâm trạng của cá nhân, thì nữa sau dành cho việc miêu tả hành động của quần chúng. Quần chúng trì hoãn việc dời trại, quần chúng che giấu 46 “nạn nhân” của thần chết, quần chúng bảo vệ đứa bé khiến cho Kluttich tuy đứng trước mặt nó mà không dám làm gì, đành phải rút lui và cuối cùng quần chúng khởi nghĩa. Có thể nói ít người có được ngòi bút khách quan hơn Brunô Apitz trong việc miêu tả nhân vật và sự kiện. Khi nói đến bè lũ phát-xít, tác giả không có một nét nào là biếm họa. Ông cẩn thận cân nhắc trong việc miêu tả, chú ý đến dáng điệu, cử chỉ, thái độ của từng đứa, cũng với tất cả sự quan tâm như đối với những đồng chí của mình. Người ta thấy cái lưỡi thè lè của Xvailinh; cái vẻ lịch sự dịu dàng che giấu một sự đểu giả tàn ác của Rainơbôt, ngay trong lúc tra tấn tù nhân y vẫn còn giữ cái vẻ lịch sự mềm mại của những động tác thể thao; cái tên man rợ Mandrin chuyên việc tra tấn người, càng nốc rượu vào thì lại càng tàn ác và tìm thấy trong việc tra tấn một thú vui khủng khiếp. Tên Svan có cái cằm phình ra, hay đi quanh cái bàn giấy to tướng, mở miệng là nói giọng ngoại giao; tên Kluttich thô bạo mở miệng là đòi bắn giết v.v... Ngay trong ngôn ngữ tác giả cũng để cho chúng biểu hiện được rõ cá tính của chúng. Người ta thấy đằng sau thái độ khách quan ấy là cái nhìn rất sáu sắc của một người đã sống một phần lớn đời mình trong việc theo dõi những kẻ thù của nước Đức và của thế giới. Ngay đối với các bạn, tác giả cũng vẫn giữ cái nhìn nghiêm khắc khách quan ấy. Brunô Apitz không gượng nhẹ họ, nếu trong óc họ nẩy ra những ý nghĩ khủng khiểp... Để cho Bôkhâu nghĩ đến cái chết của Hơfen và Hơfen nghĩ đến việc mình khó lòng chịu đựng được cảnh tra tấn nữa, để cho những con người nhân đạo nhất trên đời phải thốt lên: “Tại sao đứa bé kia không chết quách đi cho rồi”, tác giả làm người ta liên tưởng đến bút pháp của Secxpia, vị thầy của nghệ thuật. Người ta khó lòng khắt khe đối với những con cưng của mình hơn Apitz, nhưng kết quả sẽ không phải là làm giảm giá trị nhân vật. Trái lại, từ đó sẽ toát lên cái người ta thường gọi là lôgic khách quan của cuộc sống, tất yếu khách quan của hoàn cảnh và càng làm nổi bật cái tất yếu khách quan ấy thì cái thực, cái giả mới xuất hiện rõ, cũng như vàng, thau, chỉ có thể phân biệt bằng lửa chứ không thể đoán bằng mắt. Cuộc sống những ngày cuối cùng ở Bukhânvan tự bản thân nó là lửa. Cho nên đã xuất hiện thứ vàng cao nhất. Đã xuất hiện: chàng thợ xếp chữ Pipích, có đôi chân khuỳnh khuỳnh, nhỏ bé nhưng đến lúc hiểu sự thật thì anh dũng tuyệt vời; Krêmơ với đôi vai rộng đủ sức che chở cho toàn trại, với đầu óc sáng suốt, thần kinh tốt đến nỗi không còn có sự đe dọa, lừa bịp, không một biến cố nào vật ngã nổi; Bôgoxki với nụ cười vui vẻ, cười trong những lúc khó khăn nhất, Bôkhâu, con người của nguyên tắc, của tổ chức, nhưng nặng nề khối óc mà nhẹ về trái tim; Pribula sôi nổi, nôn nóng, luôn luôn đòi bạo động; Hơfen, con người xứng dáng với lời khen đẹp nhất của Bôgoxki: “Nghi ngờ Hơfen hóa ra nghi ngờ mình sao?”, “Chúng ta phải khỏe như Hơfen” v.v... Đặc biệt, trong tác phẩm đã xuất hiện cả một khối quần chúng vĩ đại, với trực giác được rèn luyện lâu dài trong những năm tù tội, với lòng tin sắt đá vào tổ chức, vào Đảng, ngay khi đứng trước cái chết cũng vẫn là một đội quân vô cùng anh dũng. Chính nhờ bút pháp khách quan ấy đã giúp cho tác giả tận dụng được vốn sống dồi dào của mình và vẽ lên được, tuy chỉ một mảnh của Bukhânvan thôi, nhưng một mảnh nóng hổi sức sống như trái tim của con người. Đối với văn hoc hiện tại, Trần trụi giữa bầy sói không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện tại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công. Trong nhóm chúng tôi, một người đã được nhìn thấy tận mắt Bukhânvan năm 1956. Trại tập trung Bukhânvan hiện nay đã được cải tạo thành một khu lưu niệm trưng bày những vết tích cũ. Từ những lò đốt xác cho đến những mớ tóc, những mảnh quần áo của tù nhân còn được giữ lại, từ những hàng rào thép gai đến những căn hầm đào dưới đất để trốn tránh, tất cả đều gợi lên cảnh của địa ngục trần gian, mà lịch sử loài người cho đến đại chiến thứ hai chưa từng được chứng kiến. Nếu như mỗi hòn đất, mỗi ngọn cỏ nơi đây có thể nói lên được, chúng sẽ kể lại không biết bao nhiêu thảm cảnh khó tưởng tượng; nhưng cuốn sách này của tác giả, theo chúng tôi nghĩ, đã có thể xứng đáng thay mặt cho những vật lưu niệm kia mà tố cáo trước loài người tiến bộ những hành vô cùng dã man của bọn phát-xít, nhắc nhở cho những người còn sống thêm cảnh giác trước những âm mưu thâm độc của bọn khát máu, đồng thời cũng là một bản anh hùng ca nói lên tinh thần bất khuất của tất cả các tù nhân, không kể là thuộc dân tộc nào, đấu tranh giành lấy quyền sống của con người, và sau cùng nói lên vai trò không thể thiếu của Đảng, của giai cấp công nhân, giai cấp tổ chức và lãnh đạo mọi cuộc đấu tranh để giành lấy quyền sống thiêng liêng ấy. Những người dịchĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Trần Trụi Giữa Bầy Sói PDF của tác giả Bruno Apitz nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Trần Trụi Giữa Bầy Sói (Bruno Apitz)
Trần trụi giữa bầy sói là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai, được dịch ra hai mươi thứ tiếng và trở thành một sự kiện văn học. Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va ly cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xít sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Đây không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện đại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công.*** THƯ CỦA TÁC GIẢ GỬI ĐỘC GIẢ VIỆT NAM Cuốn sách của tôi kể lại cuộc đấu tranh của các tù nhân, trong trại tập trung Bukhânvan để cứu một đứa trẻ Ba Lan; đứa trẻ đó được đưa nào trong trại, bất chấp muôn ngàn nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuốn sách còn nhằm xa hơn nữa: nó muốn nói lên cái đẹp về tinh thần của con người bênh vực cho con người và làm nổi bật sự vĩ đại của con người. Nó muốn ca ngợi tình đồng chí giữa những con người của bao nhiêu dân tộc châu Âu đằng sau những hàng rào dây thép gai mắc điện cao thế - tình đồng chí có một không hai trong lịch sử. Cuốn sách cũng muốn kể lại sự chiến thắng của con người đối với bản tính thú vật của bọn phát xít. Hạt mầm của lòng bác ái mà hàng triệu con người khi chết xuống đã vùi theo họ trong mảnh đất đẫm máu ở Bukhânvan, ngày nay lại bùng nổ lên trong cuộc chiến đấu của các dân tộc chống kẻ thù, những kẻ mang thảm họa tới cho nhân loại. Tìm mua: Trần Trụi Giữa Bầy Sói TiKi Lazada Shopee Tôi chỉ là mật con người bình thường nên mục đích cuốn sách của tôi cũng bình thường: đó là Hòa bình và Hạnh phúc cho hết thảy mọi người. Đem dịch nó ra tiếng nước ngoài, cũng không cần phải có nghệ thuật lắm mới làm nổi, vì mọi người tất sẽ hiểu được nó.Berlin tháng 6 năm 1962 BRUNO APITZ *** TRẦN TRỤI GIỮA BẦY SÓI là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai. Xuất bản lần đầu tiên năm 1958 với 60 vạn cuốn ở Cộng hòa dân chủ Đức, cùng năm ấy tác phẩm này được Chính phủ Cộng hòa dân chủ Đức tặng giải thưởng Văn học Quốc gia, được tái bản liên tiếp ngay cả ở Tây Đức, được dịch ra hai mươi thứ tiếng rà trở thành một sự kiện văn học được nhiều người bàn đến ở châu Âu. Tác giả cuốn sách, Brunô Apitz (1900 - 1979), xuất thân từ một gia đình công nhân ở Laixich, một trung tâm công nghiệp lớn ở Đức. Con người ấy suốt đời là một chiến sĩ chống bọn gây chiến. Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, ông bị giam hai năm vì tuyên truyền hòa bình. Năm 1934 ông lại bị bọn Hítle bỏ tù vì hoạt động chống phát-xít. Ba năm sau ông là một trong những tù nhân đầu tiên bị bọn phát-xít đưa đến Bukhânvan[1] để xây dựng trại tập trung khổng lồ nhốt hàng vạn người. Ông đã ở đấy mãi cho đến khi Hồng quân đánh bại phát-xít Đức, và là một trong những tù nhân cuối cùng của địa ngục Bukhânvan. Phải có nước Cộng hòa dân chủ Đức, người công nhân đã hy sinh tất cả tuổi trẻ của mình trong các nhà tù ấy, mới thành một nhà văn. Ông viết báo, được cử làm chủ nhiệm một nhà hát của nước Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1950 ông làm biên tập cho hãng phim Đêfa và đã chuyển thể quyển tiểu thuyết này thành kịch bản để xây dựng thành phim. Từ mười mấy năm nay đã có rất nhiều tác phẩm viết về các trại tập trung của phát-xít Đức, nhưng không tác phẩm nào để lại cho độc giả ấn tượng mãnh liệt như Trần trụi giữa bầy sói. Điều đó có nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân chủ yếu là vì tác giả của quyển tiểu thuyết này là một chiến sĩ. Là một chiến sĩ nên đối với ông, Bukhânvan không phải chỉ có lò đốt xác, có boong-ke, trại giam, có tháp canh, hàng rào dây điện cao thế, có lũ phát-xít hoành hành bắn giết tra tấn và hàng vạn tù nhân đói khổ, đau ốm, chết chóc và nếu còn sống sót thì kiếp sống cũng chẳng hơn gì thú vật. Điều đó là hiển nhiên. Nhưng còn có điều quan trọng hơn, và là trung tâm sự chú ý của Brunô Apitz. Đó là sự vĩ đại của con người, tình đồng chí “có một không hai trong lịch sử” của hàng chục dân tộc. Con người ở đây “trần trụi” thực đấy, nhưng họ gắn bó với nhau, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đảng có mặt mọi nơi. Hơfen, một nhân vật trong chuyện, nói: “Nếu chúng mình sống sót ra khỏi nơi đây, tôi sẽ chịu trách nhiệm trước Đảng về việc ấy, anh có thể tin như vậy”. Thì Krêmơ nghiêm nghị nhìn vào mặt Hơfen: “Đảng ở ngay đây”. Đảng ở ngay đây, ở ngay Bukhânvan, đó mới là chủ đề của cuốn truyện, ở đây không phải chỉ có đàn sói mà còn có con người, tuy bên ngoài ai cũng như ai đều mặc áo tù kẻ sọc, nhưng bên trong, đó là những con người lớn, đoàn kết, kỷ luật, sáng suốt, kiên nhẫn, mạnh hơn cái chết. Nội dung Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va-li cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xit sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Thời gian trong Trần trụi giữa bầy sói là thời gian của một vở kịch. Tác giả miêu tả Bukhânvan trong những ngày cuối cùng của nó. Sự việc xảy ra trên dưới một tháng. Ở trang đầu là tháng ba năm 1945, quân Mỹ vượt qua sông Rainơ, biên giới Đức, ở quãng Rêmagân là Hồng quân ào ạt tiến vào đất Đức. Và cứ thể: Haau, Opênhaimơ, Katxen, Aidơnăc... rồi ngày 8 tháng 4 tới Ecfuôc, và cuối cùng quân đồng minh ở cách trại giam 12 cây số và cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Bukhânvan. vấn đề đối với trại Bukhânvan là làm sao theo dõi được tin tức bên ngoài và tìm cách giành giật từng giờ từng phút, vì tương lai thuộc về họ cho nên họ càng trì hoãn được phút nào là họ tiến gần đến thắng lợi phút ấy. Không khí do đó càng ngày càng nồng nặc mùi thuốc súng. Trong những giờ phút ấy, tất nhiên con người càng dễ lộ bản chất của mình. Bọn phát-xit càng điên cuồng, lồng lộn, tàn ác, tìm cái khoái trá trong việc tra tấn, kìm kẹp, bắn giết, nhưng lại càng hốt hoảng, nhớn nhác, tìm cách tháo thân. Đối lập với chúng, Đảng Cộng sản càng nêu cao tinh thần kỷ luật, kiên quyết, sáng suốt lợi dụng thời cơ, ráo riết chuẩn bị. Chính trong khoảng thời gian ấy, cơn lốc của cuộc sống lôi cuốn mọi sự việc diễn biến rất nhanh, khiến từng giờ từng phút phải đối phó, đặt kế hoạch, tranh cãi, quyết định. Người ta không còn thì giờ nghĩ đến quá khứ, không còn thì giờ để hồi tưởng, mơ màng. Toàn bộ tác phẩm chỉ có hai cảnh nhắc đến quá khứ, nhưng trong một trăm trang đầu đã có tới sáu mươi cảnh khác nhau, trong đó người ta phải vật lộn với những vấn đề trước mắt. Biến cố xảy ra dồn dập với tốc độ của tia chớp. Jankôpxki đưa đứa bé vào trại, Hơfen phát hiện, Pipich đem giấu, Rôsơ bắt gặp, Bôkhâu ra lệnh: nó phải ra khỏi trại, Hơfen băn khoăn… Thế rồi người giữ đứa bé lại, người tìm ra nó, người đem giấu nó... Biến cố này chưa hết, biến cố khác đã xảy tới, trong khi bên ngoài là máy bay oanh tạc ầm ầm, và xa hơn nữa, những đoàn quân đang rầm rộ tiến. Cuộc sống ở đây căng thẳng đến nỗi các đồng chí trong ủy ban quốc tế các trại tập trung (ILK) không nhớ đứa bé làm cả trại khốn đốn kia là con trai hay con gái nữa cũng như chúng ta dễ dàng quên rằng mụ Horten có cái bộ ngực núng nính là người đàn bà duy nhất trong truyện. Đọc Trần trụi giữa bầy sói, không ai có thể quên những con người bảo vệ danh dự cho dân tộc Đức, Hơfen, Suyp, Pipich, Krêmơ anh chàng Ba Lan Krôpinxki, và những người lãnh đạo ủy ban quốc tế các trại tập trung; Bôkhâu, Bôgoxki, Riômăng, Van Đalen, Kôđixec. Họ khác nhau về tính tình, có người nôn nóng, có người trầm lặng, có người bao giờ cũng bình tĩnh, có người vui vẻ, có người lạnh lùng. Nhưng tất cả đều mang trong người tình nhân đạo cao quý. Cái gì đã khiến Hơfen giữ đứa bé lại, cái gì bắt Krêmơ làm ngơ không kiểm soát công việc của Hơfen, cái gì làm Hơfen đau khổ hơn là bị tra tấn khủng khiếp, cái gì làm Pipich sung sướng khi sắp chết vì đã kịp thời giấu súng. Họ không phải không có khuyết điểm hưng họ vẫn là những hình ảnh đẹp vô cùng. Đó là bài ca về cái đẹp của con người. Càng về sau, tính chất anh hùng ca càng nổi bật. Nếu ở nửa đầu tác phẩm, chủ yếu là miêu tả tâm trạng của cá nhân, thì nữa sau dành cho việc miêu tả hành động của quần chúng. Quần chúng trì hoãn việc dời trại, quần chúng che giấu 46 “nạn nhân” của thần chết, quần chúng bảo vệ đứa bé khiến cho Kluttich tuy đứng trước mặt nó mà không dám làm gì, đành phải rút lui và cuối cùng quần chúng khởi nghĩa. Có thể nói ít người có được ngòi bút khách quan hơn Brunô Apitz trong việc miêu tả nhân vật và sự kiện. Khi nói đến bè lũ phát-xít, tác giả không có một nét nào là biếm họa. Ông cẩn thận cân nhắc trong việc miêu tả, chú ý đến dáng điệu, cử chỉ, thái độ của từng đứa, cũng với tất cả sự quan tâm như đối với những đồng chí của mình. Người ta thấy cái lưỡi thè lè của Xvailinh; cái vẻ lịch sự dịu dàng che giấu một sự đểu giả tàn ác của Rainơbôt, ngay trong lúc tra tấn tù nhân y vẫn còn giữ cái vẻ lịch sự mềm mại của những động tác thể thao; cái tên man rợ Mandrin chuyên việc tra tấn người, càng nốc rượu vào thì lại càng tàn ác và tìm thấy trong việc tra tấn một thú vui khủng khiếp. Tên Svan có cái cằm phình ra, hay đi quanh cái bàn giấy to tướng, mở miệng là nói giọng ngoại giao; tên Kluttich thô bạo mở miệng là đòi bắn giết v.v... Ngay trong ngôn ngữ tác giả cũng để cho chúng biểu hiện được rõ cá tính của chúng. Người ta thấy đằng sau thái độ khách quan ấy là cái nhìn rất sáu sắc của một người đã sống một phần lớn đời mình trong việc theo dõi những kẻ thù của nước Đức và của thế giới. Ngay đối với các bạn, tác giả cũng vẫn giữ cái nhìn nghiêm khắc khách quan ấy. Brunô Apitz không gượng nhẹ họ, nếu trong óc họ nẩy ra những ý nghĩ khủng khiểp... Để cho Bôkhâu nghĩ đến cái chết của Hơfen và Hơfen nghĩ đến việc mình khó lòng chịu đựng được cảnh tra tấn nữa, để cho những con người nhân đạo nhất trên đời phải thốt lên: “Tại sao đứa bé kia không chết quách đi cho rồi”, tác giả làm người ta liên tưởng đến bút pháp của Secxpia, vị thầy của nghệ thuật. Người ta khó lòng khắt khe đối với những con cưng của mình hơn Apitz, nhưng kết quả sẽ không phải là làm giảm giá trị nhân vật. Trái lại, từ đó sẽ toát lên cái người ta thường gọi là lôgic khách quan của cuộc sống, tất yếu khách quan của hoàn cảnh và càng làm nổi bật cái tất yếu khách quan ấy thì cái thực, cái giả mới xuất hiện rõ, cũng như vàng, thau, chỉ có thể phân biệt bằng lửa chứ không thể đoán bằng mắt. Cuộc sống những ngày cuối cùng ở Bukhânvan tự bản thân nó là lửa. Cho nên đã xuất hiện thứ vàng cao nhất. Đã xuất hiện: chàng thợ xếp chữ Pipích, có đôi chân khuỳnh khuỳnh, nhỏ bé nhưng đến lúc hiểu sự thật thì anh dũng tuyệt vời; Krêmơ với đôi vai rộng đủ sức che chở cho toàn trại, với đầu óc sáng suốt, thần kinh tốt đến nỗi không còn có sự đe dọa, lừa bịp, không một biến cố nào vật ngã nổi; Bôgoxki với nụ cười vui vẻ, cười trong những lúc khó khăn nhất, Bôkhâu, con người của nguyên tắc, của tổ chức, nhưng nặng nề khối óc mà nhẹ về trái tim; Pribula sôi nổi, nôn nóng, luôn luôn đòi bạo động; Hơfen, con người xứng dáng với lời khen đẹp nhất của Bôgoxki: “Nghi ngờ Hơfen hóa ra nghi ngờ mình sao?”, “Chúng ta phải khỏe như Hơfen” v.v... Đặc biệt, trong tác phẩm đã xuất hiện cả một khối quần chúng vĩ đại, với trực giác được rèn luyện lâu dài trong những năm tù tội, với lòng tin sắt đá vào tổ chức, vào Đảng, ngay khi đứng trước cái chết cũng vẫn là một đội quân vô cùng anh dũng. Chính nhờ bút pháp khách quan ấy đã giúp cho tác giả tận dụng được vốn sống dồi dào của mình và vẽ lên được, tuy chỉ một mảnh của Bukhânvan thôi, nhưng một mảnh nóng hổi sức sống như trái tim của con người. Đối với văn hoc hiện tại, Trần trụi giữa bầy sói không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện tại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công. Trong nhóm chúng tôi, một người đã được nhìn thấy tận mắt Bukhânvan năm 1956. Trại tập trung Bukhânvan hiện nay đã được cải tạo thành một khu lưu niệm trưng bày những vết tích cũ. Từ những lò đốt xác cho đến những mớ tóc, những mảnh quần áo của tù nhân còn được giữ lại, từ những hàng rào thép gai đến những căn hầm đào dưới đất để trốn tránh, tất cả đều gợi lên cảnh của địa ngục trần gian, mà lịch sử loài người cho đến đại chiến thứ hai chưa từng được chứng kiến. Nếu như mỗi hòn đất, mỗi ngọn cỏ nơi đây có thể nói lên được, chúng sẽ kể lại không biết bao nhiêu thảm cảnh khó tưởng tượng; nhưng cuốn sách này của tác giả, theo chúng tôi nghĩ, đã có thể xứng đáng thay mặt cho những vật lưu niệm kia mà tố cáo trước loài người tiến bộ những hành vô cùng dã man của bọn phát-xít, nhắc nhở cho những người còn sống thêm cảnh giác trước những âm mưu thâm độc của bọn khát máu, đồng thời cũng là một bản anh hùng ca nói lên tinh thần bất khuất của tất cả các tù nhân, không kể là thuộc dân tộc nào, đấu tranh giành lấy quyền sống của con người, và sau cùng nói lên vai trò không thể thiếu của Đảng, của giai cấp công nhân, giai cấp tổ chức và lãnh đạo mọi cuộc đấu tranh để giành lấy quyền sống thiêng liêng ấy. Những người dịchĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Trần Trụi Giữa Bầy Sói PDF của tác giả Bruno Apitz nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.