Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đông Lai Bác Nghị - Dương Tấn Tươi

Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy ! Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng : vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên ; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận. Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách ! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện ! Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên. Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây » ! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương : « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ». Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận : « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ». Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc. * Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu. Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi : « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi ? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận : « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên ! » Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo ? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì : « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn ; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý ! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt – tốt và xấu, thanh với tục – của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu ! Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn. Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc : « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến ? » Cụ giảng : « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ : Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích. « Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả ! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách ? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. » * Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài. Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình. Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài. Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học. * Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba. Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ : « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ». Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó … * Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được ? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó. Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch). Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ : bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu : « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ». Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời » ? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu ? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng ? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó ? Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết : « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. » Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị ? Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo : quên TÊN và VIỆC. Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách. Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em. Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép : « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. » Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép : « Thiệt đến ». Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên : « Kỷ đến triều ». Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi : « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. » Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép : « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. » Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước. Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống – công tử Ấn và Đãng Ý-Chư – Xuân-Thu chép : « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ». Như câu : « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết. Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý. Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường : được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó : phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời. * Thiếu một chữ là chê bai, không chép một việc là trách phạt, thật là cực kỳ tinh khéo ! Nhưng chỉ khéo đối với những độc-giả thông lịch-sử Trung-Hoa thời Đông-Chu ; còn với những người khác, không thấy chép, tưởng không có chuyện, thì sự thưởng phạt sẽ vô hiệu quả. Vì vậy bộ Xuân-Thu cần có chú-giải. Chính là Tả-Truyện, một quyển sử đi song song với kinh Xuân-Thu do ngọn bút cứng rắn của Tả Khâu-Minh chép. Nơi đây, cần mở một dấu ngoặc để bàn về tên của nhà sử trứ-danh ấy. (Có nhiều học-giả – trong số ấy có thầy của chúng tôi – đọc là : Tả kỳ Minh. Vậy nên theo phần đông đọc Khâu hoặc Khưu hay theo các cụ mà đọc là Kỳ ? Sự chinh lịch nầy do tục cữ tên mà sanh ra. Số là khi có tên Khâu hay Ni (tức Khổng-Khâu, Trọng-Ni, tên của Đức Phu-Tử), hoặc Kha (tức Mạnh-Kha tên của thầy Mạnh) thì sách nho đều ghi ba chữ « nên đọc Mỗ » thành ra Khổng-Mỗ, Trọng-Mỗ và Mạnh-Mỗ. Lâu ngày – theo lời của ông Nhượng-Tống – bản in mòn đi, chữ Mỗ mất hết một nét sổ nên thành chữ Kỳ. Bọn hậu-sanh chúng tôi không phải thiếu lòng thành kính thánh hiền, nhưng thấy cần đọc cho đúng, mà chắc các đấng Phu tử, Mạnh tử, và các cụ cũng đã tha thứ khi chúng tôi đọc đến Ni và Kha. Vì vậy, từ đây nên đọc là Tả Khâu-Minh và đóng lại dấu ngoặc.) Có phải vì đứng gần cụ Khổng, một cây cổ-thọ của văn hóa Trung Hoa nên bị tàn che bóng lấp mà thân thế của Tả Khâu-Minh bị vùi mất trong biển thời gian chăng ? Chỉ còn nhớ là vị quan coi về sử của nước Lỗ noi theo ý chí của Phu tử chép lại những chuyện của kinh Xuân-Thu. Vi Khổng-tử cân nhắc ngòi bút để thưởng phạt như một vì thiên tử, nên được gọi là « Tố vương » – nhà vua không ngôi – và vì đó Tả Khâu-Minh được gọi là « Tố thần ». Nhiệm vụ của tử gia ấy là theo mỗi câu Xuân-Thu để kể chuyện. Và tất nhiên nhắc lại những đoạn không có chép trong kinh, để tỏ sự biếm nhẽ của Phu tử. Theo lối viết sử ngày xưa, mỗi bài đều có luân lý, ở đây là « lời bàn của người quân tử ». Chúng ta chớ lầm tưởng vì là quyển truyện cho nên kể lể dông dài như… bài tựa nầy. Trái lại, vừa đẽo gọt vừa cân nhắc nên câu văn trở nên gọn gàng và cứng rắn. Như tả Lỗ Trang-công đi cùng Tào Uế đánh Tề ở Trường câu : « Ngồi chung xe đến Trường-câu. Trang-công sắp ra lịnh đánh trống thúc quân. Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Chờ quân Tề xong ba hồi trống. Tào Uế bảo : « Đến lúc ! » Thua to, quân Tề chạy. Trang công sắp ra lịnh đuổi theo, Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Xuống, xem dấu xe của Tề, trở lên đứng trông lại. Bảo : « Đến lúc ! « mới có lịnh đuổi theo. Toàn thắng. » Như khi Khuất Hà đánh trận Bồ-tao, vì hoài nghi, hỏi Đấu Liêm : « – Sao không bói thử ? - Bói là để quyết điều nghi. Không nghi cần gì bói ! Rồi đem quân đánh thắng Viên, chiếm Bồ tao, minh hội xong, kéo về. » Câu văn có khi trở nên trục trặc, gút mắt vì bị bóp chặt hay thâu quá ngắn « Cho đánh trống. Tiến quân. Toàn thắng. Tiêu diệt hạ Nhược Ngao ». Trong nhiều đoạn, Tả-Truyện chỉ ghi lại vài cử chỉ mà cũng vẽ được một tâm lý phức tạp của nhân vật. Muốn tả lòng căm tức và chí gấp báo thù của vua Sở khi được tin Thân Vô-Uý bị Tống giết, Tả-Truyện chép : « Vua Sở hay, giũ áo đứng lên, đi chơn vào thất. Vào đến cung, giày đem tới. Ra cửa cung, gươm dưng tới. Đến chợ Bồ tiêu, xa giá đẩy tới. Mùa thu, tháng chín, Sở vây kinh thành Tống. » Dùng câu văn tuy vắn mà sâu để thuật lại những mẩu chuyện tuy đơn sơ mà đầy ý nghĩa có thể làm gương đáng theo hay nên tránh cho muôn đời, Tả-Truyện thành một áng văn tuyệt tác, chẳng những được văn nhân sùng bái mà còn được võ tướng kỉnh mộ. Chính những tay cung kiếm lại mắc phải « bịnh Tả-Truyện », là vì đi đến đâu, trong hổ trướng hay khi điều khiển ở trận tiền đều giữ cận bên mình quyển sử của Khâu-Minh. Nhìn nhận giá trị của văn Tả-Truyện là nhìn nhận sự khó dịch của bộ sử đó. Vì diễn tả một tư tưởng của người bằng tiếng của mình, việc đó còn có thể làm được. Còn chuyển dịch một câu văn hay từ tiếng nầy qua tiếng nọ thật là một chuyện quá khó. * Lẽ tất nhiên, muốn dịch hai quyển Xuân-Thu và Tả-Truyện, chúng tôi hoàn toàn nhờ nơi Cụ. Từng chữ, từng lời. Cụ kiên tâm giải thích rồi chịu khó kiểm duyệt. Khi nghe các bạn khuyên tôi xuất bản, thản nhiên, Cụ dạy : « Tùy nơi anh ! Nếu thấy có thể giúp ích được thì cứ tự tiện. Còn tôi chỉ là người của thế hệ trước. Đã qua rồi. Theo thế hệ đó, muốn đọc sách thánh hiền cần phải thông Hán học mới trọn hiểu tinh thần. Anh chớ quên : theo chúng tôi, Hán-văn là sự cần thiết, không thể không ; còn phiên dịch là sự bất đắc dĩ… Anh cũng nên nhớ giùm tánh tôi ưa thanh tịnh, ít ham đời nói đến tên… » Lời nhắc nhở ấy – đối với chúng tôi – là một mạng lịnh. Vì sự yêu cầu đó mới có lời phân trần lè nhè nầy. Chớ đâu phải vì chúng tôi. Nào có muốn phô trương thằng tôi khả ố nầy làm gì cho rườm tai độc giả ! Vì công lớn của cụ trong sự phiên dịch ; Vì sự giúp đỡ của các bạn : trước là ông Trương Quan cho sách, sau là các bạn Đỗ-Thiếu-Lăng giúp tài liệu, bạn Nguyễn-Duy-Cần cho xem vài bài Đông-Lai đã dịch từ lâu. Nhứt là anh Lê-Thọ-Xuân, cặn kẽ lúc chỉ bảo, tận tình khi sửa chữa, tỉ mỉ trong ấn loát. Một người « Anh » với nghĩa tốt đẹp của danh từ ; Vì sự lương thiện của trí óc trong khi trước tác ; Vì sự thành thật đối với mình, với đời, với nền văn học ; Chúng tôi trân trọng xin đọc giả nhận rõ điều nầy : Khi gặp những câu dịch gọn gàng, ăn khớp với nguyên văn, bạn nên nhớ đó là công, đó là tài của Cụ, thầy chúng tôi ; Khi thấy câu văn bất thành cú, khi gặp những lỗi lầm, chỗ dịch sai, bạn nên chắc chắn là vì sự dốt nát của DƯƠNG-TẤN-TƯƠI Mời các bạn đón đọc Đông Lai Bác Nghị của bác sĩ Dương Tấn Tươi.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Học Cách Mỉm Cười
H ọc cách mỉm cười – quả đúng như vậy, gấp trang sách lại tôi thấy mình đang mỉm cười. Cảm giác như tôi vừa có một buổi cà phê chuyện trò rất thân tình và ấm áp với tác giả Nguyễn Hoàng Ánh. Trong cuốn sách chị đề cập đến mọi khía cạnh của cuộc sống: từ tuổi mới biết yêu, chập chững vào đời tới hôn nhân, gia đình, con cái, ngoại tình, ly hôn, định kiến xã hội và các mối quan hệ trong công việc. Vấn đề nào chị cũng phân tích rất tỉ mỉ, không kém phần sắc sảo xen lẫn hài hước khiến tôi hoàn toàn bị thuyết phục. Cuốn sách này quả là một món quà quý cho các bạn trẻ thời nay khi có quá nhiều nỗi băn khoăn lo lắng trước các ngã rẽ của cuộc đời. Cuốn sách không phải được viết ra bởi một giảng viên đại học, nó được viết ra từ trái tim và tấm lòng của một người mẹ, người chị khá hiện đại với những góc nhìn mới mẻ đôi khi đi ngược lại với những định kiến xưa cũ. Sự thông minh, thẳng thắn, chân tình và ấm áp là những gì tôi cảm nhận được xuyên suốt cuốn sách. Và nó đã khiến tôi mỉm cười tin rằng cuốn sách sẽ truyền cảm hứng mạnh mẽ tới người đọc và chắc chắn nó sẽ giúp các bạn trẻ nhìn nhận rõ con đường mình sẽ đi. TÂM PHAN Sydney 18/5/2017 *** Lý do để yêu...!? For my daughter and her friends! Con gái yêu của mẹ! T hời gian trôi thật nhanh, thấm thoắt con đã 18 tuổi. Mới ngày nào con còn là em bé nhỏ xíu, sinh ra có 3,05 cân. So với thành tích của bà ngoại: sinh mẹ là con đầu lòng nặng 3,5 cân, cậu con là 3,8 cân, còn cô Út là 4,05 cân – ôôôôôôô!!!), thì mẹ con mình quả là khiêm tốn. Con là con đầu lòng của bố mẹ nên dù còn rất khó khăn nhưng tình cảm bố mẹ dành cho con thì không lời nào nói hết. Con có lẽ cũng cảm nhận được điều đó nên ngay từ đầu đã ra sức “bắt nạt” bố mẹ. Con khó ăn, khó ngủ, không theo ai cả trừ mẹ ra nhưng bố mẹ không một lời than phiền. Lúc ấy cuộc sống chưa bận rộn lắm nên bố mẹ có nhiều thì giờ dành cho con, điều mà em con không có được. Mẹ cứ ngồi ngắm con hàng giờ không biết chán. Còn bố con thì mỗi điều con muốn đều là mệnh lệnh, làm mẹ phát bực vì “phản sư phạm”quá. Cũng may, con khỏe mạnh, cứng cáp và nhanh nhẹn. Hồi đó, bố con hay đi công tác nên chủ yếu chỉ có hai mẹ con mình sống với nhau. Đã bao lần mẹ nhìn con mà tự nhủ: “Nhờ có con mẹ mới vượt qua được bao khó khăn, buồn khổ của cuộc đời để bước tiếp. Mong hai mẹ con mình sẽ bên nhau suốt đời.” Rồi con lớn lên, dần trở thành người trợ giúp cho mẹ trong nội trợ, chăm sóc em,... Con và mẹ còn cùng sẻ chia niềm đam mê với âm nhạc, văn học. Mẹ vẫn hi vọng chúng ta sẽ luôn bên nhau, là bạn của nhau suốt đời. Vẫn biết cuộc đời bên ngoài nhiều gió mưa bão tố, nhưng mẹ vẫn mong đôi cánh nhỏ nhoi của mẹ sẽ che chở cho con được dài lâu. Mẹ đã rèn giũa để con tự lập được, nhưng bản năng người mẹ trong mẹ lại không ngừng bao bọc con. Song chúng ta không cưỡng lại được quy luật của cuộc sống. Con giờ đã 18 tuổi, lớn bổng thành một thiếu nữ. Nhìn con xúng xính trong tấm áo dài, xỏ chân vào đôi giày cao gót – quà tặng của bố mẹ nhân ngày con tốt nghiệp phổ thông – mẹ biết là con đã không còn chỉ muốn nằm trong vòng tay mẹ nữa. Con đã biết mong chờ lời khen từ nhiều người bạn khác giới, và rồi từ một người đặc biệt nào đó. Con biết yêu! Cũng từng là thiếu nữ, mẹ hiểu sự diệu kỳ cũng như khó khăn của quãng thời gian ấy và cảm xúc ấy, nhưng thật khó để truyền đạt lại cho con. Tuổi trẻ luôn đầy kiêu hãnh và cũng đầy tự ái, tuổi trẻ cũng cho rằng mình có con đường của riêng mình. Làm sao để làm con tin rằng những gì con cảm nhận bây giờ, trước con và sau con, triệu triệu cô gái đều cảm thấy. Nhưng số những người tìm được hạnh phúc từ cái gọi là cảm xúc “yêu” ấy lại vô cùng ít ỏi. Có muôn vàn những xúc cảm mong manh khiến người ta khởi sự “yêu” một người, chẳng hạn như: #1 Tự dưng thấy “thinh thích” khi “người ấy” nhìn mình. #2 Tự dưng đỏ mặt khi bắt gặp ánh mắt người ấy. #3 Tự dưng tim đập dồn dập vì một cử chỉ quan tâm. #4 Tự dưng thấy nhơ nhớ khi không gặp “người ta”. #5 Trước mặt người ta bỗng muốn chải chuốt điệu đàng, không còn ăn mặc, nói năng thoải mái như trước nữa. #6 Khi bước vào cả lớp học đầy người nhưng lại thấy vô cùng trống trải khi “người ta” không có ở đấy! #7 Lắm khi, vì một lý do rất “chuối củ” là “chúng nó” có đôi hết rồi mà mình thì “một mình”! #8 Vì “đối tượng” đẹp trai (bây giờ có vẻ quá phổ biến). #9 Bên “người ta” mình tự dưng thấy như bay bổng vậy, hạnh phúc vô cùng. #10 Tổng kết lại, “chỉ vì mình đã lớn”, như bài thơ của Nguyễn Bính đã nói hộ tâm tình:   “Năm xưa em bé tuổi mười ba Em được mẹ yêu quý nhất nhà Sống giữa tình thương thơ mộng quá Tháng ngày mê mẩn bướm cùng hoa   Em ngoan ngoãn lắm, rất vâng lời Thỉnh thoảng chỉ hay hờn mát thôi Mẹ cười âu yếm: “Sau khôn lớn Đi lấy chồng rồi dỗi với ai?”   Em ghét từ lâu chuyện lấy chồng Một mình có phải nhẹ nhàng không? Tha hồ thơ thẩn, tha hồ rảnh Chẳng phải vì ai đợi - chờ - mong   Không biết làm sao phải lấy chồng? Dại gì đi ở với đàn ông Xa mẹ xa cha, thôi em chịu Không lấy chồng đâu, nhất định không...   Năm nay em đã lớn khôn rồi Mái tóc chùng buông chấm quá vai Ửng chín dậy thì trên má lúm Nụ cười duyên dáng dưới đôi môi   Nghĩ chuyện năm xưa lại nực cười Em ngây thơ quá chẳng bằng ai Khóc cười giận dỗi vô duyên thế Có biết gì đâu - nũng nịu hoài   Em ghét từ lâu chuyện lấy chồng Một mình có phải nhẹ mình không Tha hồ thơ thẩn, tha hồ rảnh Không khổ vì ai, chẳng nhớ nhung   Cứ sống cô đơn thế khỏi phiền Chiếu dài giường rộng chẳng ai chen Không, em nhất định, không đâu nhé Em hứa rằng không đấy, đợi xem   Soi gương bỗng thấy tóc em dài Vương vương rủ xuống rối bên vai Hững hờ lấy lược ra toan gỡ Nhưng gỡ làm chi - đẹp với ai   Đã bảo rằng em thích độc thân Mà lòng riêng vẫn cứ bâng khuâng Ô hay! Lạ quá làm sao thế Rõ ghét ông trời đến oái oăm...” (Bài thơ Không biết làm sao phải lấy chồng) Nói cho cùng, theo bài thơ ấy thì con gái mẹ bây giờ đã lớn lắm rồi. Các con may mắn hơn thời xưa, được tự do yêu đương trước khi lấy chồng. Nhưng tình yêu cũng là một chuyến hành trình đầy gian nan và rủi ro. Vì vậy, mẹ mong rằng trước khi bước vào chuyến đi hệ trọng ấy, con và các bạn con hãy dừng lại đôi chút, nghĩ xem “Vì sao mình lại muốn yêu người ấy?” Ở tuổi các con, chuyện tình cảm còn mang nhiều yếu tố cảm tính. Mà tình yêu lại là hành trình một chiều, khi con đã bắt đầu bước chân lên chuyến hành trình ấy thì sẽ không bao giờ quay lại điểm khởi đầu được nữa. “Tình yêu đầu tiên – Trò chơi cuối cùng”. Đừng để trò chơi ấy lấy đi sự vô tư, trong trẻo của con nếu con không chắc về tình cảm của cả hai bên. Hãy nghĩ xem, người bạn trai của con và cả con nữa, có thể dành cho nhau những tình cảm giống như câu chuyện dưới đây không: Một cô gái hỏi bạn trai của mình: - Tại sao anh yêu em? - Sao em lại hỏi như thế, sao anh tìm được lý do chứ! - Chàng trai trả lời. - Không có lý do gì tức là anh không yêu em. - Em không thể suy diễn như thế được. - Nhưng bạn trai của bạn em luôn cho cô ấy biết lý do anh ta yêu cô ấy. - Thôi được, anh yêu em vì em xinh đẹp, giỏi giang, nhanh nhẹn. Anh yêu em vì nụ cười của em, vì em lạc quan. Anh yêu em vì em luôn quan tâm đến người khác. Cô gái cảm thấy rất hài lòng. Vài tuần sau cô gặp phải một tai nạn khủng khiếp, nhưng rất may cô vẫn còn sống. Bỗng nhiên cô trở nên cáu kỉnh vì cô thấy mình vô dụng. Vài ngày sau khi bình phục, cô nhận được lá thư từ bạn trai của mình: “Chào em yêu! Anh yêu em vì em xinh đẹp. Thế thì với vết sẹo trên mặt em bây giờ anh không thể yêu em được nữa. Anh yêu em vì em giỏi giang, nhưng bây giờ em có làm được gì đâu. Vậy thì anh không thể yêu em. Anh yêu em vì em nhanh nhẹn, nhưng thực tế là em đang ngồi trên xe lăn. Đây không phải lý do giúp anh có thể yêu em. Anh yêu em vì nụ cười của em. Bây giờ anh không thể yêu em nữa vì em lúc nào cũng cau có, than vãn. Anh yêu em vì em quan tâm đến người khác, nhưng bây giờ mọi người lại phải quan tâm đến em quá nhiều. Anh không nên yêu em nữa. Đấy, em chẳng có gì khiến anh phải yêu em, vậy mà anh vẫn yêu em. Em có cần lý do nào nữa không, em yêu?!” 1 1 Truyện sưu tầm Internet. Cô gái bật khóc, và chắc chắn cô không cần một lý do nào nữa. Còn các bạn có bao giờ hỏi những người thân của mình vì sao họ yêu bạn không? Tình yêu đôi khi không nhất thiết phải cần lý do đâu bạn ạ! Đúng, tình yêu không cần lý do. Nó chỉ cần tình cảm và sự hi sinh cho nhau, cần trách nhiệm và cam kết với nhau, cùng vô vàn điều khác nữa mà người ta chỉ có được khi đã trưởng thành. Vì vậy, mẹ không cấm cản khi các con có những “vấn vương”, nhưng mong các con hãy giữ đúng giới hạn để tình cảm và cả cuộc sống của các con được tươi vui, trong trẻo như nó đáng có. Nhớ rằng: “Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái, Hoa nồng hương mà trái lắm khi chua.”2 2 Trích từ bài thơ của nhà thơ Tôn Nữ Thu Hồng (1922-1948) được giới thiệu trong “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh - Hoài Chân, Đinh Tị và Nxb Văn học, 2013. Chúc con và các bạn cùng lứa tuổi có được một tuổi trẻ vui tươi và một tình yêu đẹp! Mời các bạn đón đọc Học Cách Mỉm Cười của tác giả Nguyễn Hoàng Ánh.
Hành Trình Tới Thành Công
CÙNG JOHN C. MAXWELL CHINH PHỤC THÀNH CÔNG J ohn C. Maxwell là một guru, một diễn giả bậc thầy đồng thời là một tác giả nổi tiếng chuyên viết về nghệ thuật lãnh đạo với hơn 16 triệu bản sách bán ra trên toàn thế giới. Cùng với công ty INJOY và EQUIP của mình, John C. Maxwell đã đào tạo cho trên hai triệu nhà lãnh đạo trên toàn thế giới. Hàng năm, ông được mời tới nói chuyện tại các công ty hàng đầu trong danh sách Fortune 500, với nhiều nhà lãnh đạo chính phủ trên thế giới và những tổ chức như Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point. Là một trong 25 tác giả và nghệ sĩ nổi tiếng nhất trên website sách trực tuyến nổi tiếng Amazon.com, các sách của John C. Maxwell được đánh giá rất cao và liên tục xếp trong danh sách best-seller của các tạp chí hàng đầu thế giới như: New York Times, Wall Street Journal, Business Week,… Các cuốn sách của ông đã được dịch và bán hơn 16 triệu bản tại nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, sau thành công của một số cuốn sách như: Phát triển kỹ năng lãnh đạo (Developing the Leader Within You), 21 nguyên tắc vàng của nghệ thuật lãnh đạo (21 Irrefutable Laws of Leadership), Nhà lãnh đạo 3600 (3600 Leader), Tinh hoa lãnh đạo (Leadership Gold)..., Alpha Books tiếp tục xuất bản và giới thiệu đến bạn đọc các cuốn sách giá trị khác của ông. Trong các cuốn sách này, John Maxwell chia sẻ thêm với độc giả những bí quyết để không ngừng hoàn thiện bản thân và tiến triển trên con đường trở thành nhà lãnh đạo xuất sắc. Để đạt được điều này, bạn không chỉ cần phong thái lãnh đạo, năng lực chuyên môn mà còn phải thấu hiểu nghệ thuật thu hút và khiến mọi người muốn đi theo (Thuật đắc nhân tâm). Khát vọng hướng tới thành công của mỗi người không thể thực hiện nếu thiếu lòng kiên trì, xác định đúng mục tiêu và mang theo hành trang cần thiết, bởi vì, mỗi thành công chính là một cuộc hành trình (Hành trình tới thành công). Và khi đã tập hợp được mọi người quanh mình, đặt rõ mục tiêu rồi thì một yếu tố không thể thiếu trong thành công của một nhà lãnh đạo chính là khả năng làm việc nhóm (17 nguyên tắc vàng trong làm việc nhóm). Với vai trò là Trung tâm phát triển đào tạo quản lý, ITD Việt Nam tin tưởng rằng tác phẩm và tư tưởng của ông sẽ giúp các nhà lãnh đạo quản lý nói riêng và mọi người nói chung hoàn thiện và thành công hơn. Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả. ITD Việt Nam và Alpha Books *** T ôi nhận thấy hầu hết mọi người đều thụ động trước những gì xảy ra trong cuộc sống. Chỉ rất ít người tự quyết định được những điều diễn ra trong cuộc sống của bản thân. Chỉ duy trì cuộc sống thôi thì chưa đủ. Trong cuốn sách này, John C. Maxwell sẽ chia sẻ với chúng ta một số kinh nghiệm hữu ích để có thể tác động nhiều hơn tới cuộc sống thay vì để cuộc sống trôi qua vô vị. Ngoài những công việc quan trọng và đầy cảm hứng, John Maxwell đã làm việc trong nhà thờ một quãng thời gian đủ để nhận thấy rằng có rất nhiều người đang tìm kiếm một bản kế hoạch chi tiết để thành công trong cuộc sống. Trong những trang sách tiếp theo, chúng ta sẽ được thấy sự hiểu biết sâu sắc và uyên thâm của nhà lãnh đạo tài ba này. Trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng The Accidental Tourist (Vị khách tình cờ) tác giả Anne Tyler đã kể về một cặp vợ chồng có con trai duy nhất bị sát hại. Sự kiện này đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của hai vợ chồng họ, khiến họ càng ngày càng trở nên xa cách. Cuối cùng, họ đã phải ly hôn. Người vợ đã vô cùng tức giận và nói với chồng: “Suốt cuộc đời mình, anh chỉ là một kẻ buông xuôi.” Người chồng lặng im trong giây lát và nhẹ nhàng đáp lại, dường như là cho chính mình hơn là cho người vợ: “Tôi không buông xuôi. Tôi chỉ là kẻ cam chịu.” Chúng tôi nhận thấy có rất nhiều người cũng có cảm nhận như thế về cuộc sống. Những gì trong cuốn sách này chính là bản kế hoạch chi tiết cho cuộc hành trình tìm kiếm thành công của chính tác giả. Những kế hoạch của John được trình bày rõ ràng và tạo cảm hứng cho bạn trong quá trình thực hiện ước mơ của mình. Tôi tin rằng sức mạnh lớn nhất trên thế giới này chính là sức mạnh của tư tưởng. Nếu ước mơ của bạn được Chúa trời ban cho, bạn chỉ cần sử dụng sức mạnh huyền bí của nó là có thể chinh phục được những mục tiêu khó khăn. John Maxwell sẽ chỉ cho chúng ta thấy cách thức để thực hiện được điều đó. Trước hết, phải thấy được ước mơ, mục đích sống và các mục tiêu của mình. Sau đó, bạn sẽ trưởng thành cùng ước mơ đó và khai thác tối đa tiềm năng của mình. Trong quá trình đó, hãy tác động tích cực tới cuộc sống của người khác, những người sẽ bắt đầu khám phá ra sức mạnh của ước mơ và những kế hoạch chi tiết để đi đến thành công trong cuộc sống. Tôi tin, với cuốn sách chứa đựng tâm huyết của một mục sư vĩ đại, bạn sẽ có được những bước ngoặt trong cuộc đời, những bước ngoặt sẽ mở ra cho bạn con đường đi tới thành công. Đó sẽ là những bước ngoặt giúp bạn thoát khỏi sự yếu đuối để trở nên lạc quan và chiến thắng. Nó sẽ giúp bạn đi từ thành công này tới thành công khác, thậm chí sẽ đạt tới những thành quả cao hơn mức bạn từng mong đợi. Những nguyên tắc cho cuộc hành trình tìm kiếm thành công đều ở đây. Hãy đọc, hãy tin và hãy áp dụng chúng, bạn sẽ thấy được sự hiệu quả của những nguyên tắc đó. ROBERT H. SCHULLER Nhà thờ lớn Crystal, Garden Grove, California *** John C. Maxwell là nhà sáng lập của Tập đoàn INJOY, một tổ chức giúp mọi người phát huy tối đa tố chất cá nhân và tiềm năng lãnh đạo. Ông là tác giả của một loạt cuốn sách nằm trong danh sách bán chạy của New York Times, cũng là sách bán chạy trên bảng xếp hạng của Business Week. Các tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Hành Trình Tới Thành Công Tôi Tư Duy Tôi Thành Đạt Phát Triển Kỹ Năng Lãnh Đạo 21 Nguyên Tắc Vàng Của Nghệ Thuật Lãnh Đạo 21 Phẩm Chất Vàng Của Nhà Lãnh Đạo Nhà Lãnh Đạo 360° Lãnh Đạo Giỏi Hỏi Câu Hỏi Hay 15 Nguyên Tắc Vàng Về Phát Triển Bản Thân 101 Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Mối Quan Hệ 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Lãnh Đạo 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Tự Phát Triển 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Cố Vấn 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Thành Công 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Làm Việc Nhóm 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Thái Độ 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Trang Bị 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Cuốn Sách Nhỏ Cho Nhà Lãnh Đạo Lớn Nghệ Thuật Kết Nối Đỉnh Cao Trong Giao Tiếp Thuật Đắc Nhân Tâm 17 Nguyên Tắc Vàng Trong Làm Việc Nhóm Dám Ước Mơ, Biết Thực Hiện Nhà Lãnh Đạo Giỏi Giải Quyết Vấn Đề Như Thế Nào? Để Trở Thành Nhà Lãnh Đạo Quần Chúng Xuất Sắc Kỹ Năng Lãnh Đạo ... Mời các bạn đón đọc Hành Trình Tới Thành Công của tác giả John C. Maxwell.
Chiến Thắng Nỗi Lo Và Sự Căng Thẳng
T ất cả chúng ta không ai là không lo lắng. Nhiều nỗi lo chỉ kéo dài trong chốc lát và tan biến mà không cần nhiều nỗ lực để gạt bỏ chúng đi. Nhưng khi nỗi lo cứ dai dẳng, nó có thể cướp đi mất sinh lực, sự nhiệt thành, nguồn năng lượng và đưa chúng ta tới chỗ suy sụp về tinh thần và thể chất. Các bác sĩ đã chỉ ra rằng lo lắng mãn tính là tác nhân đứng đằng sau nhiều căn bệnh, chẳng hạn như hen suyễn, dị ứng, tim mạch, huyết áp cao và nhiều thứ bệnh tật khác không thể kể hết. Tâm trí lo lắng khiến ta bối rối, mất tập trung và suy nghĩ vu vơ về nhiều thứ không có thực. Chúng ta có thể đẩy lùi nỗi lo bằng cách rèn luyện tâm trí mình tập trung vào sự hài hòa, sự an bình, nét đẹp, hành động đúng đắn, tình yêu thương và sự cảm thông – thông qua việc thay thế những suy nghĩ tiêu cực bằng những suy nghĩ có ích. Nỗi lo lấy đi ánh sáng trong cuộc đời của chúng ta. Cách duy nhất để vượt qua bóng tối là bật đèn lên. Ánh sáng làm tan biến bóng tối tương tự như ánh dương làm tan biến màn sương mù. Khi bị vây bọc bởi nỗi lo, tất cả những gì chúng ta có thể làm là bật chiếc đèn trong chính tâm trí mình. Chúng ta phải tự nhắc nhở bản thân rằng mình có đủ sức mạnh để vượt qua những vấn đề mà mình đang lo lắng. Chúng ta phải tái khẳng định niềm tin vào bản thân. Chúng ta phải học cách tháo tung những nỗi lo, đặt chúng dưới ánh sáng của lý trí, mổ xẻ chúng và chia chúng ra thành từng mảnh nhỏ rồi tự hỏi: “Chúng có thực không? Chúng từ đâu đến? Nỗi lo này có sức mạnh không? Có nguyên tắc nào đằng sau chúng không?”. Chúng ta phải xử lý chúng bằng những suy nghĩ dựa trên lý trí. Cách này sẽ chia nhỏ những nỗi lo ra và giúp chúng ta nhận biết rằng chúng chỉ là những khoảng tối trong tâm trí mình, không thực và chỉ là ảo tưởng. Không thực, chỉ là những khoảng tối trong tâm trí. Bóng tối không có sức mạnh; vì nỗi lo là bóng tối trong tâm trí của mình nên nó cũng không có sức mạnh, không theo nguyên tắc, và đằng sau nó cũng không chứa đựng sự thật nào. Chẳng vì lẽ gì mà người ta phát lo vì cái bóng tối không có thực đó. Chúng ta phải thay những nỗi lo bằng những suy nghĩ tích cực và lặp đi lặp lại những suy nghĩ đó cho tới khi tâm trí nắm bắt được sự thật, từ đó giải phóng chúng ta và giúp chúng ta tiến lên. Nó đòi hỏi một chút công sức, nhưng chúng ta có thể làm được. Chúng ta phải quyết tâm làm điều này. Chúng ta phải tự nhủ: “Mình sẽ chiến thắng nó. Mình sẽ đối mặt với nó. Nó là bóng tối trong tâm trí mình, và mình sẽ không cho nó sức mạnh”. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ xem xét nhiều thứ khiến chúng ta lo lắng. Chúng ta sẽ xem xét những nỗi lo phát sinh trong đời sống hàng ngày và trong công việc của mình. Chúng ta sẽ thảo luận về cách giải quyết căng thẳng, cách phòng tránh suy kiệt, cách phát triển và duy trì thái độ tích cực để từ đó giúp thay thế nỗi lo bằng những suy nghĩ và hành động khẳng định. Để tận dụng được tối đa lợi ích từ cuốn sách này, trước hết, hãy đọc toàn bộ các chương để hiểu được khái niệm chung về giải quyết nỗi lo và sự căng thẳng… Sau đó hãy đọc lại từng chương và bắt đầu áp dụng những nguyên tắc hướng dẫn để thành công trong từng lĩnh vực được nêu ra trong đó. Chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn tránh khỏi những nỗi lo, nhưng chúng ta có thể giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực của nó, biến lo lắng thành hành động tích cực, giúp chúng ta sống hạnh phúc hơn, có đời sống phong phú hơn. Tiến sĩ Arthur R. Pell *** Tủ Sách Thành Công Của Dale Carnegie gồm có: 10 Bước Để Có Cuộc Sống Trọn Vẹn Thay Đổi Để Thành Công Chiến Thắng Nỗi Lo Và Sự Căng Thẳng ... *** Dale Breckenridge Carnegie (24 tháng 11 năm 1888 – 1 tháng 11 năm 1955) là một nhà văn và nhà thuyết trình Mỹ và là người phát triển các lớp tự giáo dục, nghệ thuật bán hàng, huấn luyện đoàn thể, nói trước công chúng và các kỹ năng giao tiếp giữa mọi người. Ra đời trong cảnh nghèo đói tại một trang trại ở Missouri, ông là tác giả cuốn Đắc Nhân Tâm, được xuất bản lần đầu năm 1936, một cuốn sách thuộc hàng bán chạy nhất và được biết đến nhiều nhất cho đến tận ngày nay. Ông cũng viết một cuốn tiểu sử Abraham Lincoln, với tựa đề Lincoln con người chưa biết, và nhiều cuốn sách khác. Carnegie là một trong những người đầu tiên đề xuất cái ngày nay được gọi là đảm đương trách nhiệm, dù nó chỉ được đề cập tỉ mỉ trong tác phẩm viết của ông. Một trong những ý tưởng chủ chốt trong những cuốn sách của ông là có thể thay đổi thái độ của người khác khi thay đổi sự đối xử của ta với họ. Các tác phẩm của Dale Carnegie: 40 Gương Thành Công Đắc Nhân Tâm 90 Giây để thu hút bất kỳ ai Quẳng Gánh Lo Đi và Vui Sống Bằng Hữu Chi Giao 10 Bước Để Có Cuộc Sống Trọn Vẹn Thay Đổi Để Thành Công Chiến Thắng Nỗi Lo Và Sự Căng Thẳng ... Mời các bạn đón đọc Chiến Thắng Nỗi Lo Và Sự Căng Thẳng của tác giả Dale Carnegie.
Cẩm Nang Chọn Nghề
“T rường hợp của anh là hiếm lắm,” Mark, bạn tôi, đã nói thế khi tôi đưa ra quyết định quan trọng nhất cuộc đời mình – bỏ việc để theo nghiệp viết lách. Ngày cuối cùng đi làm vô tình cũng là ngày sinh nhật lần thứ 30, một cột mốc mang nhiều ý nghĩa. Nhưng thật ra, bản thân ngày đó không quan trọng bằng quá trình đã dẫn tôi đến ngày này. Nếu ai đó hỏi tôi làm thế nào có được ngày hôm nay, tôi thật sự không biết trả lời sao cho rõ ràng. Trải nghiệm tìm ra tiếng gọi vừa bí ẩn vừa thực tiễn. Bạn vất vả gắng sức, nhưng đôi khi lại cảm giác nó tự nhiên mà đến. Giờ đây, tôi đã nhận ra việc đi tìm mục tiêu của cuộc đời giống như đặt chân lên một chuyến hành trình hơn là theo đuổi một kế hoạch: Bạn sẽ gặp những ngã rẽ và khúc cua bất ngờ. Dĩ nhiên, những bất ngờ này rồi cũng đưa bạn đến với định mệnh của mình. Và đích đến hóa ra chỉ mới là một đoạn đường trong chuyến hành trình dài. Cuốn sách này sẽ giúp bạn hình dung được chặng đường phải đi, cũng như từng bước bạn phải thực hiện nhằm tiến về phía trước. Mọi người có vẻ đều đang đi tìm lẽ sống để thỏa mãn những khát khao sâu thẳm trong tâm hồn. Tôi tin rằng họ đang đi tìm tiếng gọi. Vậy tiếng gọi là gì? Tôi dùng từ “tiếng gọi” theo nghĩa sự nghiệp, thiên hướng, công việc của cuộc đời, hay nói đơn giản hơn, tiếng gọi là lý do cho sự xuất hiện của bạn trên đời này. Khi mới bắt tay vào dự án này, tôi cứ nghĩ mình đã nắm rõ quá trình theo đuổi ước mơ, nhưng hóa ra tôi còn khám phá được nhiều điều bất ngờ. Đi tìm tiếng gọi hóa ra không hề đơn giản. Chặng đường này ở mỗi người đều khác nhau, dù cũng có những chủ đề chung. Nếu xem xét kỹ các chủ đề chung này, ta có thể xác định bộ khung định hướng để hiểu hơn về thiên hướng nghề nghiệp. Trường hợp của tôi có thực sự hiếm gặp không? Giả sử ai cũng có tiếng gọi của mình thì sẽ thế nào? Đó chính là câu hỏi thôi thúc tôi đi trên hành trình này. Những nhân vật xuất hiện trong cuốn sách này, do tôi đích thân phỏng vấn, đều không phải người phi thường, vì hẳn bạn đã nghe nhiều chuyện tương tự. Họ không phải là nhân vật thành công điển hình, tôi chọn họ vì có mục đích. Qua những câu chuyện có vẻ bình thường này, tôi nghĩ chúng ta có thể hiểu rõ hơn về chính mình. Sẽ có độc giả cảm thấy thất vọng vì cuốn sách không được khách quan. Nhưng cuộc đời là thế, nó đâu phải là dự án nghiên cứu hay bản tóm tắt nội dung sách mà đòi hỏi phải khách quan. Cuộc đời là những câu chuyện cảm xúc, và qua từng trải nghiệm, ta nhìn ra sự thật có thể đã bị bỏ qua. Tôi hy vọng những câu chuyện này sẽ chạm đến bạn nhiều hơn so với những dữ liệu khô khan, và từ đó, bạn sẽ thay đổi. Cẩm nang chọn nghề không phải là cuốn sách tôi định viết, mà là cuốn sách tôi phải viết. Tiếng gọi là thế: Bạn không hề dự tính, nhưng các nút thắt, ngã rẽ dẫn dắt kết nối mọi thứ, đưa bạn đến với kết quả cần đến. Quá trình viết cuốn sách này đã góp phần giúp tôi thấu hiểu lẽ sống và thiên hướng, và tôi hy vọng bạn cũng nhận được giá trị tương đương. *** Giới thiệu Ung thư cũng không ngăn được vận động viên ba môn phối hợp Nhiều người được gọi, nhưng ít người được chọn. — Matthew 22:14 S ứ mệnh nghề nghiệp không hẳn là kế hoạch có tính toán. Thường thì nó được vớt vát khi kế hoạch đổ bể. Một buổi tối tháng 6 năm 2000, Eric Miller đã trốn họp ở công ty để đi xem cậu con trai chơi bóng gậy. Trong trận đấu, ông và vợ là Nancy để ý thấy cậu con trai Garrett bé bỏng không thể giữ thăng bằng và đánh trúng bóng. Hai vợ chồng lo ngại, dẫn con đi khám bác sĩ, và ngay lập tức bác sĩ chỉ định đưa cậu bé đi chụp CT. Khi hai vợ chồng được mời vào đợi trong phòng tư vấn, nơi vẫn thường được gọi là “căn phòng yên lặng”, Eric thoáng hiểu có chuyện chẳng lành. Là một y tá, ông hiểu rõ chức năng của căn phòng này. Đây là nơi người ta được mời đến để nhận hung tin. Lúc đó là 6 giờ tối.1 Đến 11 giờ 30 phút, Garrett được chỉ định nhập viện tại Bệnh viện Nhi đồng ở Denver, Colorado, và được đưa ngay vào phòng phẫu thuật. Sáng hôm sau, ngày 24/6, một khối u to bằng quả bóng golf đã được lấy ra khỏi não phía sau gáy của cậu bé. Cậu bé được chẩn đoán mắc bệnh u nguyên bào tủy* – một cụm từ mà Eric cho rằng con nít không nên biết.2 Sau cuộc phẫu thuật, Garrett bị mất thị lực, không nói được và bị liệt. Garrett giờ đây phải đeo máy thở, và học lại cách đi đứng, cách phát âm, học cách tự đi vệ sinh, tất cả làm lại từ đầu. Ngay cả nếu có phép màu giúp cậu bé làm lại được mọi thứ, cậu cũng chỉ có 50% cơ hội sống được thêm năm năm nữa. * U nguyên bào tủy là khối u ác tính, hay gặp nhất trong các khối u sọ não ở trẻ em. U xuất hiện ở tiểu não, là vùng kiểm soát thăng bằng và một số chức năng vận động phức tạp. (BTV) Gia đình Miller chỉ còn biết ngồi đếm từng ngày được sống bên cạnh cậu con trai bé bỏng của mình. Trong một buổi điều trị ung thư, Eric ngồi nhìn con mà nghĩ đến sự nghiệt ngã của thời gian đang trôi qua, cuộc đời của cậu bé đang ngắn dần theo từng ngày. Đứng trước những khó khăn cậu bé phải chống chọi, đứng trước những lo lắng về căn bệnh, ông chợt nhận ra một điều. Một ý tưởng mới. Là người làm trong ngành y tế, “nơi chiếc đồng hồ đếm thời gian cuộc sống có thể dừng chạy bất cứ lúc nào,” Eric chợt nhận ra bấy lâu nay mình đã sai. Không phải chỉ cuộc đời của Garrett có thể kết thúc bất cứ lúc nào, mà toàn bộ cuộc đời của mọi người trong nhà cũng thế. Không có gì chắc chắn về việc những người trong nhà sẽ sống lâu hơn Garrett. “Chúng ta cần phải sống trọn vẹn từng phút giây,” Eric nói với tôi. “Vì không ai trong chúng ta dám chắc mình còn sống sau một hay hai giờ nữa.” Với thời gian còn lại, cả gia đình Miller quan tâm đến việc sống trọn vẹn hết mình. Sau khi Garrett rời khỏi phòng chăm sóc đặc biệt và không còn phải đeo máy thở, Eric tự hỏi không biết trên đời này có ai thấu hiểu cảm giác của ông. Ngồi một mình bên khung cửa sổ trong bệnh viện, ông lặng lẽ cầu nguyện có thể tìm ra câu trả lời cho nỗi tuyệt vọng đang tàn phá chút hy vọng còn sót lại của gia đình.3 Cũng trong thời gian này, ông được biết câu chuyện về Matt King, một kỹ sư IBM đồng thời là vận động viên xe đạp đôi mất thị lực nổi tiếng thế giới.4 Mùa thu năm đó, Eric dẫn con trai đến gặp Matt King nhân một sự kiện xe đạp tổ chức gần nhà, và Garrett được ngồi lên chiếc đạp xe đôi, nắm chặt ghi đông, cảm nhận bàn đạp dưới chân mình. Đó hẳn là lúc “lóe sáng” ý tưởng trong đầu Garrett. Cậu bé quyết định sẽ đạp xe trở lại, và từ đây bắt đầu chuyến hành trình không chỉ thay đổi cuộc đời chính mình mà còn tác động đến cuộc đời của nhiều người khác, dù ngay lúc đó cậu bé và cha đều không thể hình dung hết. Vài tháng sau, Garrett nói với mẹ rằng cậu muốn thử đạp xe. Mẹ cậu không dám tin, nhưng cậu rất quyết tâm. Lúc đó, mắt cậu cũng đã nhìn được phần nào, và cậu đã đi lại chập chững dù còn khó khăn. Với sự giúp đỡ của mẹ, Garrett trèo lên chiếc xe đạp ngày trước và bắt đầu nhấn bàn đạp. Thoạt đầu, bà còn chạy theo khi cậu loạng choạng đạp để giúp cậu giữ thăng bằng. Nhưng chẳng mấy chốc đôi chân cậu đã đạp nhanh hơn, bà không thể chạy theo kịp chiếc xe, và cậu được tận hưởng dù chỉ một khoảnh khắc cảm giác tự do như trước khi bị căn bệnh ung thư hành hạ. Cùng hôm đó, cha cậu mang về nhà một chiếc xe đạp đôi mới toanh để hai cha con cùng nhau đạp xe. Sáu tháng sau, ngày 24 tháng 6 năm 2001, sau một năm hóa trị và xạ trị, cậu bé Garrett sáu tuổi đã cán đích cuộc thi ba môn phối hợp lần đầu tiên. Cha cậu chạy theo phía sau, đẩy chiếc xe lăn. Hôm đó cũng là dịp kỷ niệm một năm ca mổ định mệnh.5 Đối với cặp cha con đã phải trải qua bao trắc trở, cuộc đua là cách họ tuyên bố với thế giới, cũng như với bản thân, rằng họ sẽ không để một khối u ngăn trở mình sống cuộc đời trọn vẹn, tận hưởng mọi khoảnh khắc cuộc sống. Nhờ vào các phương pháp điều trị, Garrett giờ đây có 90% cơ hội sống. Và đó là câu chuyện cách đây 14 năm. Từ sau ca mổ suýt biến cậu thành người tàn tật hơn chục năm trước, Garrett đã cùng cha tham gia thi đấu hàng chục cuộc đua ba môn phối hợp, thậm chí cậu còn từng thi đấu một mình. Thị lực của cậu dù không hồi phục hoàn toàn, nhưng cũng giúp cậu nhìn đồ vật một cách lờ mờ dựa trên hình dáng của chúng. Dù bị xếp vào nhóm khiếm thị, nhưng cậu đã làm được những việc mà trước kia bác sĩ cho rằng không thể. Nói không ngoa, Garrett là một phép màu sống. *** Cuốn sách này không kể về những phép màu. Đây là cuốn sách về cách tìm ra tiếng gọi trong sự nghiệp, cách phát hiện tài năng thiên bẩm của bạn. Tiếng gọi chính là điều mà bạn không thể không làm, là câu trả lời cho câu hỏi ngàn đời, “Tôi phải làm gì với cuộc đời mình đây?” Trên kệ sách có những cuốn cẩm nang hướng dẫn bạn đi tìm công việc mơ ước, hay trở thành chuyên gia trong một lĩnh vực nhất định – nhưng không phải là cuốn sách này. Cẩm nang chọn nghề tập trung vào thiên hướng. Trong sách, tôi sẽ đề cập đến cách hiểu tiếng gọi không chỉ đơn thuần là công việc. Thông qua câu chuyện của những người quanh ta, tôi sẽ chỉ cho bạn thấy thật sai lầm khi coi tiếng gọi như một công việc. Con đường đưa ta đến với công việc ý nghĩa không phải lúc nào cũng là một kế hoạch chủ động. Đôi khi con đường dẫn ta đến mục đích sống của đời mình lại thật rối rắm, và chính cách chúng ta phản ứng mới thật sự quan trọng hơn bản thân tình huống đó. Mỗi chương là mỗi câu chuyện khác nhau, thể hiện một khái niệm chủ đạo, một trong bảy giai đoạn của tiếng gọi. Dù khác nhau, nhưng chúng đều có một điểm tương đồng: mỗi người theo cách riêng của họ đều bị bất ngờ trước tình huống xảy đến. Và tôi nghĩ, những câu chuyện dạng này giờ đây ít được nhắc đến, dù chúng có thể góp phần giúp ta hiểu hơn về con đường sự nghiệp. Chẳng phải ta đã học được nhiều điều từ câu chuyện về cậu bé năm tuổi chiến đấu với bệnh ung thư não để trở thành vận động viên ba môn phối hợp sao? Trong 18 năm, Garrett Rush-Miller đã hoàn thành cuộc đua bán-Ironman**, leo lên khu tàn tích Machu Picchu, và đạt cấp độ Hướng đạo Đại bàng. Những lúc không đi học hay không bận làm việc tại phòng tập leo núi, anh lại dành thời gian tham gia tình nguyện với Wounded Warriors, một tổ chức từ thiện chuyên hỗ trợ cựu chiến binh. Vào thời điểm tôi viết cuốn sách này, anh đang chuẩn bị tốt nghiệp phổ thông và trên hết là muốn tìm bạn gái. ** Ironman là cuộc thi ba môn phối hợp nổi tiếng thế giới với chuỗi đường đua dài mà các vận động viên phải thực hiện trong một ngày và không có khoảng nghỉ giữa các môn đua. (BTV) Sau khi nhận được e-mail của Eric đính kèm một số bài báo viết về con trai ông, tôi đã ngay lập tức gọi điện cho họ. Khi trực tiếp trao đổi với cả hai trong giờ nghỉ trưa của Garrett, tôi rất ngạc nhiên trước tinh thần tích cực và quan điểm sống của hai cha con. Câu chuyện của họ không phải là chuyện đi lên từ nghèo khổ hay trải nghiệm siêu tâm linh. Nó vừa truyền cảm hứng lại vừa chân thực. Họ không làm gì khác ngoài việc cố gắng sống, cố gắng hiểu cuộc đời, và do đó nó rất gần gũi với tôi. Tôi hỏi Garrett liệu cậu có bao giờ suy nghĩ xem cuộc đời mình sẽ đi theo hướng nào nếu ngày hôm đó cậu không đánh trật quả bóng, không bị u não và không phải trải qua 64 tuần hóa trị. “Thật lòng mà nói, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện đó,” cậu thừa nhận. Cha cậu cũng nói thế. “Thực tế là,” Eric giải thích, “đây là những lá bài mà chúng tôi có, và chúng tôi phải chơi sao cho tốt nhất.” Eric Miller vẫn luôn cố gắng hướng cậu con trai đến những thứ cậu có thể làm được, chứ không để tâm đến những thứ cậu không thể làm được. Và bài học nhỏ này đã tạo ra kết quả phi thường cho cả hai người. Món quà mà cha cậu mang đến không phải là sự bảo vệ Garrett khỏi đau đớn và tổn thương dù hẳn là Eric rất muốn làm thế cho con. Ông giúp Garrett nhận ra rằng cuộc đời phi thường không đến từ cơ hội ta gặp, mà đến từ cách ta phản ứng với chúng. Mời các bạn đón đọc Cẩm Nang Chọn Nghề của tác giả Jeff Goins.