Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cái Giá Của Tự Do

Stephanie có sắc đẹp cổ điển, nhưng hơn thế, nàng có một trái tim đam mê. Ham thích mạo hiểm, nàng dám lao đầu vào những cuộc tình cuồng nhiệt và cũng sẵn sàng chịu trả giá cho những mối tình của mình. Một tính cách như vậy lại ra đời trong thời đại bão táp của nước Pháp nửa cuối thế kỷ XIX với những cuộc tranh giành quyền lực trong nước, chiến tranh ở ngoài nước, những cuộc xâm lược thuộc địa và sự phát triển nhanh chóng của các công ty liên quốc gia, ắt cuộc đời nàng phải bảy nổi ba chìm với ... yêu đương. Số phận éo le đã đẩy Stéphanie lưu lạc khắp năm châu và rơi vào đủ những mối tình hết sức khác nhau: - Nhà kinh doanh trẻ tuổi Armand Dytteville có tài sản lớn ở Nam Thái Bình Dương. - Chàng sĩ quan điển trai, tùy tùng của hoàng đế Napoléon III. - Chàng quý tộc Nga hào hoa Boris tại kinh thành Saint Petersburg. - Một thanh niên bản xứ tại miền đất hoang vu, Yann Kendelec. - Và ... văn hào Victor Hugo, cây bút vĩ đại đồng thời cũng nổi tiếng là thuộc số những đàn ông có nhu cầu tình ái mãnh liệt nhất trong lịch sử thế giới ... STEPHANIE lấy nhân vật cùng tên làm trung tâm, được viết thành 4 cuốn với tên gọi như sau: 1. Bốn mùa yêu. 2. Vì em yêu anh. 3. Cái giá của tự do. 4. Ngọn lửa tình. Tuy là bốn cuốn cùng viết về một nhân vật, song cũng như bộ tiểu thuyết Angelic đã quen thuộc với bạn đọc, mỗi cuốn đều là những câu chuyện hoàn chỉnh, độc lập với nhau, không nhất thiết phải đọc toàn bộ tác phẩm hoặc đọc theo trình tự nhất định mới thấu hiểu được nó. Tất nhiên, hy vọng rằng bạn đọc sẽ gắn bó và say mê với số phận của Stéphanie để không bỏ sót một cuốn, một tập nào, như đọc giả phương Tây đã hết sức hoan nghênh STÉPHANIE khiến bộ sách được tái bản liên tục trong vòng 10 năm nay kể từ khi nó ra đời. *** LÁ THƯ CỦA YVES KENDELEC Stephanie giận dữ lao ra khỏi phòng khách như kẻ mất trí. Xiêm áo, đăng ten, dải lụa sột soạt theo bước chân giận dữ của nàng. Cánh cửa đóng sập lại theo cái khoát tay của nàng. Toàn thân run lên vì uất ức, Stephanie đi thẳng đến phòng giấy, giật mạnh cánh cửa, bước vào, đóng sập lại cùng với động tác giận dữ như lúc nàng đóng cửa phòng khách. Lại một lần nữa nàng khẳng định quyền tự do của nàng trước René. Cái quyền này là điều kiện nàng đã đặt ra với chàng ngay từ khi cưới nhau. Tại sao René không chịu hiểu rằng không thể bắt vợ chỉ chăm lo đến áo quần, đầu tóc, chiêu đãi, tiệc tùng, đến chuyện phiếm với những kẻ kiêu kỳ nhưng ngu xuẩn? Tại sao chàng lại không muốn hiểu rằng Stephanie đâu phải loại người cam chịu sống theo dư luận, sợ hãi những lời đàm tiếu để không dám làm cái này cái nọ theo ý mình? Stephanie đâu thuộc loại ngươi quan tâm đến ý kiến nhận xét của những kẻ đạo đức giả, những kẻ không dám sống theo ý mình và không để người khác sống theo ý họ? Những kẻ chỉ chăm chăm tạo cho mình vẻ ngoài sang trọng, quí phái, kiểu cách phù phiếm? Stephanie thuộc loại phụ nữ hiếu động, yêu cuộc sống, thích lao vào những tình huống phức tạp, không sợ nguy hiểm, thích luôn luôn đương đầu với những hoàn cảnh bất ngờ... Đúng là gần đây nàng ít xông pha vào những tình huống nguy hiểm, nhưng nỗi lo lắng về số phận tầu thuyền của nàng ngoài biển, niềm kiêu hãnh khi nàng chiến thắng trong cuộc giành giật những mặt hàng quí với các đối thủ, niềm phấn hứng khi nàng vạch ra những ý đồ táo bạo, tính mạo hiểm trong việc bỏ vốn vào những vụ kinh doanh liều lĩnh... tất cả những thứ đó René đều tìm mọi cách tước đi của nàng. Stephanie đã ba lần giật sợi dây chuông gọi Aimé. Nàng đấm mạnh xuống mặt bàn mà vẫn không ghìm được cơn giận dữ. Lần này René đi quá mức. Chàng dám nói: “Khi mang danh hiệu cao quí phu nhân Guinchamp thì...” Cao quí gì? Cao quí chỗ nào? Nếu không do bà mẹ bán cái mã đẹp trai của con mình cho Agnès lấy món tài sản kếch sù của dòng họ Lomanais thì chàng đâu có cái biệt thự sang trọng “De Guinchamp” này?... Lương sĩ quan được là bao? Stephanie khinh thói nhu nhược, sợ dư luận của René nhưng vẫn không thể thôi không yêu chàng. Nghĩ cho cùng thì René xưa nay vẫn là người như thế. Nàng chẳng nói với Pompette ngày nào rằng “Tôi biết tất cả những nhận xét của bác về anh ấy, nhưng tôi yêu anh ấy với tất cả mọi ưu điểm và khuyết điểm. Biết làm sao được, tôi không thể không yêu René!” Nàng đã yêu chàng đến mức bất chấp nguy hiểm, bỏ nhà cửa, con cái, đuổi theo chàng ra tận chiến trường. Yêu đến mức nàng nhận lấy chàng để có chàng bên cạnh tất cả các đêm, để được nhìn thấy chàng cười, chàng đi lại, được nghe thấy giọng nói nồng ấm và dâm đãng của chàng thầm thì gọi tên nàng. Mỗi khi René thầm thì gọi “Stephanie”, lập tức nàng rùng mình tưởng như môi chàng đang lướt trên da thịt nàng. Nàng đã bỏ qua thói phù phiếm, thói sợ dư luận của chàng để được yêu chàng, để được hưởng những cơn ân ái cuồng nhiệt của chàng. René chỉ là người đàn ông để yêu đương. Tình ái là sở trường của chàng, là phẩm chất duy nhất của chàng. Than ôi, đúng là duy nhất! Ngoài khả năng yêu đương và ân ái ra, René không còn bất cứ phẩm chất nào khác! - Cứ vào! Nàng nói to khi nghe thấy ba tiếng gõ ngoài cửa. Đấy là mật hiệu giữa họ. Ba hồi chuông và ba tiếng gõ cửa! Ám hiệu giữa nàng và Aimé. Ngay sau lần cãi nhau đầu tiên, hôm ấy Stephanie báo chồng biết nàng có thai và René lợi dụng hoàn cảnh đó đã yêu cầu nàng thay đổi cách sống, bỏ những công việc quen thuộc của nàng, Stephanie lại trở về với Aimé. Nàng khôi phục mối quan hệ thân tình với anh. Với Aimé nàng có thể nói hết, bởi anh hiểu rõ nàng hơn cả chính nàng hiểu bản thân mình. Giữa Stephanie và Aimé có bao nhiêu sợi dây gắn bó với nhau: quê hương, những kỷ niệm thuở nhỏ, Charles, cùng bao nhiêu yếu tố bí hiểm khác. Trước kỳ sinh nở, René lại một lần nữa yêu cầu vợ rời bỏ công việc kinh doanh mà chàng gọi là “công việc của một mụ nhà buôn”. Sau khi Stephanie sinh cho chàng bé Diane, con gái không phải con trai như nàng mong ước, thì René lải nhải không biết mệt, ngày này sang ngày khác: - Bao giờ em mới chịu thôi cái việc la cà các hãng buôn? Bao giờ em mới chịu thôi đến phố Vivienne, thôi bàn bạc tranh cãi giá cả với đám chủ hiệu đồ gỗ? - Không bao giờ! Em trả lời anh lần này là lần cuối cùng. Đừng bao giờ anh nhắc lại câu hỏi đó với em nữa! Hôm đó, nói xong nàng đã băng ra ngoài và đóng sập cửa lại. - Bà chủ gọi tôi? Thoạt nhìn, Stephanie thấy ngay Aimé giữ thế rồi. Chỉ mấy tháng mới cưới tình thân giữa nàng và anh đã bị giảm bớt, sau đó họ đã lấy lại được tình thân ngày xưa. Lẽ tự nhiên là Aimé lại không ngần ngại tỏ thái độ ương ngạnh với nàng mỗi khi anh không tán thành việc gì đó. - Anh lại thế rồi! - Bà chủ muốn nói tôi lại tiếp tục chứ gì? Nàng cau mặt lườm anh. - Đến bao giờ René mới chịu thôi cái việc dằn vặt tôi? - Thì bà chủ có thôi bỏ thói ương ngạnh, thôi hành hạ ông ấy đâu? - Anh định nói rằng... - Theo cách suy nghĩ của ông chủ, thì ý kiến ông chủ đúng. Stephanie nổi cơn thịnh nộ. - Anh tán thành René à? - Tôi hiểu ông chủ. - Thế thì ích gì chứ? - Stephanie gầm lên. - Ích chứ! - Aimé nói bằng giọng ương ngạnh, cái giọng bao giờ cũng làm Stephanie điên người. - Anh cố tình nói thế để chọc tức tôi thêm! Đúng là Aimé làm thế. Anh thấy nên đẩy cơn giận của Stephanie đến tột đỉnh, sẽ có lợi cho nàng hơn. Phải sau khi lên đến đỉnh điểm, cơn uất giận của nàng mới chịu lui và khi đó anh sẽ lựa lời nói cho nàng hiểu. Tất nhiên không khí thuận hòa giữa hai vợ chồng họ chẳng thể kéo dài được mãi mãi. Dù sao trong một quãng thời gian, họ cũng được hưởng niềm hạnh phúc trong yêu thương. - Anh cũng khuyên tôi đừng hoạt động gì nữa? - Tất nhiên là tôi không khuyên như thế. Bản chất bà chủ đã như vậy làm sao thay đổi được? - Bản chất tôi làm sao? - Bà chủ là người thích leo trèo. - Tôi chưa hiểu - nàng bực tức Aimé giở cái giọng bí hiểm quen thuộc ra. - Ý tôi muốn nói hồi nhỏ còn ở lâu đài bà chủ đã thích tụt lan can cầu thang gác, thích nhẩy vài bậc một lúc, thích trèo cây, thích leo vách núi dốc đứng. Mỗi khi định thuyết phục nàng điều gì, Aimé luôn gợi nhớ lại thời thơ ấu của nàng ở quê nhà, gợi lại cuộc chiến tranh Crimée, khi nàng làm cấp dưỡng cho trung đoàn Bắc Phi. - Như thế thì sao? - Bản chất bà chủ là hiếu động. Tính hiếu động ấy tất nhiên phải được bộc lộ ra trong một công việc nào đó. Hồi cụ bà còn sống, phu nhân Hortense... Stephanie xưa nay vẫn cố học theo mẹ nhưng kết quả nàng lại khác xa mẹ. Bà Hortense ngày xưa không bao giờ nổi nóng. Mẹ nàng bao giờ cũng nói với giọng dịu dàng, nhỏ nhẹ tình cảm trong khi vẫn kiên quyết. Không ai lay chuyển được điều gì một khi mẹ nàng đã quyết. - Mẹ tôi ngày xưa được làm việc theo ý riêng. Cha tôi không bao giờ cản trở. - Bởi cụ chủ ngày xưa đâu có giống ông chủ René de Guinchamp bây giờ? Stephanie hiểu câu đó như Aimé định nói: “Bà chủ đã sai lầm là lấy ông ta!” Nàng còn phạm thêm sai lầm nữa là chịu đến sống ở biệt thự Guinchamp. Như vậy thành ra nàng là người khác chứ không phải là nàng. Lẽ ra nàng phải tậu hoặc xây một tòa nhà khác. Nhưng hồi đó nàng đang khao khát tình yêu, Stephanie đâu có nghĩ gì. René bảo gì nàng cũng răm rắp nghe theo. Chính vì vậy bây giờ thằng bé René năm nay lên 2 cùng hai chị nó sống với nàng, trong khi bốn đứa con nàng đẻ ra - hai đứa sinh đôi con Armand và hai đứa một trai một gái con André, lại không được sống cùng với mẹ chúng. Bốn đứa vẫn sống với mẹ chồng thứ nhất của nàng, bà Francoise. Tình trạng này là do một loạt tình huống. Sau cái chết thương thảm của André, Stephanie một thời gian nằm liệt giường, đành để các con sống bên biệt thự Dytteville. Hồi đó chính Aimé đã khuyên nàng như thế. Vả lại bà Francoise không hề phân biệt đối xử giữa hai đứa cháu nội của bà với hai đứa em cùng mẹ khác cha của chúng. Còn thêm một nguyên nhân nữa khiến Stephanie dễ chấp nhận lời đề nghị của René là sau khi Agnès qua đời chàng đổi tên biệt thự Lomanais thành biệt thự Guinchamp. Nàng đã trở thành phu nhân Guinchamp, việc sống tại biệt thự Guinchamp đâu có gì không hợp lý? Tuy biết không thể lay chuyển những định kiến đã hình thành nên trong đầu Aimé, Stephanie vẫn cố tìm cách lay chuyển chúng. Nàng nói giọng xót xa: - Ôi nếu anh biết vừa rồi René nói với tôi như thế nào, dằn vặt tôi ra sao... Anh ấy dám bảo tôi: “Khi đã mang danh hiệu cao quí “phu nhân Guinchamp” thì có những loại người em không nên tiếp xúc. Quá lắm là đến nhà họ nếu như em buộc phải gặp!”. - Chắc ông chủ định nói đến Vaudières! - Ông Vaudières quen biết tôi lâu năm. Ồng lại là chủ ngân hàng, tôi cần quan hệ với ông ta. - Nhưng bà chủ cũng biết, ông chủ không ưa ông Vaudières! - Tôi đang muốn tậu khu đất ở Chesnay thuộc ngoại thành Vaudières và nhất định tôi sẽ tậu, nàng nói giọng dứt khoát - Tôi đã “ngửi” thấy đó là miếng đất tuyệt vời, sẽ có lãi rất lớn. Vụ này cần tiến hành nhanh chóng kẻo có người thọc gậy bánh xe. Tôi không thể đưa chuyện đó ra bàn ở phố Vivienne vì cha tôi quá thận trọng, còn chú Hippolyte thì trước mỗi việc cứ cân nhắc quá lâu. Tôi bàn chuyện với ông Vaudières và hai cố vấn thì có gì là xấu? - Tất nhiên rồi. Nhưng hình như bà chủ lại yêu cầu ông chủ bắt tay họ, những người ông chủ vẫn khinh thường, thậm chí ghét nữa. Quả là Stephanie có yêu cầu René chào hỏi, bắt tay họ! Nàng rất biết rằng Antonin Vaudières cũng như hai người cố vấn kia nếu được nghe René Guinchamp niềm nở chào hỏi, họ sẽ “mềm” hơn khi nàng trao đổi với họ về các khoản trong hợp đồng. René đã hai lần chịu tiếp họ tại biệt thự Guinchamp, nhưng lần nào cũng bảo vợ: “Chỉ lần này thôi đấy”. Đến hôm nay, chàng lại bảo: “Anh đã nói rồi, anh không muốn ai bàn chuyện hàng hóa, buôn bán trong cái nhà này. Em muốn bàn bạc ở đâu tùy em. Tại các văn phòng công ty, tại cửa hiệu hay quán giải khát nào cũng được, miễn không phải ở đây! Em nhớ rằng đã mang danh hiệu cao quí phu nhân Guinchamp thì... “ Chính câu đó làm nàng điên tiết. Danh hiệu cao quí Guinchamp! Bà mẹ René không đào mỏ mấy cô gái nhà giầu thì lấy đâu ra sự “cao quí” của cho Guinchamp. - Mà một cái bắt tay, một nụ cười niềm nở và một câu chào lịch sự thì có gì mà không thể làm được? - Stephanie rầu rĩ nói. - Xin phép bà chủ tôi xin nói thế này. Bà chủ có lý thì ông chủ cũng có lý. Mọi người đều có lý hết. Tuy nhiên Bắc cực và Nam cực không bao giờ đến với nhau. Riêng tôi thì bà chủ hãy tin rằng tôi thi hành mọi điều bà chủ yêu cầu và các vị khách đó tôi sẽ tiếp họ chu đáo: cà phê, trà, nước ngọt, bánh trái... tất tất đều có đủ. Trong lòng Stephanie lại trào lên nổi căm giận René! Vì tình yêu nàng, tại sao chàng không thể bỏ ra năm phút “quí giá”, chào hỏi khách để chiều vợ? Trong khi nàng từng đã dám bỏ cả gia đình để theo chàng ra chiến trường, sẵn sàng chịu dựng bao nỗi gian truân ở Dobroudja. Alma, ở Sebastopol? Đến đây nàng chợt nghĩ đến Boris! Boris! Đến nay nàng vẫn luôn, nghĩ đến chàng. Chàng là tình yêu không gợn sóng mây, tình yêu của tình yêu. Trong thời gian cuộc triển lãm thương mại ở Paris, Boris đã quan tâm đến công việc của nàng. Chàng đã tính sẽ trở lại Paris để nghiên cứu những kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh của nước Pháp. Boris là người thật sự hiểu mình. Stephanie thầm nghĩ, chàng chịu nghe những lời khuyên của nàng. Boris vêrr nàng tuyệt đối, nhưng rồi... chiến tranh, cuộc bao vâv Paris, cái chết của Agnès, René tự do và nàng lấy René! Hoàng thân Boris Petrovitch Biotsky và quận chúa Nalasa vợ chàng đã gửi thư chúc mừng đám cưới Stephanie. Nhưng nàng cũng nhận được một lá thư của Boris mà nàng vẫn còn giữ, một lá thư tuyệt diệu... “... Anh hiểu rằng anh không thể dâng cho em danh hiệu dòng họ anh, tài sản của anh, cuộc đời anh, nhưng anh yêu em và trong ký ức anh, em gần gụi với anh hơn nhiều so với phu nhân Guinchamp đang sống ở Paris. Tha lỗi cho anh. Trong mấy năm tới anh chưa thể sang Pháp. Anh rất đau lòng. Anh vẫn gìn giữ em trong tim anh, trong linh hồn anh, trong con mắt anh. Mong em hạnh phúc, Stephanie! Stephanie của anh, chỉ của riêng anh thôi!...” Cuối thư chàng viết, ám chỉ René: ‘Anh đã cứu sống con người ấy trên bãi chiến trường, cứu hắn vì em, vậy mà bây giờ em lại ở đó với hắn, trở thành vợ hắn... Chúa đã an bài như thế biết làm sao được”? Anh chỉ cầu Chúa một điều, em thân yêu, là sau đây Chúa sẽ cho hai ta được chung sống bên nhau mãi mãi. Đấy là lời cầu Chúa duy nhất của anh!”. Stephanie đưa tay lên gạt những hình ảnh hiện ra trước mắt. Mơ màng làm gì? Boris đã có cuộc đời chàng. Nàng có cuộc đời nàng, cuộc đời mà nàng tự ý lựa chọn. Bao tháng nay cuộc đời ấy biến thành nỗi đau khổ ngấm ngầm, không làm sao chữa được. Thói ngoan cố của René mỗi ngày làm nàng thêm cay đắng trong lòng. Tại sao René bất công làm vậy? Tại sao René thiển cận làm vậy? Lúc ăn bữa trưa, nàng đã tính sẽ giảng hòa với chồng và thuyết phục thêm đôi chút. Nhưng lúc nàng gọi lấy cà phê, René nói ngay: - Phu nhân tha lỗi... Cách xưng hô nhạt nhẽo “phu nhân” nàng rất ghét. Cách đó nàng chỉ chịu được nơi đông người. - Tôi sang uống cà phê bên biệt thự Resmont. Achille đã có lời mời tôi, bởi biết phu nhân hôm nay bận tiếp khách kinh doanh. - Anh ấy biết là do anh kể chứ gì? - Nàng bực tức nói. - Chính phu nhân báo trước cho tôi biết chuyện đó và tôi muốn phu nhân hoàn toàn thoải mái, hoàn toàn tự do làm những công việc quan trọng của phu nhân. Phu nhân coi tự do là thứ quí giá nhất. Cũng nói thêm, nếu phu nhân định mời những vị khách kia đến ăn tối, xin phu nhân cho tôi biết trước để tôi liệu. Đúng là thái độ khiêu khích! Stephanie không nhịn được, quật mạnh khăn xuống bàn, giận dữ đứng phắt dậy, cặp mắt tóe lửa nhìn thẳng vào mắt René, nhưng René làm như không thấy, thản nhiên bước ra cửa. - René! René vẫn thản nhiên mở cửa, điềm tĩnh bước ra ngoài, coi như không nghe thấy vợ gọi. Anh ta đã biến thành vừa câm vừa mù vừa điếc! Stephanie cắn ngón tay, lẩm bẩm một mình: - Mình sẽ không chịu! Mình không muốn chịu nhún. René phải hiểu mình... Mình buộc anh ấy phải hiểu... Còn anh ấy vẫn ngoan cố, mình sẽ tiếp Vaudières tại đây. Mình sẽ tậu bằng được khu đất ở Chesnay! Tối hôm ấy, Stephanie thấy chồng về, nàng không buồn hỏi xem ngày hôm ấy chàng có gì vui không. René tỏ ra vẫn đẹp trai, duyên dáng và đáng yêu như mọi khi. Chàng hỏi vợ nên nhận hay thoái thác lời mời đến dự buổi vũ hội ở biệt thự nữ công tước Lozencoise. Không muốn gây chuyện thêm, Stephanie nở nụ cười rất tươi, bảo chồng rằng nàng sẽ rất vui đến dự buổi vũ hội ấy. René nghiêng mình cảm ơn vợ tỏ ý chàng rất sung sướng thấy nàng cũng muốn dự. “Mình đành đầu hàng vậy - Stephanie thầm nghĩ - Mình có mong ước gì đâu, ngoài việc làm cho chàng vui. Rồi chàng sẽ phải hiểu như thế, sẽ chiều mình và niềm nở tiếp những khách kinh doanh của mình”. Nhưng trong khi nghĩ thế, nàng lại càng thấy ghét nữ công tước Lozencoise. Bà ta góa chồng, công tước Wedborg, nhưng còn rất trẻ. Đó là một phụ nữ tóc vàng vô cùng xinh đẹp, được nam giới kháo nhau là “người phụ nữ mặc áo có cổ rộng nhất Paris!” Đã một thời gian dài Lozencoise là nhân tình lén lút của René, ngay từ hồi Agnès còn sồng. Stephanie rất ghét bà ta vì mỗi lần hai vợ chồng nàng gặp bà ta trong một cuộc hội họp đông người nào đó, Lozencoise đều tỏ thái độ thân mật quá mức với René và hai người trò chuyện theo kiểu nói như ngầm ám chỉ những kỷ niệm ân ái với nhau, Stephanie rất khó chịu thấy Lozencoise lẳng lơ quá đáng, cổ áo bao giờ cũng mở rất rộng, chỉ vừa đủ che núm vú, còn cả nửa trên cặp vú nhô hẳn ra ngoài, miệng thì bôi son đỏ chót và lúc nào cũng như sắp hôn người đàn ông đang tiếp chuyện bà ta. Cặp mắt Lozencoise nhìn René như muốn nói với chảng: “Em yêu anh. Em không thể quên anh. Bất cứ lúc nào anh muốn, em cũng sung sướng được chiều anh. Thân xác em đang khao khát thân xác anh. Cặp môi em đang khao khát cặp môi anh!” Một lần sau cuộc vũ hội René gặp “mụ ta”, Stephanie đã to tiếng với chồng. René chỉ cười... nhưng chuyện đó đã lâu rồi, nàng chỉ còn coi là một kỷ niệm êm ái. Vì nàng ghen với “mụ ta” thì đúng là điên rồ. Nàng là vợ của René và nàng biết René chỉ yêu một mình nàng. Tuy nhiên Stephanie vẫn lấn cấn thế nào đó mỗi khi chồng gặp Lozencoise. Chính vì vậy hàng tháng, “mụ ta” đều gửi thiếp mời hai vợ chồng nàng đến dự vũ hội ở nhà mụ. Mọi lần Stephanie đều khoái thác, nhưng hôm nay vì muốn làm lành với chồng nên nàng chiều chàng, bằng lòng đi dự. Nàng thầm nghĩ: “Em bằng lòng đi với anh đến nhà mụ ta dự vũ hội chỉ vì anh thích đến đó. Nhưng để đáp lại, anh cũng phải chiều em trong một số việc”. Khốn nỗi từ khi René chịu rời khỏi nhà để vợ tiếp khách kinh doanh cũng như nàng chịu cùng chồng đến dự vũ hội ở nhà người đàn bà đáng ghét, thì sự rạn nứt giữa họ cũng bắt đầu. Sự nhượng bộ nhau tạo cho quan hệ giữa họ mất đi niềm tươi mát, sự thoải mái không thể thiếu được trong tình yêu. Theo đà ấy cuộc sống chung giữa René và Stephanie biến thành một thứ mỹ lệ giả tạo, một lớp sơn phết bên ngoài để che giấu những bất đồng bên trong. Cuối cùng đến lúc quá mệt mỏi, Stephanie đã nghĩ đến chuyện xa lánh chồng. Không khí trong biệt thự Guinchamp ngày càng làm nàng khó chịu. Nàng đâm ghét mọi thứ xa hoa phù phiếm ở đây, từ những bức họa khoe mẽ đến những hàng mỹ nghệ đắt tiền nhưng vô tích sự. Stephanie cảm thấy sống trong tòa nhà cực kỳ sang trọng này không thoải mái bằng sống trong phòng giam chật chội tại pháo đài Sebastopol! Ban ngày nàng cố không ở nhà. Buổi tối buộc phải về thì lòng nàng nặng trĩu. Nhiều buổi tôi nàng ngồi với các con trong biệt thự Dytteville và chỉ ao ước được ngủ lại đấy, không phải về biệt thự Guinchamp. Đang trong tâm trạng rối bời, đang nghĩ cách nào thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt căng thẳng này thì một lá thư bay đến tay nàng. Lá thư của Yves Kendelec. Ông ta là người nàng chưa gặp bao giờ, chỉ một lần nàng viết thư cho ông ta hỏi tình hình ở đảo Nouvelle Caledonie[1], tại sao việc khai thác kền ở đó lại không tăng lên được... Lá thư “hỏi tình hình” đó phải một năm sau nàng mới nhận được phúc đáp. Thư viết: - “... Nouvelle Caledonie là một nơi đất mới. Công việc hiện đại hóa nó đòi hỏi rất nhiều tiền bạc và thời gian. Các phương tiện khai thác ở đây hiện rất thô sơ. Thiếu nhân công châu Âu. Dân bản địa, người Canaques, quen sống nhàn tản, mặc dù họ rất hiền lành chất phác. Bẳn thân tôi lại đang rất mỏi mệt và đau ốm. Vài năm nữa, tôi lại giao công việc lại cho con trai tôi và hó sẽ trình bày tình hình với ngài Georges Dytteville... “ Bức thư làm Stephanie sôi máu. Nàng thấy rõ nếu cứ để tình trạng như thế này thì việc kinh doanh ở đảo không sao tiến triển được. Nàng thấy cần phải sang xem xét tình hình tại chỗ, thuyết phục mọi người ở đó và thực hiện cải tiến công nghệ bằng mọi giá, trang bị kỹ thuật hiện đại... “Không, không phải việc của mình - Stephanie suy nghĩ - Mình không thể sang đó. Đấy là việc của Hippolyte. Nhứng cậu ta lại quen hưởng cuôc sống yên ổn, nhàn hạ, sung túc rồi. Cậu ta ngại khó khăn, “sợ gian khổ”. Mối mâu thuẫn đó ám ảnh Stephanie và nhiều lúc nàng thấy phải đích thân nàng sang mới được. Ngoài nàng không ai khác. Nhưng nếu đi nàng sẽ phải xa gia đình, bỏ lại con cái. Nàng không muốn xa hẳn René... Nàng đã bốn mươi tuổi rồi, đâu còn trẻ trung để đi đây đi đó nữa... Nhưng một ý nghĩ khác bác lại. Tình trạng ở Nouvélle Caledonie cần phải giải quyết ngay. Chờ mười năm nữa thì sẽ quá muộn! Đảo Nouvelle Caledonie đang là vùng đất mới. Người ta đã phát hiện những mỏ kền ở đó từ nhiều năm rồi. Nếu nàng sang đó, bắt tay vào xây dựng, việc khai thác thứ kim loại đáng quí này mới có cơ phát đạt mạnh mẽ... Đành để các con xa mẹ chúng trong mười tháng, mười lăm tháng... Nàng phải sang nhìn tận mắt mới nghĩ ra cách phát triển. Sau thời gian đó nàng trở về Pháp tuyển mộ một đội ngũ thợ kỹ thuật trẻ, đồng thời mua sắm máy móc... “Thôi được mình sẽ suy nghĩ thêm. Nếu thật sự cần thiết. Nếu không có ai khác ngoài mình... Và sau một thời gian xa cách, rất có thể mình và René nối lại được...” nàng kết luận. --------------------------- [1] Còn gọi là Tân Caleđôni hoặc Tân Đảo, nằm ở Nam Thái Bình Dương (N.D) Mời các bạn đón đọc Cái Giá Của Tự Do của tác giả Marcel Gobineau.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hoa Hồng Sa Mạc
Có điều gì gắn kết một tay cướp biển đã chết cách đây 600 năm, một người Argentina quyết cứu rừng vùng Patagonia, một thầy giáo lưu vong vẫn mơ về ngôi trường của mình và thức giấc với bụi phấn trên ngón tay, một người vùng Bengal yêu những con tàu và trên đường đưa chúng tới nghĩa trang tàu thì kể chuyện cho chúng nghe? Từ khắp mọi ngóc ngách, những số phận nhỏ bé ấy được xâu chuỗi dưới ngòi bút của Luis Sepúlveda trong một hành trình đặc biệt: hành trình chống lại sự vô danh, chống lại quên lãng. Bằng ngôn ngữ đầy chất thơ như tiếng sóng dồi của biển cả hay ngọt ngào như thịt một loại quả nhiệt đới, bằng ngòi bút đầy nhân văn, Sepúlveda kể lại câu chuyện của những người bạn, những con người chẳng ai biết tới nhưng lại trở thành những anh hùng theo cách của họ, như chính những bông hồng nở giữa sa mạc Atacama.  *** #Review HOA HỒNG SA MẠC | LUIS SEPULVEDA Cùng là một bông hoa nhưng người thì thấy đẹp, kẻ lại chê kém sắc. Cùng là một tác phẩm nhưng người thì say mê, kẻ lại bảo khó đọc. Với Hoa hồng sa mạc của nhà văn Luis Sepulveda cũng thế. Nhưng rõ ràng một tác phẩm nhận được nhiều luồng ý kiến đánh giá khác nhau thì tác phẩm đó mới có giá trị cao. Luis Sepulveda được nhiều đọc giả yêu quý với những tác phẩm giàu tính nhân văn như Chuyện con mèo dạy hải âu bay, Chuyện con ốc sên muốn biết tại sao nó chậm chạp… Nhưng theo đánh giá chủ quan, tôi thích thú nhất là cuốn Hoa hồng sa mạc. Bởi ở đó, tôi bắt gặp sắc màu của nhân văn, làn gió của ngôn từ, và đặc biệt là sự phong phú của tri thức. Có đọc giả bảo khó đọc, khó tiếp cận nhưng theo tôi, nếu dấn thân hết mình vào tác phẩm, nếu chậm rãi lần hồi theo mạch truyện, bạn sẽ cảm nhận rõ những nét đẹp sắc cạnh của viên kim cương Hoa hồng sa mạc này. Tác giả đã khéo léo phết thêm sự long lanh, óng ánh cho những con chữ giàu sức gợi “Sự kháng cự yếu ớt của ánh sáng ban ngày êm ái buông lơi trước vòng xâm chiếm của bóng tối”, “Màn đêm đang ép mọng nước trái cây, đánh thức đam mê ở côn trùng, làm dịu nỗi bất an của chim chóc, làm mát da lũ bò sát, truyền lệnh nhảy múa cho đám đom đóm”… Đến với tác phẩm, đầu tiên, ta sẽ mãn nhãn với ngôn từ, cách liên tưởng, ví von đầy mê hoặc, gợi cảm vô cùng. Đó là thứ gió thuận làm cánh buồm căng phồng, rướn thân trắng giong ra biển chữ phía trước. Nơi biển chữ ấy, ta mê mẩn với vẻ đẹp của thiên nhiên, núi, rừng bao la, trầm trồ trước sự kì vĩ, đa dạng sinh học chưa kịp bị con người tàn phá với bàn tay nhơ nhuốc tội lỗi và tính hám lợi. Phép tả thực cùng sự thích thú, tình yêu thiên nhiên đã quyện hòa tạo nên những bức tranh tuyệt bích. Tôi say sưa trong từng đoạn văn như thế này “Trên những thân cây nổi lập lờ mặt nước, lũ rùa mời gọi nhàn tản ngắm nhìn hai mươi nghìn loài bướm của rừng Manu, bởi nơi đây là mảnh đất của sắc màu, và không chỉ có loài bướm làm minh chứng mà còn có theobroma, một loại phong lan đỏ tươi, phát lân quang lúc hoàng hôn… hoặc như môi nàng hôn phu, một loại phong lan khác màu xanh biển toả hương vani. Ta còn thấy hương sắc trong từng Manu khơi gợi vị giác như hương sắc của trái tabernamontana mời gọi khách khát nước uống múi nước mọng màu cam và thơm mát của mình”. Cảm nhận tinh tế, nội dung giàu ý nghĩa, cách viết đầy nghệ thuật đã tạo nên những câu văn mềm mại như dải lụa vắt ngang mặt song như thế. Đặc biệt, tác giả còn cung cấp cho người đọc một kiến thức mang tính thời sự khi đề cập đến một hiện tượng có thật đầy thú vị: Sa mạc Atacama ở Chile, một trong những sa mạc khô cằn nhất trên thế giới, đã phủ hồng sắc hoa sau khi đắm mình trong những cơn mưa. Sa mạc cũng trở nên đầy sức sống với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nơi nào thiên nhiên mơn mởn, căng tràn thì nơi ấy nhịp sống lại cựa quậy mạnh mẽ biết bao. Song song đó là nỗi đau xót, là cái trừng mắt lên án của nhà văn trước những hành động huỷ hoại thiên nhiên như tên quý tộc lập dị Fitzcarraldo dấn thân vào rừng sâu để tàn phá cây cối, rồi sự kiện xây dựng nhà máy thuỷ điện ở Laponia lấy đi bao diện tích rừng, nạn huỷ diệt tài nguyên rừng của vùng Patagonia thuộc Chile dưới tay những công ty gỗ Nhật Bản… Những sự kiện được dẫn ra khiến ai cũng phẫn nộ. Đặc biệt trong giai đoạn môi trường đang kêu cứu thảm thiết như hiện nay thì cuốn sách càng có ý nghĩa hơn nữa. Nó là một đóm lửa góp vào ngọn lửa đấu tranh chống lại sự huỷ hoại môi trường. Nó là tiếng gọi khẩn thiệt hãy giang tay cứu lấy thiên nhiên. Đan xen điều đó còn có những câu chuyện của những người bạn, những con người chẳng ai để ý đến được vinh dự đặt chân lên những trang viết của Luis. Ông kể chậm rãi, nhịp điệu nhẹ nhàng, trong mỗi câu chuyện được kể, ta như được đặt chân đến những miền đất xa xôi khác nhau. Mỗi người trong tác phẩm của ông đều có một câu chuyện riêng làm ông lay động. Ông xâu chuỗi lại để những số phận nhỏ bé ấy không bị lãng quên. Biết đâu họ còn là điển hình cho những phận người trong cuộc sống này? Tính nhân văn cứ như thế tự nhiên lấp lánh như ánh sáng đàn đom đóm đêm, lung linh, huyền ảo và đẹp vô cùng. Đặc biệt, cuốn sách tuy mỏng nhưng giá trị lại lớn bởi những kiến thức nhà văn đem lại. Những tên người, những địa danh, những khuynh hướng chính trị… mà ông dẫn ra đã đủ khẳng định vốn tri thức phong phú và sự mày mò, tìm hiểu của một danh nhân. Bìa sách xanh mát thật sự phù hợp với chủ đề thiên nhiên xanh và con người mãi xanh mà Luis Sepulveda chuyển tải đến người đọc. - TRẦN THỊ THÚY DIỄM - sachnhanam.com -   *** Luis Sepúlveda sinh ngày 4/10/1949 tại Ovalee, Limari, Chile. Ông là một nhà văn, đạo diện, nhà báo và nhà hoạt động chính trị. Sau khi học Trung học ở Santiago, ông học ngành sản xuất phim tại Đại học quốc gia Chile. Ông hoạt động chính trị cùng đoàn thanh niên cộng sản từ năm 1961. Tác phẩm tiêu biểu: Lão Già Mê Đọc Truyện Tình - Luis Sepúlveda Chuyện Con mèo dạy Hải âu bay - Luis Sepúlveda Chuyện Con Ốc Sên Muốn Biết Tại Sao Nó Chậm Chạp - Luis Sepúlveda Chuyện Con Chó Tên Là Trung Thành Chuyện Con Mèo Và Con Chuột Bạn Thân Của Nó Kết thúc thế giới  Bóng tối của quá khứ chúng ta Hoa Hồng Sa Mạc ... Giải thưởng: Ông già mê đọc chuyện tình – giải thưởng Premio Tigre Juan, một giải thưởng văn học cho các vấn đề sinh thái.  Giải Premio France Culture Etrangêre (1992), Premio Terra (1997), Premio de la Crítica en Chile (2001). Kết thúc thế giới: giải Premio Juan Chabás Chuyện con mèo dạy hải âu bay: giải Bernard Award Versele label (1998), 3rd Prize Salicornia Animals Book Festival for Youth (1998), Price Gabler Youth Book Fair 1997 in Concarneau Năm 2009: giải thưởng Premio Primavera de Novela cho tiểu thuyết La sombra de lo que fuimos (Bóng tối của quá khứ chúng ta) Mời bạn đón đọc Hoa Hồng Sa Mạc của tác giả Luis Sepúlveda.
Bay Quanh Mặt Trăng - Jules Verne
Bạch Lan dịch Tựa khác: Lên Cung Trăng (Trúc Đỳnh dịch) Tiếp theo cuốn Từ Trái Đất lên Mặt Trăng, Barbicane, Ardan và Nicholl quyết định làm một chuyến bay quanh Mặt Trăng. Nhưng trước tiên họ phải đến được Mặt Trăng đã. Liệu chuyến đi của họ có thành công hay không? Họ có đến được Mặt Trăng không, có quay trở về được không, thu hoạch được gì từ Mặt Trăng? Bản dịch từ nguyên bản tiếng Pháp của Nguyễn Thành Thống, với sự hiệu đính của Cung Giũ Nguyên. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. - Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, được coi là người khai sinh ra thể loại văn học Khoa học viễn tưởng. - Tác phẩm của ông được dịch nhiều thứ ba trên thế giới và được chuyển thể thành phim nhiều lần. - Danh tiếng ấy chắc hẳn đã là đẹp đẽ lắm rồi. Tuy nhiên ông còn xứng đáng được nhiều hơn thế. Và thật không công bằng khi chúng ta kể lại lịch sử văn học của thời đại này mà không đặt tiểu thuyết gia có lẽ là có tính sáng tạo bậc nhất vào một vị thế đúng đắn. - Ông đã dùng phòng thí nghiệm và kính viễn vọng để viết tiểu thuyết phiêu lưu. Ông không chỉ ghi lại quá trình các nhà bác học tạo nên những phát minh lớn, mà còn tiên đoán chúng. Đọc những tác phẩm cùa ông, ta có thể nhận thấy những mâu thuẫn vì trong số những ý tưởng khoa học còn có những kiến phát chưa thể xác minh. Và bỗng dưng năm sau, hoặc vài năm sau, những giả thuyết mà ông đặt ra mà đôi khi thậm chí ông còn không tin, đã trở thành sự thật, một cách hoàn toàn chính xác. Những nhà bác học đã hoàn toàn đồng tình với ý tưởng của ông, hay nói cách khác, ông đã đi trước họ!.. - Trước đây, người ta vẫn đặt câu hỏi liệu khoa học thực sự có đi ngược hướng với trí tưởng tượng văn chương hay không. Các nhà triết học thì đồng tình, lules Verne chứng minh điều ngược lại qua hành động. Ông dùng chất liệu khoa học để xây dựng nên những câu chuyện hấp dẫn, những cuộc phiêu lưu lôi cuốn. Mời các bạn đón đọc Bí Mật Đảo Lincoln của tác giả Jules Verne. Mời các bạn đón đọc Bay Quanh Mặt Trăng của tác giả Jules Verne.
Balzac Và Cô Bé Thợ May Trung Hoa - Đới Tư Kiệt
Tại vùng núi "Thiên Phụng" hoang vu, có hai trí thức trẻ được đưa về cải tạo trong cuộc đại cách mạng văn hóa. Giữa những người dân lần đầu nhìn thấy vĩ cầm hay một chiếc đồng hồ có con gà trống sặc sỡ, họ tìm thấy một người bạn-người tình xinh đẹp: cô thợ may Trung Hoa, giữa những tháng ngày tăm tối và vô vọng, họ tình cờ có được những tác phẩm nổi tiếng của văn học phương tây. Vậy là đủ cho những cuộc phiêu lưu! Mặc kệ những ngày lao động cực nhọc, mặc kệ những thành kiến, mặc kệ những âu lo về tương lai mờ mịt... họ đắm mình trong cảm giác yêu đương hoang dại mới mẻ, đắm mình trong những tác phẩm cổ điển của Balzac, Duyma. Có thể nói, văn chương đã cứu vớt, an ủi, xoa dịu tâm hồn hai chàng trai trẻ, đưa họ tới gần hơn cô bé thợ may xinh đẹp, nhưng cũng chính văn chương đã đưa cô rời xa họ, bởi những tác phẩm của Balzac đã làm cô hiểu ra "sắc đẹp của người đàn bà là một kho tàng vô giá". Sức hấp dẫn của Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa đến từ những trang viết sinh động, hài hước và cay đắng về hiện thực cải tạo của cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa trong cuộc đại Cách mạng văn hóa, từ văn phong đẹp, từ những chi tiết đặc sắc giàu tính điện ảnh của nhà văn-đạo diễn Đới Tư Kiệt, và đặc biệt, từ cái kết bất ngờ làm người đọc phải ồ lên ngỡ ngàng vì tác động nhiều chiều của văn chương. Tất cả đã đem lại cho Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa nét riêng bên những tác phẩm cùng viết về thân phận con người trong một giai đoạn lịch sử Trung Quốc đầy biến động.  Nhận định về tác phẩm:   "Có rất ít cuốn sách làm tôi xúc động như cuốn này. Tôi đánh giá nó rất cao. Bản thân tôi cũng bí mật làm quen với văn hóa phương Tây nhờ văn học trong Cách mạng Văn hóa khi tôi lần đầu tiên được đọc bản chép tay bản dịch tiếng Trung cuốn Jane Eyre của Bronte. Đới Tư Kiệt đã trình bày kinh nghiệm này một cách tuyệt vời. Bất cứ ai muốn hiểu văn học nghệ thuật phương Tây ảnh hưởng thế nào đến Trung Quốc đều nên đọc sách này " - Anchee Min - nhà văn, tác giả Đỗ quyên đỏ, Làm vợ Mao "Một câu chuyện như thôi miên, cổ điển và hiện đại, một chủ nghĩa hiện thực vừa ngụ ngôn vừa bạo dạn, đầy chi tiết quý giá, lay động sâu xa đến trí tưởng tượng và trái tim tôi" - Amy Tan-nhà văn, tác giả Phúc Lạc Hội, Con gái thầy lang "Một câu chuyện đơn giản, với lối kể quyến rũ...Điều khiến truyện nổi bật chính là cách nó đề cập và khơi dậy vẻ đẹp của những trải nghiệm nhân tính vượt khỏi khung cảnh một vùng đồi núi ở miền tây Trung Quốc" - Justin Hill, Times Literary Supplement "...Một tiểu thuyết vui vẻ, cảm động, tinh quái và trên hết là làm ta say mê...Dù thấm đẫm sự dí dỏm và hài hước, "Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa" vẫn là một khúc lãng mạn, một  tiểu thuyết về sức mạnh của nghệ thuật trong việc mở rộng cánh cửa của trí tưởng tượng, dù hoàn cảnh có thế nào đi nữa... " - Micheal Dirda - The Washington Post Book World *** Nếu bạn từng đọc “Rừng Na Uy” hoặc xem bộ phim cùng tên thì tác phẩm của Đới Tư Kiệt sẽ làm bạn cảm thấy có nhiều nét tương đồng hoặc ngược lại. Đọc “Rừng Na Uy” ta gặp nhiều “người quen” trong “Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa”.   Thứ nhất là mật độ của sex khá dày, thứ hai là không khí chán chường bế tắc của thanh niên. Bởi Đới Tư Kiệt chọn bối cảnh Trung Quốc thời kì cách mạng văn hóa để đưa vào câu chuyện của mình. Câu chuyện hồi tưởng của nhân vật xưng tôi về khoảng thời gian khi chưa tới tuổi 20,  và một người khác tên Lạc, được đưa đến để "tự cải tạo" năm 1971. Ở đó, cô bé thợ may hiện ra trước họ tựa "nàng công chúa của núi Thiên Phụng đi đôi giày màu hồng nhạt bằng vải mềm". Cô tự học viết, học đọc từ người cha thợ may của mình và viết bức thư đầu tiên gửi Lạc.   Và Lạc - mang cơn sốt rét, cùng "căn bệnh ma quỷ" từ hầm mỏ tìm đến nhà cô. Cô chạy ra suối hái một loại thảo dược có bông từa tựa cánh hoa đào để chữa bệnh cho anh. Đêm đến, những sơn dân tận cùng miền sơn cước Trung Hoa lẳng lặng đến nhà cô thợ may để nghe Lạc kể chuyện.   Anh kể rất hay. Đến nỗi khi kết thúc truyện Cô hàng hoa bé nhỏ, tất cả đều thút thít, khóc vì xúc động, gió núi dường cũng xao xuyến, thổi tắt ngọn đèn duy nhất, để trong bóng tối, cô bé thợ may cúi xuống trao cho Lạc một nụ hôn. Về sau, hai người đã thành thân và âu yếm nhau như vợ chồng, dưới cây bạch quả to lớn, đẹp lộng lẫy, trồng ở cuối thung lũng phía đông ngôi làng của cô bé, nơi mà Lạc gọi là: Thung lũng Tình yêu. Nơi ấy, họ lén đọc những dòng nên thơ trong tiểu thuyết Balzac chép trên mặt áo da cừu và trải những ngày thắm thiết, bay bổng khỏi vòng cấm kỵ... Ở một thời kì bị cấm đoán ngặt nghèo, thanh niên thành phố bị đưa về vùng quê để cải tạo vụng trộm từ việc đọc những tác phẩm của Balzac cho tới ngắm trộm người đẹp ở bên sông. Nếu đọc một lần, bạn sẽ hơi bực mình và nghĩ sex trong truyện là thứ đưa vào để câu khách rẻ tiền. Nhưng ngẫm hơn một chút, ta nhận ra đó sự tàn nhẫn. Tàn nhẫn khi đưa những thanh niên chưa trưởng thành về vùng quê khi họ còn mờ tịt các vấn đề giới tính, mọi hành động chỉ ở dạng bản năng từ việc thủ dâm cho tới làm tình với một cô gái còn ở tuổi vị thành niên.   Đới Tư Kiệt đã chọn vẻ đẹp thuần khiết của diễn viên Châu Tấn cho vai cô bé thợ may. "Cô bé thợ may có đôi mắt đẹp nhất huyện Vĩnh Cảnh sống trong một thôn nghèo heo hút, cheo leo, trên đỉnh Thiên Phụng".   Trần Khôn được chọn vào vai Lạc trong bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm ăn khách của ông. Nhưng Trần Khôn lại phong trần hơn so với vai diễn của thanh niên tuổi ngoài 20 với đầy sự tò mò về cuộc sống xung quanh, sự bất mãn khi bị kìm kẹp bởi luật lệ cứng nhắc. Bằng giọng kể trần thuật ngắn gọn, xúc tích, Đới Tư Kiệt mang tới cho người đọc một câu truyện mang tính nhân văn sâu sắc gói gọn trong cuốn sách mỏng.   Những hình ảnh được miêu tả sống động từ vẻ đẹp cơ thể của những thanh niên mới lớn cho tới thiên nhiên của vùng quê thanh bình nhưng đầy rẫy sự biến động bên trong. Ngôn ngữ đa nghĩa của Trung Quốc được truyền tải hoản hảo bằng tiếng Pháp, thứ ngôn ngữ mang nhiều sự châm biếm, tinh thâm của phương Tây.   Một cuốn sách thực sự có chiều sâu giữa rất nhiều tác phẩm mì ăn liền do văn học mạng Trung Quốc tạo ra. *** Đới Tư Kiệt sinh năm 1954 tại Trung Hoa. Từ 1971 tới 1974 ông bị đi học tập cải tạo như mọi thanh niên khác trong thời Cách mạng Văn hoá. Ông rời Trung Hoa sang Pháp năm 1984 và sống ở đó cho tới nay. Balzac et la Petite Tailleuse chinoise là tiểu thuyết đầu tay của ông, do Gallimard xuất bản năm 2000 tại Pháp, và trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong năm với 5 giải thưởng, và đã được quay thành phim do chính ông đạo diễn. Bản tiếng Việt Balzac và Cô Bé Thợ May Trung Hoa sau đây dịch theo bản tiếng Anh, Balzac and the Little Chinese Seamstress, của Ina Rilke, Alfred A. Knopf xuất bản năm 2001 tại New York.   Mời các bạn đón đọc Balzac Và Cô Bé Thợ May Trung Hoa của tác giả Đới Tư Kiệt
Vịnh Pha Lê - Lisa Kleypas
Một cô gái mang lời nguyền không bao giờ tìm thấy tình yêu… Một chàng trai không có linh hồn, khao khát cô nhiều hơn cả cuộc sống… Họ gặp nhau trên một hòn đảo nhỏ phía Tây bắc Thái Bình Dương, nơi những điều kỳ diệu bàng bạc trong không gian, và định mệnh là một quyền năng quá mạnh mẽ để thách thức… Khi Justine Hofmann được sinh ra, mẹ cô đã thả một lời nguyền để bảo vệ cô tránh khỏi những thương tổn của tình yêu, và như mong đợi, cô không có khả năng rơi vào tình yêu. Cuối cùng, tính hiếu kỳ không thể nén được của Justine – và ao ước của cô về một cuộc sống bình thường – đã tạo nên điều tốt hơn cho cô, và cô đã tìm ra cách tạm thời vô hiệu bùa chú. Tuy vậy, khi Justine gặp Jason Black thần bí, cô đột ngột phóng thích một cơn bão khao khát và nguy hiểm đến mức đe doạ mọi thứ cô yêu quý… ... và cùng nhau, Justine và Jason khám phá ra rằng tình yêu là một phép thuật có sức mạnh vượt trên tất cả mọi thứ… Friday Harbor là loạt truyện về những điều kỳ diệu, những câu chuyện tình dễ thương, khiến lòng ta ấm áp. Sau khi đọc truyện, ta bỗng thấy tin tưởng hơn vào số mệnh, vào con người, vào những bí ẩn của Tạo Hóa và vào một tình yêu tiền định đẹp đẽ sẽ chờ đợi ta nếu ta biết kiên nhẫn. Friday Harbor gồm có: Đêm Trước Giáng Sinh Ở Thị Trấn Friday Harbor Ngôi Nhà Cuối Phố Rainshadow Hồ Mộng Vịnh Pha Lê ... *** Lisa Kleypas sinh năm 1964, là một trong những tác giả Mỹ nổi tiếng nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và đương đại. Năm 1985, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Wellesley với tấm bằng cử nhân khoa học chính trị, Lisa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô đăng quang danh hiệu Hoa hậu bang Massachusetts và tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Các tác phẩm của cô đã được dịch sang 14 thứ tiếng, nằm trong danh sách bán chạy trên toàn thế giới và đem lại cho cô rất nhiều giải thưởng. Hiện cô đang sống ở Washington cùng chồng và hai con. Tác phẩm: Người Tình Hoạt Ngôn Chuyện Xảy Ra Giữa Mùa Thu Bí mật đêm hè Ngoài Vòng Tay Anh Là Bão Tố Người Tình Của Tiểu Thư Sophia Đêm Trước Giáng Sinh Ở Thị Trấn Friday Harbor Ngôi Nhà Cuối Phố Rainshadow Hồ Mộng Vịnh Pha Lê Devil in Winter A Wallflower Christmas Scandal in Spring Again The Magic Smooth-talking Stranger Bỗng Gặp Được Anh Giá Nào Cũng Yêu Giá Nào Cũng Yêu ... *** Bất cứ khi nào Justine cố hình dung một cảnh sum họp với mẹ cô, cô đã cho rằng điều đó sẽ xảy ra trong sự nhân bội của những lời quở trách… Một e-mail, một bức thư, một cuộc điện thoại, một cuộc ghé thăm vội. Cô nên hiểu rõ hơn thế. Marigold luôn là một sinh vật bốc đồng, đuổi theo mọi ý thích bất chợt và làm bất cứ thứ gì để né tránh hậu quả. Xuất hiện tại cửa trước là một lợi thế của Marigold; sự ngạc nhiên sẽ đẩy Justine khỏi thế cân bằng. Justine đã luôn hy vọng rằng, ngày nào đó, cô và mẹ sẽ đạt được sự thấu hiểu mới và chấp nhận lẫn nhau. Một giải pháp nào đó không dính líu đến chiến thắng và mất mát, mà thay vào đó là… hoà bình. Nhưng sau bốn năm trời ghẻ lạnh nhau, đôi mắt mẹ cô vẫn cay nghiệt với cùng cơn giận dữ đã làm nền móng cho mọi khoảnh khắc của tuổi thơ ấu của Justine. Không một dấu vết có thể nhìn thấy nào của sự dịu xuống. “Mom, mẹ đang làm gì ở đây vậy?” Mở rộng cửa, cô bước lui lại để cho phép Marigold vào bên trong. Marigold chỉ liều lĩnh vượt qua ngưỡng cửa và nhìn quanh. Đã có lúc Justine lo lắng về phản ứng của mẹ cô đối với căn nhà gỗ, quán trọ, cuộc sống mà cô đã xây dựng. Cô đã tuyệt vọng muốn có được đánh giá cao của Marigold, thứ rất hiếm khi trao tặng. Đã đến lúc bộc lộ ra rằng cô không còn cần đến sự phê chuẩn của mẹ cô nữa. Đã quá đủ để biết rằng cô đã có những lựa chọn đúng cho chính bản thân cô. “Có vấn đề gì sao?’ Justine hỏi. “Tại sao mẹ đến đây?” Giọng của Marigold rin rít với sự khinh miệt. “Có quá khó để tin rằng ta có thể muốn gặp con gái của chính mình không?” Justine nghĩ về điều đó. “Có.” Cô nói. “Mẹ không bao giở muốn sự bầu bạn của con, và con vẫn không làm những gì mẹ muốn. Vì thế chẳng có lý do gì để mẹ ghé thăm trừ phi có vấn đề.” “Vấn để, như vẫn luôn thế, chính là mi.” Marigold nói thẳng thừng. Như vẫn luôn thế. Những từ mang quá khứ vào trong phòng với chúng như thể nó là một sự hiện diện sống động. Một gã khổng lồ đứng giữa hai người họ, đang ném ra một bóng đen không thể trốn thoát của sự trách mắng. Không có chút mềm yếu nào trong trái tim của Marigold. Bà đã hoá xương, giống như một bức tượng bằng đá xinh đẹp, cho đến khi bất kỳ sự thay đổi về tư thế nào cũng sẽ gây ra cho bà sự nứt vỡ và sụp đổ. Bà sẽ không bao giờ có thể xoay đầu để nhìn về một hướng mới, hoặc lấy một bước lên phía trước, hoặc ôm con gái bà trong vòng tay. Điều đó hẳn là đáng sợ biết bao, Justine nghĩ với một chút thương cảm, giữ nguyên sự cứng nhắc như thế trong khi cuộc sống thay đổi quanh bạn. “Điều này có dính líu gì đến geas không?” Justine hỏi dịu dàng. “Rosemary và Sage hẳn đã kể với mẹ rồi. Chắc mẹ đang giận dữ ghê lắm.” “Ta đã hy sinh vì mi, và mi ném nó đi. Ta nên cảm thấy thế nào đây, Justine?” ... Mời các bạn đón đọc Vịnh Pha Lê của tác giả Lisa Kleypas.