Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kết Hôn Với Winterborne

Một ông trùm tàn nhẫn Tham vọng man rợ đã mang lại cho Rhys Winterborne có xuất thân bình dân trở nên giàu có và thành công. Trong kinh doanh và hơn thế nữa, Rhys đạt được chính xác những gì anh mong muốn. Và ngay từ khi gặp được Quý cô Helen Ravenel, một Tiểu thư quý tộc nhút nhát, anh đã quyết tâm chiếm hữu nàng. Nếu anh phải lấy đức hạnh của nàng để đảm bảo nàng phải kết hôn với anh, thì càng tốt. . . Một vẻ đẹp cần được che chở Helen đã có rất ít tiếp xúc với thế giới lấp lánh, hoài nghi của xã hội London. Tuy nhiên, sự quyến rũ kiên quyết của Rhys đã đánh thức một niềm đam mê mãnh liệt lẫn nhau giữa hai người. Lớn lên trong sự nuôi dạy dịu dàng Helen mang một niềm tin cứng đầu rằng chỉ có nàng mới có thể thuần phục được người chồng ngỗ ngược của mình. Khi kẻ thù của Rhys âm mưu chống lại họ, Helen phải tin tưởng anh khi thổ lộ bí mật đen tối nhất của nàng. Những rủi ro là không thể tưởng tượng được. . . phần thưởng, một đời hạnh phúc không gì sánh được. Và tất cả bắt đầu với… Kết hôn với Winterborne *** "Ngài Winterboner, một người phụ nữ đang ở đây để gặp ngài.” Rhys nhìn lên từ đống thư trên bàn với vẻ cau có. Thư ký riêng của anh, bà Fernsby, đứng trước ngưỡng cửa văn phòng riêng của anh, đôi mắt sắc bén sau cặp kính tròn. Bà là một người phụ nữ gọn gàng, đứng tuổi và hơi bụ bẫm. “Bà biết tôi không tiếp khách vào giờ này mà.” Đó là nghi thức buổi sáng của anh để dành nửa giờ đầu tiên trong ngày để đọc thư trong sự im lặng không bị gián đoạn. “Vâng, thưa ngài, nhưng người khách là một Quý cô, và cô ấy – “ “Tôi không quan tâm nếu cô ta có là Nữ hoàng máu lạnh,” anh cắt ngang. “Bảo cô ta đi đi.” Đôi môi của bà Fernsby mím lại thành một dấu gạch ngang không tán thành. Bà rời đi ngay lập tức, gót giày chạm sàn lộp cộp của tiếng súng. Rhys quay sự chú ý của mình vào bức thư trước mặt. Mất bình tĩnh là điều xa xỉ, anh hiếm khi cho phép bản thân, nhưng trong tuần qua, anh đã bị xâm chiếm bởi một sự u ám buồn bã đè nặng lên mọi suy nghĩ và nhịp tim, và khiến anh muốn đả kích bất cứ ai trong tầm tay. Tất cả chỉ vì một người phụ nữ mà anh biết rõ hơn là anh muốn. Tiểu thư Helen Ravenel. . . một người cô gái có giáo dục, hồn nhiên, nhút nhát, quý phái. Tất cả mọi thứ mà anh không có. Cuộc đính hôn của họ đã kéo dài chỉ hai tuần trước khi Rhys tìm cách hủy hoại nó. Lần cuối cùng nhìn thấy Helen, anh đã thiếu kiên nhẫn và hung hăng, cuối cùng đã hôn nàng theo cách mà anh muốn rất lâu. Nàng cứng ngắc trong vòng tay anh, từ chối anh. Sự khinh bỉ của nàng không thể rõ ràng hơn. Cảnh tượng đã kết thúc trong nước mắt của nàng, sự giận dữ của anh. Ngày hôm sau, Kathleen, Quý bà Trenear, người đã kết hôn với anh trai quá cố của Helen, đã đến thông báo với anh rằng Helen rất đau khổ, nàng nằm liệt giường vì chứng đau nửa đầu. “Cô ấy không bao giờ muốn gặp lại anh nữa,” Quý bà Kathleen đã thẳng thừng thông báo cho anh. Rhys không thể đổ lỗi cho Helen vì đã huỷ bỏ lễ đính hôn. Rõ ràng họ là một sự không phù hợp. Nó chống lại các sắp đặt của Chúa rằng anh nên lấy con gái của một gia đình người Anh có tước vị về làm vợ. Mặc dù có tài sản lớn, Rhys lại không có cách cư xử hoặc sự giáo dục của một quý ông. Anh cũng không có vẻ ngoài của một quý ông, với nước da ngăm đen, mái tóc đen, và cơ bắp của một người quen với lao động nặng nhọc. Đến năm ba mươi tuổi, anh đã xây dựng trung tâm thương mại Winterborne’s, từ cửa hàng nhỏ của cha mình trên phố High, thành cửa hàng bách hóa lớn nhất thế giới. Anh sở hữu các nhà máy, nhà kho, đất nông nghiệp, chuồng ngựa, cửa hiệu giặt ủi, và các tòa nhà dân cư. Anh ở trong hội đồng quản trị của các công ty vận chuyển và đường sắt. Nhưng bất kể anh đạt được gì, anh sẽ không bao giờ vượt qua được những hạn chế của việc sinh ra là con trai một chủ hiệu tạp hóa xứ Wales. Suy nghĩ của anh bị gián đoạn bởi một tiếng gõ cửa khác. Ngẫu nhiên, anh liếc nhìn lên khi bà Fernsby trở lại văn phòng của mình. "Bà muốn gì?" anh căn vặn. Người thư ký nâng gọng kính khi bà trả lời một cách kiên quyết. “Trừ khi ngài muốn tống cổ Quý cô ấy bằng vũ lực, cô ấy vẫn khăng khăng ở lại cho đến khi ngài nói chuyện với cô ấy.” Sự khó chịu của Rhys đã biến thành bối rối. Không có người phụ nữ nào đáng kính quen biết anh, hay nói cách khác, lại dám tiếp cận anh một cách táo bạo như vậy. "Tên của cô ta là gì?" “Cô ấy không nói.” Anh lắc đầu không tin. Làm thế nào mà người khách này lại đi qua được các văn phòng bên ngoài? Anh đã trả tiền thuê một đội quân nhỏ để ngăn anh phải đối phó với sự gián đoạn kiểu này. Một ý tưởng ngớ ngẩn đã nảy ra với anh, và mặc dù anh đã bác bỏ nó ngay lập tức, mạch đập của anh tăng lên nhanh chóng. "Cô ấy trông như thế nào?" anh lẩm bẩm hỏi. “Cô ấy mặc bộ đồ tang, với tấm màn che trên mặt. Dáng người mảnh khảnh, và giọng nói nhẹ nhàng.” Sau một hồi do dự, bà nói thêm với một giọng khô khan, “Đặc biệt nhấn mạnh về “phòng vẽ””. Chợt nhận ra, Rhys cảm thấy ngực mình thắt lại xung quanh một cơn khát khao sâu thẳm. ”Chúa ơi,” anh lẩm bẩm. Có vẻ như không có khả năng Helen sẽ đến với anh. Nhưng bằng cách nào đó anh biết là cô đã ở đây, anh biết điều đó đến tận xương tuỷ của anh. Không nói thêm lời nào nữa, anh đứng dậy và đi qua bà Fernsby với những sải chân dài. "Ngài Winterborne,” bà thư ký kêu lên, đi theo anh. “Ngài đang mặc áo sơ mi. Áo khoác của ngài – “ Rhys hiếm khi nghe lời bà khi anh rời khỏi cái góc của anh trong văn phòng và bước vào một căn phòng giải trí với những chiếc ghế bọc da. Anh dừng lại đột ngột khi nhìn thấy vị khách, hơi thở của anh trở nên gấp gáp. Mặc dù tấm màn tang che giấu khuôn mặt Helen, nhưng anh nhận ra tư thế hoàn hảo và dáng người mảnh dẻ của nàng. Anh buộc mình phải thu hẹp khoảng cách giữa họ. Không thể nói một lời, anh đứng trước mặt nàng, gần như nghẹn ngào vì phẫn nộ, và hít vào mùi hương ngọt ngào của nàng với sự tham lam bất lực. Anh ngay lập tức bị kích thích bởi sự hiện diện của nàng, da thịt anh nóng lên, nhịp tim đập nhanh và dữ dội. Từ một trong những căn phòng gắn liền với phòng giải trí, tiếng gõ nhẹ của máy đánh chữ lấp vào sự im lặng. Thật là điên rồ khi Helen đến đây mà không có người đi kèm. Danh tiếng của nàng sẽ bị phá hủy. Nàng phải rời khỏi phòng giải trí và được gửi về nhà trước khi bất cứ ai nhận ra nàng là ai. Nhưng trước tiên Rhys phải tìm ra nàng muốn gì. Mặc dù nàng được che chở và ngây thơ, nhưng nàng không phải là một kẻ ngốc. Nàng sẽ không phạm phải một rủi ro lớn như vậy mà không có lý do chính đáng. Anh liếc nhìn bà Fernsby. “Khách của tôi sẽ sớm rời đi. Trong khi đó, hãy chắc chắn rằng chúng tôi không bị làm phiền.” "Vâng thưa ngài." Ánh mắt anh quay lại với Helen. “Đến đây,” anh nói cộc cằn và dẫn đường đến văn phòng của anh. Nàng đi cùng anh mà không nói lời nào, váy nàng xào xạc khi chúng cọ vào hai bên hành lang. Trang phục của nàng đã lỗi thời và hơi tồi tàn, vẻ ngoài dường như rơi vào thời điểm khó khăn. Có phải đó là lý do nàng ở đây? Có phải gia đình Ravenel rất cần tiền đến mức tuyệt vọng đến nỗi nàng đã thay đổi suy nghĩ về việc hạ thấp bản thân để trở thành vợ của anh? Chúa ơi, Rhys nghĩ với dự đoán nghiệt ngã, anh sẽ thích nàng phải cầu xin anh tiếp nhận lại nàng. Dĩ nhiên, anh sẽ không, nhưng anh sẽ cho nàng nếm trải sự đau khổ mà anh đã phải chịu đựng trong tuần qua. Bất cứ ai đã từng dám qua mặt anh sẽ đảm bảo với nàng rằng sẽ không có sự tha thứ hay thương xót nào sau đó. Họ bước vào văn phòng của anh, một nơi rộng rãi và yên tĩnh với cửa sổ kính hai lớp rộng và thảm dày, mềm mại. Ở trung tâm của căn phòng, một bàn làm việc gỗ óc chó đã được chất đống với các chồng thư từ và tài liệu. Sau khi đóng cửa, Rhys đi đến bàn của mình, nhặt một chiếc đồng hồ cát và nâng nó lên trong một cử chỉ có chủ ý. Cát sẽ chảy xuống khoang dưới trong chính xác mười lăm phút. Anh cảm thấy cần phải đưa ra quan điểm rằng hiện giờ họ đang ở trong thế giới của anh, nơi thời gian là quan trọng, và anh đang kiểm soát. Anh quay sang Helen với một cái nhíu mày nhạo báng. “Tuần trước tôi đã được nói rằng em – “ Nhưng giọng nói của anh tắt ngấm khi Helen đẩy tấm mạng che lên và nhìn chằm chằm vào anh với sự kiên nhẫn, dịu dàng đã tàn phá anh ngay từ lần đầu tiên. Đôi mắt nàng là một màu xanh bạc của những đám mây trôi qua ánh trăng. Những lọn tóc thẳng, mượt mà, mái tóc vàng óng ả, đã được tết lại gọn gàng vào một búi tóc, nhưng một lọn sáng lấp lánh đã trượt khỏi những chiếc lược gài và lủng lẳng trước tai trái của nàng. Chết tiệt nàng, chết tiệt nàng vì quá xinh đẹp. “Hãy tha thứ cho em,” Helen nói, ánh mắt cô nhìn thẳng vào anh. “Đây là cơ hội đầu tiên em có thể tìm đến với anh.” “Em không nên ở đây.” “Có những điều em cần phải thảo luận với anh.” Nàng liếc nhìn một cái ghế rụt rè. “Làm ơn, nếu anh không thấy phiền . . .” “Aye, mời ngồi.” Nhưng Rhys không có động thái giúp nàng. Vì Helen sẽ không bao giờ coi anh là một quý ông, anh sẽ bị nguyền rủa nếu anh hành động như một quý ông. Anh nửa ngồi, nửa dựa vào bàn, khoanh tay trước ngực. “Em không có nhiều thời gian,” anh nói một cách kiên quyết, hất đầu về phía chiếc đồng hồ cát. “Em nên sử dụng nó tốt hơn.” Helen ngồi trên ghế, sắp xếp lại váy và tháo găng tay ra bằng những ngón tay khéo léo ở đầu ngón tay.   Mời các bạn đón đọc Marrying Winterborne của tác giả Lisa Kleypas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chúa Trời của Những Chuyện Vụn Vặt - Arundhati Roy
Chúa Trời của Những Chuyện Vụn Vặt là câu chuyện của hai anh em sinh đôi Estha và Rahel. Chỉ có sự ngây thơ tuyệt vời của con trẻ làm chúng cố rập khuôn thời thơ ấu cho phù hợp với những đổ vỡ trong gia đình. Mẹ chúng, Ammu, một phụ nữ xinh đẹp, đáng yêu, sống lẻ loi; đêm đêm chị yêu đàn ông, còn ban ngày yêu các con. Kẻ thù của chúng là Baby Kochamma, nguyên là một nữ tu sĩ phá giới. Và cả một thế giới đầy những lũ ma quỷ, hoa bướm, sâu bọ… của trẻ thơ. Chúng dần hiểu được rằng Sự Việc Có Thể Biến Đổi Chỉ Trong Một Ngày, cuộc sống có thể xoay trở thành những hình dạng quái gở, thậm chí có thể ngừng vĩnh viễn. Bằng trí thông minh và sức quyến rũ đầy ma lực, từ những sự việc trong đời thường tưởng như vụn vặt, Arundhati Roy đã viết nên một cuốn tiểu thuyết đầy những nỗi thống khổ, tuyệt hay và lạ lùng; một cuốn tiểu thuyết về tình yêu, cái chết, về phân biệt đẳng cấp và những xung đột gia đình. Ngay từ khi xuất bản lần đầu, cuốn truyện đã gây nên sóng gió trên văn đàn. Cuốn tiểu thuyết đã được tái bản đến lần thứ bảy và được dịch ra 27 thứ tiếng. Arundhati Roy là một phụ nữ nồng nhiệt, thông minh và sống hết mình. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay của chị, cuốn sách đã mang lại cho chị vinh quang và tiền bạc.” *** Arundhati Roy sinh ngày 24 tháng 11 năm 1961 ở Shillong, Meghalaya thuộc vùng Kerala. Mẹ gốc dân bản xứ Syria theo Thiên chúa giáo nhưng cha lại là người gốc Bengal, theo Ấn giáo và là một chuyên viên trồng trà. Cuộc hôn nhân này đổ vỡ, cô bé Arundhati Roy phải sống với mẹ ở vùng Aymanam. Mẹ cô tuy là một giáo viên nhưng cũng là người tranh đấu xã hội nhiệt thành. Bà sáng lập một ngôi trường độc lập với chính quyền địa phương để giáo dục thanh thiếu niên theo tinh thần tự do, không câu nệ vào những điều cấm kỵ tôn giáo hay văn hóa truyền thống. Từ nhỏ Arundhati Roy đã được giáo dục trong môi trường độc lập tự do như vậy. Mười sáu tuổi cô bỏ nhà ra đi, sống với đám thanh thiếu niên bụi đời trong một căn nhà nhỏ mái tôn ở Dehli, đi bán ve chai kiếm sống và ghi tên theo học Trường Kiến Trúc. Chính tại trường này Arundhati Roy đã thành hôn với kiến trúc sư Gerard Da Cunha. Tuy yêu thích ngành kiến trúc nhưng bà không ở lâu với nghề này. Năm 1984 Arundhati Roy gặp nhà làm phim Pradeep Kishen, và sau lễ thành hôn bà chuyển sang điện ảnh, vừa đóng phim vừa viết và dựng truyện phim và truyền hình.Tuy Arundhati Roy khá thành công nhưng những tác phẩm của bà cũng gây ra nhiều cuộc tranh luận. Chán đời sống xô bồ của giới điện ảnh, năm 1992 Arundhati Roy rời xa giới này và bắt đầu viết The God of Small Things, đến 1996 thì viết xong. Ngay từ những tuần đầu ra mắt, quyển sách đã có số ấn bản bán ra cao ngoài dự tính. Tổng kết trong vòng không đầy 10 năm kể từ năm 1997 là năm cuốn sách được xuất bản đến nay The God of Small Things đã bán được trên 3 triệu quyển (con số ngang ngửa với quyển Trăm Năm Cô Đơn của Gabriel Garcia-Marquez) và Arundhati Roy đã được trao giải Booker Prize năm 1998.  *** Tháng Năm ở Ayemenem là một tháng nóng nực và ủ ê. Ngày thật dài và ẩm ướt. Dòng sông như co hẹp và sẫm lại vì nhũng cây xoài vui tươi trong những lùm cây xanh lặng lẽ, đầy bụi. Chuối chín vàng ruộm. Những quả mít nở tung. Lũ nhặng xanh vo ve một cách ngớ ngẩn trong không khí nồng nàn mùi trái cây. Rồi chúng đờ ra, đậu vào những tấm kính cửa sổ mà chết, béo mẫm trong ánh mặt trời.   Ban đêm trong sáng nhưng thấm đẫm một niềm mong đợi uể oải và rầu rĩ.   Nhưng đến đầu tháng Sáu, gió mùa tây nam tắt lặng, ba tháng mùa mưa và ẩm sẫm thay bằng những ngày sáng sủa, nắng lấp lánh làm bọn trẻ con sung sướng chộp lấy chơi đùa. Vùng quê biến thành một mầu xanh lả lơi. Những đường viền mờ đi vì các hàng rào sắn đã bén rễ và tươi tốt. Tường gạch xanh những rêu. Những dây nho ngoằn ngoèo quanh các cột điện. Những cây leo hoang dại bò lan trên bờ sông đá ong và tràn ra cả những con đường sũng nước. Thuyền bè tấp nập ghé vào chợ. Những chú cá nhỏ xuất hiện trong các vũng nước mưa đầy ắp trong các ổ gà trên đường cái.   Hôm Rahel trở về Ayemenem, trời mưa tầm tã. Những làn mưa trắng bạc vụt mạnh vào mặt đất xốp, cày tung lên. Một căn nhà cũ kỹ trên sườn đồi, các bậc đã mòn nhẵn, mái nhà sụp xuống đầu hồi trông như một cái mũ đội thấp. Nức tường đầy những vệt rêu trở nên mềm xốp, hơi phồng lên vì nước ẩm rỉ ra từ mặt đất. Khu vườn xanh tươi, đầy những tiếng xào xạc, rì rầm của bao sinh vật nhỏ bé. Ở nơi thưa thớt, một con chuột bò ra cọ mình vào một tảng đá sáng lấp lánh. Những con ếch đực vàng óng sục sạo trong cái ao có váng tìm con cái. Một con cầy ướt sũng chạy vụt qua con đường đầy lá.   Căn nhà trông như trống rỗng. Cửa ra vào và các cửa sổ đều đóng kín. Hiên trước trơ trụi. Không hề có một thứ đồ đạc gì. Nhưng một chiếc Plymouth mầu xanh da trời, đuôi xe mầu vàng vẫn đỗ bên ngoài, và Baby Kochamma vẫn còn sống trong nhà.   Bà là bà trẻ của Rahel, là em gái của ông ngoại cô. Tên thật của bà là Navomi, Navomi Ipe, nhưng ai cũng gọi bà là Baby. Bà trở thành Baby Kochamma lúc đủ già để làm một bà cô. Song Rahel không đến thăm bà. Chẳng có đứa cháu trai, cháu gái nào lại ảo tưởng mà làm chuyện đó. Rahel đến gặp anh trai cô là Estha. Họ là hai anh em sinh đôi. “Thụ tinh từ hai trứng”, bác sĩ gọi thế. Hai anh em sinh ra riêng rẽ, nhưng từ hai trứng cùng thụ tinh một lúc. Estha - Esthapen - ra đời trước em gái mười tám phút. ... Mời các bạn đón đọc Chúa Trời của Những Chuyện Vụn Vặt của tác giả Arundhati Roy.
Bọn Chiếm Đóng - Kobo Abe
Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình  cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn  phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách . Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki  (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe  được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Những tác phẩm chính: Người đàn bà trong cồn cát (1963), Khuôn mặt người khác (1964), Người hộp (1973) Cái Kén Đỏ Chiếc thuyền Nô-Ê Bọn Chiếm Đóng Và một số và kịch. *** Abe Kôbô là một trong những nhà văn hậu chiến Nhật Bản thế hệ Shôwa 30 (từ năm 1955 trở đi) có khuynh hướng đi tìm một thủ pháp mới với mục đích bắt gặp con người toàn thể như một sinh vật có tính xã hội và chính trị. Nhà văn thế hệ nầy đều muốn tìm hiểu đâu là lối sống thích hợp của con người trong điều kiện của xã hội hiện tại. Abe Kôbô trên giấy tờ được gọi là Kimifusa theo cách đọc âm Nhật của hai chữ Hán Kôbô. Song thân gốc miền bắc (đảo Hokkaidô) nhưng ông sinh ra ở Tôkyô ngày 7 tháng 3 năm 1924. Cha ông, một bác sĩ y khoa tùng sự tại Mãn Châu. Do đó, ông lớn lên ở Phụng Thiên (nay là Thẩm Dương thuộc Trung Quốc) nhưng đã trở về nước để học thuốc và tốt nghiệp y khoa Đại học Đế Quốc Đông Kinh năm 1948. Sau khi Nhật bại trận và cha chết, ông sống cuộc đời nghèo túng nhưng vẫn cố gắng bỏ tiền túi in thơ (1947) và tiểu thuyết (1948). Không hành nghề y như cha, ông theo nghiệp văn như mẹ, một nhà giáo có đầu óc khuynh tả. Đầu tiên, ông sử dụng một bút pháp trừu tượng, xa rời hiện thực, nhưng sau chuyển qua văn phong tiền vệ với khuynh hướng đi tìm những ý tưởng và phương pháp biểu hiện mới mà trung tâm là những câu chuyện ngụ ngôn có tính khoa học giả tưởng. Đặc điểm của văn chương ông trước tiên là bản chất con người khoa học của ông. Thứ đến là tình cảm thiếu quê hương vì nơi ông gắn bó sâu đậm nhất là Mãn Châu, một nơi về sau đã trở thành một tỉnh của Trung Quốc. Ở Tôkyô, ông có cảm tưởng như mình sống trong một miền đất lạ. Quê hương ông là Mãn Châu có sa mạc ngút ngàn và những cơn bão cát chứ không phải là thành phố Tôkyô xô bồ, lạ mặt. Đặc điểm thứ ba là kinh nghiệm đau thương của cuộc sống khốn cùng sau những ngày Nhật Bản bại trận, lúc người di dân lập nghiệp ở thuộc địa trong số đó có gia đình ông đã phải vượt qua bao khó khăn để có thể về đến mẫu quốc. Người có ảnh hưởng đến lối suy nghĩ của ông là Abe Rokurô, ông giáo dạy tiếng Đức và là nhà nghiên cứu về triết học của Nietsche [1] và Shestov [2]. Qua Abe Rokurô, ông làm quen được Haniya Yutaka [3]. Trước khi ra trường (1947), ông kết hôn với Yamada Machiko, một nữ sinh viên ngành hội họa. Họ sống đạm bạc trong một căn nhà lợp tạm và đeo đuổi hoạt động nghệ thuật. Bà Machiko đã giúp đỡ ông rất nhiều trong việc trang trí hình bìa những tác phẩm và trong việc dựng phông cảnh khi Abe chuyển qua kịch nghệ. Tài năng của Abe đa dạng. Ông không những làm thơ, viết văn, dựng kịch, vẽ tranh mà còn chen vào các lãnh vực truyền thanh, truyền hình. Ở đâu, ông cũng chứng tỏ một tài năng phi thường và thí nghiệm không mệt mỏi những thủ pháp diễn đạt mới. Vì lúc nào cũng đi trước thời đại nên không phải ai cũng yêu chuộng ông. Mumyô shishuu "Tập thơ không tên" (1947) là tác phẩm đầu tay. Akai Mayu "Cái kén đỏ" (1950) giúp ông đoạt giải thưởng văn học hậu chiến, Kabe - S. Karuma nohanzai "Bức tường. tội của S. Karma" (1951) đem giải Akutagawa về tay ông lúc mới có 27 tuổi. Sau đó là một loạt tác phẩm như Daishikan Hyôki "Thời kỳ băng hà thứ tư" (1959), Suna no Onna "Người đàn bà trong động cát" (1962), Ta.nin no kao "Gương mặt kẻ khác" (1964), tất cả đều gây nên tranh cãi. Ngoài các vở kịch như Doreigari "Săn nô lệ" (1955), Yuurei wa koko ni iru "Đây có ma" (1958), sau nầy ông còn viết Hako-otoko "Người hộp"(1973) Hakobune sakuramaru "Chiếc thuyền lợp mái tránh lụt tên gọi anh đào" (1984). Với lối viết tiền vệ, nhà văn Abe Kôbô được sắp vào số tác giả khoa học giả tưởng qua "Bức Tường - Tội của ông Karuma","Thời băng hà thứ tư"nói trên, cũng như Moetsukitachizu "Bức địa đồ cháy rụi" (1967) mà ông viết theo phong cách nhà văn Pháp Alain Robbe-Grillet. Ông đặc biệt chú trọng tới chủ đề tha hóa (alienation). Abe Kôbô còn nhảy vào sân khấu như lạc bước vào một mê cung lúc nào không hay. Năm 1955, trong một cuốn tiểu thuyết nhan đề Seifuku "Đồng Phục" ngẫu nhiên có một số đoạn, ông trình bày như đối thoại của kịch. Thế rồi, Yuurei wa koko ni iru "Đây có ma" (1958) của ông đã ra đời 3 năm sau như ta đã biết. Ông đưa lên sân khấu những ảo tưởng (phantasm) của thời mới như ảo tưởng tinh thần, tâm lý hay thương mãi và muốn bắt nọn khán giả. Ông xem sân khấu phải là một loại chất dẻo để khán giả có thể nắn theo ý mình và để lại những dấu tích sự tham dự của họ vào quá trình xây dựng chung giữa nhà viết kịch bản, diễn viên và khán giả đó. Khán giả không thể là vô can. Họ được xem như có khả năng phạm tội. Ông muốn nói như thế về vai trò của người xem kịch khi viết vở Omae ni mo tsumi ga aru "Mầy cũng có tội nữa đấy" (1965). Một ví dụ khác với vở Enomoto Takeaki (1967), trong đó ông mô tả cuộc nổi loạn để thành lập một chế độ Cộng Hòa ở Hokkaidô năm 1870 của Enomoto Takeaki nhưng không phải là không muốn chất vấn khán giả về thái độ họ phải chọn lựa trước sự kiện ấy. Từ năm 1969, Kôbô chuyển qua dàn cảnh và thành lập trung tâm nghiên cứu và thí nghiệm kịch nghệ Abe Kôbô Studio (từ 1973), thử sửa đổi và dựng lại nhiều vở cũ, chuyển một số tiểu thuyết, kịch phóng thanh, kịch bản phim đã viết thành kịch nói. Danh tiếng ông vang dội trong lẫn ngoài nước. Hầu như cứ một lần viết một tác phẩm mới, ông lại như nới rộng thêm chân trời văn học. Ông được quốc tế đánh giá cao, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Ý, Đức. Tháng 9 năm 1992, ông được Hàn Lâm Viện Khoa Học Nghệ Thuật Hoa Kỳ trao tặng danh hiệu hội viên danh dự. Chẳng bao lâu, một ngày cuối năm, đang ngồi viết trong thư phòng, ông bị tai biến mạch máu não, mê man và được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Đầu năm sau, lại nhập viện vì vấn đề tim mạch và mất vào ngày 22 tháng giêng năm 1993, khép lại cánh cửa một cuộc đời hoạt động văn học nghệ thuật không ngừng nghĩ.   Mời các bạn đón đọc Bọn Chiếm Đóng của tác giả Kobo Abe.
Tro Tàn Sắc Đỏ
“Anh”, nhân viên một công ty hóa phẩm, bất ngờ được cử sang công ty mẹ tại nước C công tác bởi lý do hết sức lạ lùng: có khả năng bắt chuột. Tại đất nước đang chìm trong cơn khủng hoảng vì một căn bệnh lạ, vướng phải nghi án về một vụ giết người, “anh” tự trút bỏ nhân phẩm, đánh mất danh tính, để tuột quá khứ, và bị cuốn vào một cuộc trốn chạy chưa biết về đâu. Ngắn và sốc, “Tro tàn sắc đỏ” chỉ xoay quanh một nhân vật không tên, tại một thành phố chưa xác định – “anh” có thể là bất kỳ ai và thủ đô nước C có thể là bất kỳ đô thị tư bản nào đang ngập trong rác thải và các quyền lực y tế. Tàn nhẫn, độc đáo, mẫu mực, tác phẩm của Pyun Hye-Young như một lăng kính kỳ dị đã nhìn thấu suốt một thời đại, liên tiếp đưa người đọc qua những “cơn rùng mình” khi chứng kiến sự xoay vần của xã hội và con người trong vòng quay bánh xe số phận. "Các cảnh báo nguy hiểm bao giờ cũng nhiều hơn so với những nguy hiểm xảy ra trên thực tế, vậy nhưng khi mối nguy thực sự xảy đến thì thường lại chẳng có một cảnh báo nào. Cũng chính vì lẽ đó mà những tờ hướng dẫn kiểm dịch và quy định phòng chống bệnh truyền nhiễm dán đây đó khắp sân bay, anh cũng chỉ nhìn qua rồi ngó lơ như chẳng có gì quan trọng. Cứ nhìn cảnh báo nhiều thế kia thì rõ ràng là chẳng có gì nguy hiểm hết. Như thể đọc được ý nghĩ của anh, nhân viên kiểm dịch trong bộ đồ phòng dịch kín mít từ đầu đến chân, tay lăm lăm nhiệt kế, khẽ nhăn mặt. Không biết vì nhiệt kế báo sốt nhẹ, hay vì mùi rượu tỏa ra từ người anh. Anh cắn môi, đưa tay sờ lên trán. Trán anh hâm hấp sốt như nhiệt độ của nồi cơm điện đặt ở chế độ hâm nóng. Chuyến bay ngắn nhưng thật mệt mỏi. Ngay trước ngày bay anh vẫn liên tục làm việc quá sức, rồi cơn say váng vất đêm qua giờ vẫn còn nguyên vẹn. Tay anh còn nóng hơn cả trán. Cổ tay anh buốt nhói, còn lòng bàn tay thì bỏng rát như thể đã gồng hết sức nắm chặt vật gì đó quá lâu. Nhìn lại thì thấy lòng bàn tay anh đầy những vết bầm tím. Chỉ hơi gắng sức một chút là đã dội lên một cơn đau nhức nhối. Lần này, nhân viên kiểm dịch kê nhiệt kế vào tai phải anh. Tiếng nhiệt kế hoạt động bên tai nghe hệt âm thanh báo động. Như phản ứng lại âm thanh đó, anh bật ra một cơn ho ầm ĩ. Nhân viên kiểm dịch lập tức đứng lùi lại một bước. Phát sinh ra thủ tục kiểm dịch thế này là vì đang có một căn bệnh truyền nhiễm. Còn chưa xác định được con đường lây truyền, căn bệnh đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia đầu tiên phát hiện mầm bệnh, lan nhanh và bùng phát ở hầu khắp các nước trên thế giới, hệt như một cái đệm rơm bắt lửa. Con đường lây nhiễm chưa rõ, thuốc điều trị còn đang trong giai đoạn nghiên cứu, mức độ lây lan cao, thêm vào đó, để đảm bảo nguồn vắc xin còn khan hiếm, một cuộc đấu đá ngấm ngầm giữa các nước đã nổ ra và đang trong hồi quyết liệt... vậy nhưng cũng may là tỷ lệ tử vong không cao lắm. Theo như thời sự trong nước đưa tin, anh thấy dù cho căn bệnh đó có nguy hiểm đến đâu đi nữa, chỉ cần giữ gìn vệ sinh cá nhân thật tốt thì cũng chẳng có gì đáng lo cả. Vị khách trước đó ngồi kế bên anh trên máy bay đang đứng xếp hàng ở lối bên cạnh, vẫn cứ ho liên tục không ngừng suốt từ lúc ở trên máy bay đến tận bây giờ. Người này mặc áo khoác vải tuýt kiểu cũ, dày quá mức so với thời tiết hiện tại, trên chuyến bay kéo dài năm giờ đồng hồ đến nước C đã phải uống tới bốn viên aspirin vì có triệu chứng ớn lạnh và đau đầu nghiêm trọng. Tiếp viên nói chắc là do máy lạnh, rồi mang tới hai cái chăn tự tay đắp cho vị khách đó. Có vẻ như đã uống thuốc mà cơn sốt vẫn không hạ, vị khách bên cạnh mặt đỏ gay. Nếu biết thủ tục kiểm dịch gắt gao thế này, chắc anh đã uống trước một viên aspirin, và nếu biết mức độ lây lan cao như vậy thì anh đã sớm đề nghị đổi chỗ ngồi rồi. Nhân viên kiểm dịch khẽ liếc nhìn anh một cái rồi đưa máy bộ đàm lên miệng nói gì đó. Lẫn trong tạp âm, giọng trả lời của ai đó vang lên rồi tắt phụt, ngay sau đó, từ bên cạnh khu vực chốt kiểm tra, hai người đàn ông bước lại. Hai người này mặc bộ đồ phòng dịch to phồng, lại đeo mặt nạ kín mít, trông như mấy chiếc xuồng cao su hay cưỡi dòng nước bập bềnh trồi lên ngụp xuống. Trước ngực bộ đồ phòng dịch in khá rõ dòng chữ “Trung tâm kiểm soát bệnh dịch”. Có vẻ là nhân viên bên y tế công cộng của sân bay. Hai người đó không những phục trang giống nhau mà ngay cả chiều cao, khổ người cũng tương tự, chẳng có điểm gì khác biệt. Mặt nạ che kín không nhìn thấy mắt, nhưng chắc chắn là họ đang chú mục vào anh. Tim anh bắt đầu đập loạn nhịp. Chẳng biết vì sao nhưng tự nhiên anh có ý nghĩ không thể đứng yên chịu trói thế này được. Anh vội vàng đưa mắt nhìn quanh. Trong chớp mắt, nhân viên kiểm dịch túm lấy cánh tay anh. Bất ngờ bị nhân viên kiểm dịch giữ chặt một cách đáng ngờ như vậy, anh đành bất lực đứng im. Hai nhân viên y tế công cộng vừa tiến đến áp sát hai bên, nhân viên kiểm dịch liền buông tay anh ra. Tuy không bị túm tay nữa nhưng giờ lại bị kẹp cứng giữa hai gã cao lớn, anh toát mồ hôi, trông không khác gì bị bắt. Những người đang đứng chờ kiểm dịch và làm thủ tục nhập cảnh nhìn anh chằm chằm. Có lẽ vì cảm nhận được những ánh nhìn đó mà anh toát mồ hôi lạnh, hốt hoảng nuốt khan đến phát sặc, cơn ho khiến máu dồn lên làm mặt anh nóng bừng. Sau khi đi dọc theo một hành lang kéo dài chẳng có gì đặc biệt, anh được đưa tới một căn phòng trông như thể vừa bị nhúng vào thùng sơn trắng rồi nhấc ra. Sàn nhà lát gạch trắng, bốn vách tường và trần đều sơn một màu trắng. Chăn đệm phủ trên cái giường thấp cũng một màu trắng, bên cạnh giường, đặt chơ vơ một bộ bàn ghế cũng màu trắng nốt. Tất cả mọi thứ trong phòng đều tỏa ra thứ ánh sáng giống một cái bồn rửa vừa được tẩy trắng và sát khuẩn. Vì vậy căn phòng trông thật lạnh lẽo, mà thực tế là ở đây cũng đang bật điều hòa ở nhiệt độ thấp nhất tới mức có thể cảm nhận rõ cái lạnh, khiến anh mấy lần phải xoa xoa bắp tay đang nổi da gà mà bật ho một tràng. Một trong hai nhân viên y tế công cộng bảo anh ngồi xuống ghế, rồi cũng chậm rãi ngồi xuống ghế đối diện. Giọng anh ta nhẹ nhàng, lịch sự nên anh cũng thấy yên tâm phần nào. Anh đã tưởng vừa bước vào phòng là sẽ bị vật ra ngay. Nhân viên y tế công cộng cho biết thân nhiệt của anh cao hơn bình thường nên cần kiểm tra kỹ hơn, vì thế buộc phải đưa ra biện pháp là giữ anh lại như thế này, mong anh thông cảm. Câu nói chẳng có gì khó, vậy mà anh nghe không hiểu họ đang nói gì. Anh chưa thạo tiếng nước C, lại đang trong lúc hoang mang, rối trí nên ngay cả những từ đã biết, anh cũng không nghe ra được. Nhân viên y tế công cộng lặp lại lần nữa, nhưng anh cứ đờ ra nhìn như thể đã biến thành con cá trong bể cá cảnh, nhân viên còn lại có vẻ sốt ruột nên đã kiếm đâu ra ngay một cái từ điển điện tử. Với sự trợ giúp của từ điển, hai bên vừa nói vừa viết mà trao đổi câu chuyện... " *** Các cảnh báo nguy hiểm bao giờ cũng nhiều hơn so khi mối nguy thực sự xảy đến thì thường lại chẳng có một cảnh báo nào. Cũng chính vì lẽ đó mà những tờ hướng dẫn kiểm dịch và quy định phòng chống bệnh truyền nhiễm dán đây đó khắp sân bay, anh cũng chỉ nhìn qua rồi ngó lơ như chẳng có gì quan trọng. Cứ nhìn cảnh báo nhiều thế kia thì rõ ràng là chẳng có gì nguy hiểm hết. Như thể đọc được ý nghĩ của anh, nhân viên kiểm dịch trong bộ đồ phòng dịch kín mít từ đầu đến chân, tay lăm lăm nhiệt kế, khẽ nhăn mặt. Không biết vì nhiệt kế báo sốt nhẹ, hay vì mùi rượu tỏa ra từ người anh. Anh cắn môi, đưa tay sờ lên trán. Trán anh hâm hấp sốt như nhiệt độ của nồi cơm điện đặt ở chế độ hâm nóng. Chuyến bay ngắn nhưng thật mệt mỏi. Ngay trước ngày bay anh vẫn liên tục làm việc quá sức, rồi cơn say váng vất đêm qua giờ vẫn còn nguyên vẹn. Tay anh còn nóng hơn cả trán. Cổ tay anh buốt nhói, còn lòng bàn tay thì bỏng rát như thể đã gồng hết sức nắm chặt vật gì đó quá lâu. Nhìn lại thì thấy lòng bàn tay anh đầy những vết bầm tím. Chỉ hơi gắng sức một chút là đã dội lên một cơn đau nhức nhối. Lần này, nhân viên kiểm dịch kê nhiệt kế vào tai phải anh. Tiếng nhiệt kế hoạt động bên tai nghe hệt âm thanh báo động. Như phản ứng lại âm thanh đó, anh bật ra một con ho ầm ĩ. Nhân viên kiểm dịch lập tức đứng lùi lại một bước. Phát sinh ra thủ tục kiểm dịch thế này là vì đang có một căn bệnh truyền nhiễm. Còn chưa xác định được con đường lây truyền, căn bệnh đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia đầu tiên phát hiện mầm bệnh, lan nhanh và bùng phát hầu khắp các nước trên thế giới, hệt như một cái đệm rơm bắt lửa. Con đường lây nhiễm chưa rõ, thuốc điều trị còn đang trong giai đoạn nghiên cứu, mức độ lây lan cao, thêm vào đó, để đảm bảo nguồn vắc xin còn khan hiếm, một cuộc đấu đá ngấm ngầm giữa các nước đã nổ ra và đang trong hồi quyết liệt... vậy nhưng cũng may là tỷ lệ tử vong không cao lắm. Theo như thời sự trong nước đưa tin, anh thấy dù cho căn bệnh đó có nguy hiểm đến đâu đi nữa, chỉ cần giữ gìn vệ sinh cá nhân thật tốt thì cũng chẳng có gì đáng lo cả. Vị khách trước đó ngồi kế bên anh trên máy bay đang đứng xếp hàng ở lối bên cạnh, vẫn cứ ho liên tục không ngừng suốt từ lúc ở trên máy bay đến tận bây giờ. Người này mặc áo khoác vải tuýt kiểu cũ, dày quá mức so với thời tiết hiện tại, trên chuyến bay kéo dài năm giờ đồng hồ đến nước C đã phải uống tới bốn viên aspirin vì có triệu chứng ớn lạnh và đau đầu nghiêm trọng. Tiếp viên nói chắc là do máy lạnh, rồi mang tới hai cái chăn tự tay đắp cho vị khách đó. Có vẻ như đã uống thuốc mà cơn sốt vẫn không hạ, vị khách bên cạnh mặt đỏ gay. Nếu biết thủ tục kiểm dịch gắt gao thế này, chắc anh đã uống trước một viên aspirin, và nếu biết mức độ lây lan cao như vậy thì anh đã sớm đề nghị đổi chỗ ngồi rồi. Nhân viên kiểm dịch khẽ liếc nhìn anh một cái rồi đưa máy bộ đàm lên miệng nói gì đó. Lẫn trong tạp âm, giọng trả lời của ai đó vang lên rồi tắt phụt, ngay sau đó, từ bên cạnh khu vực chốt kiểm tra, hai người đàn ông bước lại. Hai người này mặc bộ đồ phòng dịch to phồng, lại đeo mặt nạ kín mít, trông như mấy chiếc xuồng cao su hay cưỡi dòng nước bập bềnh trồi lên ngụp xuống. Trước ngực bộ đồ phòng dịch in khá rõ dòng chữ “Trung tâm kiểm soát bệnh dịch”. Có vẻ là nhân viên bên y tế công cộng của sân bay. Hai người đó không những phục trang giống nhau mà ngay cả chiều cao, khổ người cũng tương tự, chẳng có điểm gì khác biệt. Mặt nạ che kín không nhìn thấy mắt, nhưng chắc chắn là họ đang chú mục vào anh. Tim anh bắt đầu đập loạn nhịp. Chẳng biết vì sao nhưng tự nhiên anh có ý nghĩ không thể đứng yên chịu trói thế này được. Anh vội vàng đưa mắt nhìn quanh. Trong chớp mắt, nhân viên kiểm dịch túm lấy cánh tay anh. Bất ngờ bị nhân viên kiểm dịch giữ chặt một cách đáng ngờ như vậy, anh đành bất lực đứng im. Hai nhân viên y tế công cộng vừa tiến đến áp sát hai bên, nhân viên kiểm dịch liền buông tay anh ra. Tuy không bị túm tay nữa nhưng giờ lại bị kẹp cứng giữa hai gã cao lớn, anh toát mồ hôi, trông không khác gì bị bắt. Những người đang đứng chờ kiểm dịch và làm thủ tục nhập cảnh nhìn anh chằm chằm. Có lẽ vì cảm nhận được những ánh nhìn đó mà anh toát mồ hôi lạnh, hốt hoảng nuốt khan đến phát sặc, cơn ho khiến máu dồn lên làm mặt anh nóng bừng. Sau khi đi dọc theo một hành lang kéo dài chẳng có gì đặc biệt, anh được đưa tới một căn phòng trông như thể vừa bị nhúng vào thùng sơn trắng rồi nhấc ra. Sàn nhà lát gạch trắng, bốn vách tường và trần đều sơn một màu trắng. Chăn đệm phủ trên cái giường thấp cũng một màu trắng, bên cạnh giường, đặt chơ vơ một bộ bàn ghế cũng màu trắng nốt. Tất cả mọi thứ trong phòng đều tỏa ra thứ ánh sáng giống một cái bồn rửa vừa được tẩy trắng và sát khuẩn. Vì vậy căn phòng trông thật lạnh lẽo, mà thực tế là đây cũng đang bật điều hòa ở nhiệt độ thấp nhất tới mức có thể cảm nhận rõ cái lạnh, khiến anh mấy lần phải xoa xoa bắp tay đang nổi da gà mà bật ho một tràng. Mời các bạn mượn đọc sách Tro Tàn Sắc Đỏ của tác giả Pyun Hye Young & Kim Ngân (dịch).
Vì Em Yêu Anh - Debbie Macomber
Tập trung vào chuyện tình của Christie và Bobby, chính là chuyện cổ tích về một nàng Lọ Lem hiện đại, duy mỹ và siêu thực.  Không có ai tầm thường và thiếu hi vọng như Christie khi nàng cặm cụi để tuổi xuân trôi trong tiệm thẩm mỹ, nhưng nàng vụt sáng thành công chúa khi tình yêu của Bobby đến như mặt trời tỏa rạng quanh nàng.  *** Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... *** Chiều tối thứ Năm, trên đường về nhà, Teri Polgar ghé vào cửa hàng tạp hóa. Vừa tha thẩn mua thức ăn, cô vừa nghĩ đến món đặc biệt sẽ làm tối nay - món thịt hầm mì ống và pho mát. Nghe có vẻ hợp với một tối mùa đông hơn là một tối giữa tháng Bảy, nhưng Teri thích món này vào mọi thời điểm trong năm. Và còn Bobby nữa chứ, Bobby thì hầu như chẳng bao giờ để ý đó là mùa gì, hay thậm chí là giờ nào trong ngày. Về đến nhà, Teri thấy chồng mình đang ngồi trước bàn cờ, tập trung cao độ. Điều này chẳng có gì là lạ. Nhưng lần này, cái bàn cờ lại đặt trên bàn ăn và em trai cô đang ngồi đối diện Bobby. Cả hai việc này đều bất bình thường. Johnny cười ngượng ngập khi Teri bước vào phòng với một túi đầy thực phẩm trên tay. “Em chỉ định rẽ qua nhà chị chơi một chút nhưng anh Bobby lại nằng nặc đòi chỉ cho em vài nước”, cậu giải thích. Bobby lẩm bẩm điều gì đó, có lẽ là để công nhận sự xuất hiện của cô. Anh rất hay nói chuyện một mình, chìm trong thế giới của những quân cờ của riêng anh. Nói là chồng cô hơi đặc biệt chưa đủ. Bobby vốn là người rất giỏi trong làng cờ quốc tế và anh là một trong những tay cờ hàng đầu thế giới. “Thế nào rồi?”. Teri vừa đặt túi đồ lên quầy bếp vừa hỏi. Johnny nhún vai, “Vẫn chưa có manh mối nào. Hỏi anh Bobby ấy”. “Chào anh, anh yêu”, cô vừa lướt sang phía bàn bên kia vừa hỏi chồng. Cô nhẹ nhàng vòng tay ôm cổ anh và đặt lên đó một cái hôn thật nồng nàn. Bobby siết chặt tay vợ và nhìn sang phía Johnny. “Em nhớ phải luôn bảo vệ hậu đấy nhé!”, anh khuyên cậu em trai vợ và cậu ta kiên nhẫn gật đầu. “Em ở lại ăn tối nhé?”. Cô bảo Johnny. Việc em trai cô ghé thăm vào một ngày trong tuần thế này là một ngạc nhiên thú vị. Teri rất tự hào về Johnny nhưng luôn cảm thấy cần phải bảo vệ cậu em trai của mình. Cô cho rằng điều này là hoàn toàn tự nhiên vì cô đã một mình nuôi dạy cậu. Giống Bobby, nhưng theo một cách hoàn toàn khác, gia đình cô cũng khá đặc biệt. Gần đây nhất, cô tính ra là mẹ mình đã lấy chồng tới sáu lần. Hay là bảy lần nhỉ? Teri không thể nhớ chính xác. Em gái cô cũng giống mẹ, chỉ có điều Christie đủ minh mẫn để không cưới những kẻ dễ dãi từng bước chân vào cuộc đời mình rồi lại nhanh chóng ra đi. Bản thân Teri cũng không tránh khỏi những bài học cay đắng nhất của cuộc đời, đặc biệt là những bài học liên quan tới loại đàn ông “dùng và lợi dụng”. Teri vẫn khó mà tin rằng Bobby Polgar có thể yêu cô. Cô làm việc ở một tiệm làm tóc và móng nghệ thuật. Cô luôn cho rằng bản thân có sự cách biệt lớn so với những người trí thức. Bobby luôn nói rằng cô có một thế giới tri thức thật sự, thiết thực và nhạy bén hơn những người làm việc trí óc như anh. Cô yêu anh vì lời nói ấy và thậm chí bắt đầu tin rằng đó là sự thực. Thật ra, cô yêu con người anh và yêu tất cả những gì thuộc về anh. Với cô, hạnh phúc này vẫn mới mẻ và nó làm cô hơi lo sợ. Cô có lý do để lo lắng, xuất phát từ thực tế, mặc dù không đến mức khiến cô mất ăn mất ngủ. Gần đây có hai người đàn ông đã tiếp cận cô, đó là kiểu người giống như những nhân vật trong một đoạn của bộ phim Sopranos . Cả người họ toát lên vẻ găng-xtơ. Mặc dù họ chưa thực sự làm gì cả, ngoài việc làm cô sợ hãi trong vài phút. Rõ ràng những tên khủng bố này được thuê để đe dọa Bobby. Dường như thông điệp của chúng là, dù Bobby có là ai đi chăng nữa, thì bất kể lúc nào, ông chủ của chúng cũng có thể tiếp cận cô. Tệ thật. Teri rất có ý thức cảnh giác khi đi trên đường phố và cô biết cách tự lo cho bản thân mình, tuy nhiên cô cũng phải thừa nhận là hai gã đó đã khiến cô phải lo lắng một chút. Nếu Bobby biết ai là kẻ phải chịu trách nhiệm về mối đe dọa nhằm vào cô, anh cũng không nói. Nhưng cô để ý thấy rằng anh chồng yêu quý của mình không hề tham gia vào cuộc đấu cờ nào kể từ khi những gã đàn ông đó tiếp cận cô. “Em phải về,” Johnny trả lời khi Teri mời ở lại ăn tối. ... Mời các bạn đón đọc Vì Em Yêu Anh của tác giả Debbie Macomber.