Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bến Xe (Thương Thái Vi)

Chiếc xe nào cũng phải rời bến, con đường nào cũng phải có điểm dừng.Trong cuộc sống hiện thực, khi mỗi con người cất tiếng khóc chào đời, rồi lớn lên, rồi trưởng thành, rồi gặp được người trong định mệnh… Tất cả những giai đoạn đó, đều tuân theo một quy luật đã được định sẵn, quy luật đó mang tên “Vận mệnh”. Khi đọc "Bến Xe" của tác giả Thương Thái Vi, tôi mới thấm thiết cái quy luật mang tên "Vận mệnh" đó lại tàn nhẫn và bất công đến mức khiến tôi cảm thấy sợ hãi, không ai có thể tự lựa chọn vận mệnh cho mình, chúng ta có thể là thiên tài nổi trội cũng có thể là một con người bình thường trong dòng dòng xã hội. Tuy nhiên, chúng ta có thể dùng nghị lực để thách thức rồi đối đầu với chính vận mệnh đó, và cuộc đời của thầy Chương Ngọc cùng với cô học trò nhỏ của thầy trong "Bến Xe" là một trường hợp điển hình.

Đầu tiên phải gửi lời cám ơn chân thành đến tác giả lẫn dịch giả của quyển "Bến Xe", nếu không có tác giả, nếu không có dịch giả, chắc chắn tôi sẽ không được thưởng thức và trải nghiệm một tác phẩm có tính nhân văn về cuộc sống, đời người cao đến như thế. Khi đọc xong "Bến Xe", tôi chỉ có một suy nghĩ duy nhất, đó chính là hối tiếc, hối tiếc vì sao tôi không biết đến tác phẩm sớm hơn. Đây không phải lần đầu tiên tôi đọc thể văn buồn, nhưng có thể khẳng định đây là lần đầu tiên tôi được đọc một tác phẩm ấn tượng đến như thế, ấn tượng đến mức khiến tôi phải lần đọc từng câu từng chữ vì sợ bỏ sót từ nào đó, khiến tôi hòa cả tâm hồn mỗi khi đọc tác phẩm, khiến mỗi một cử chỉ của hai nhân vật đều khiến tôi bất ngờ với chính phản ứng của mình, có khi cười, có khi khóc… Nhưng tôi chỉ có thể nói một điều: Đây là một tiểu thuyết chấn động nhất mà tôi từng được đọc.

Khi đọc "Bến Xe", tôi hoàn toàn sững sốt vì cách hành văn của tác giả, đó là một giọng văn hoàn toàn khác so với những tiểu thuyết và tôi từng được đọc. Bạn đừng bất ngờ khi thấy hầu hết các đoạn trong tác phẩm đều tập trung miêu tả tâm lý nhân vật, diễn biến cảm xúc nhân vật, lời thoại lại rất ít, nhưng có lẽ đó chính là cái được gọi là “nghệ thuật” không lẫn với bất kỳ tác giả nào của Thương Thái Vi và cũng chính nó đã tạo thành điểm nhấn riềng cho tác phẩm. Khi đọc, tôi hòa cả tâm hồn vào tác phẩm, tôi tưởng tượng dáng vẻ của thầy Chương Ngọc, gương mặt của Liễu Địch, mường tượng hình ảnh bến xe… Thay vì mọi người gọi đó là ám ảnh khi đọc truyện buồn, thì xin cho phép tôi dùng hai chữ “Thăng hoa” để diễn tả cảm xúc đó.

Nếu nói “Bến Xe” là một quyển tiểu thuyết tình cảm, tôi không phủ nhận, nhưng nó lại không hoàn toàn đúng. Sau khi đọc hết tác phẩm, tôi mới rút ra một kết luận, đây là thực chất chính là một cuốn sách tài liệu về cuộc đời của một thiên tài, một người thầy có tên Chương Ngọc qua cái nhìn của người thầy yêu nhất, hiểu thầy nhất. Chính vì nó là một cuốn sách tài liệu nên nó cũng bao hàm rất nhiều giá trị khác của cuộc sống, giá trị nhân cách con người, giá trị tâm hồn con người, giá trị xã hội thực tiễn, giá trị tình yêu đích thực và cả giá trị mang tên cái nhìn thiển cận của loài người.

Nếu so sánh thầy Chương Ngọc - nam chính - linh hồn của truyện với những nhân vật khác trong các quyển tiểu thuyết khác, tôi chỉ có thể hình dung thầy bằng hai chữ “Hoàn hảo”, hoàn hảo về nhân cách, về tâm hồn và là cả con người thầy. Có thể thầy khiếm khuyết rất nhiều, thầy chỉ có đôi tay trắng, bộ óc thiên tài, trái tim nhân từ và tâm hồn mạnh mẽ… Nhưng có mấy ai có thể đối mặt và chấp nhận số phận được như thầy. Thầy chưa một lần trách cứ vận mệnh lấy đi của thầy tất cả, thầy chưa một lần ai oán người mất đi tất cả như thầy lại sống vất vả hơn bất kì kẻ lành lặn nào. Thầy đẹp hơn bất kỳ ai, thầy hoàn mỹ hơn bất kỳ ai và tình yêu của thầy cũng thuần khiết, cao cả và mãnh liệt hơn bất kỳ ai. Tìm mua: Bến Xe TiKi Lazada Shopee

Cuộc sống của thầy có thể tăm tối, nhưng con người của thầy lại chói sáng một cách lạ thường; Học vị của thầy có thể thấp, nhưng kiến thức của thầy lại cao rộng đến mức khiến người khác đố kị. Đôi mắt thầy có thể không nhìn thấy gì, nhưng cửa sổ tâm hồn của thầy lại rực sáng đầy sức sống. Con người thầy có thể lạnh lùng, nhưng trái tim thầy lại ấm áp đến mức có thể sưởi ấm cho cả một không gian rộng lớn. Cuộc sống của thầy có thể nghèo túng, nhưng nhân cách của thầy lại cao cả như bầu trời bao la. Và với người được xem là không có quyền yêu và được yêu như thầy, thì tình yêu từ trái tim lại to lớn như biển rộng không có giới hạn. Có lẽ sự hoàn mỹ của thầy chỉ được phát sáng khi ngôi sao chiếu mệnh của thầy xuất hiện, cô học trò bé bỏng tài hoa Liễu Địch của thầy chính là ngọn đèn soi sáng thế giới mênh mông vô bờ nhưng lại đen tối trong cuộc đời thầy.

“Em…em có thể cho tôi “ngắm” em không?”

“Em chắc chắn không phải là vịt con xấu xí, em là một thiên nga trắng. Ít nhất trong lòng tôi, em mãi mãi là thiên nga trắng đẹp nhất”

“Tôi thật sự hy vọng… lúc này… đôi mắt tôi có thể bừng sáng, cho dù chỉ một phút. Một phút thôi cũng được, tôi nguyện dùng cả sinh mạng của mình để đánh đổi”

Nếu nói về giá trị tình yêu trong tác phẩm, tôi xin khẳng định rằng, không có tình yêu nào thầm lặng nhưng lại mãnh liệt như tình yêu của thầy Chương Ngọc dành cho Liễu Địch. Tình yêu đó gần như là thuần khiết không nhiễm một tạp chất, gần như là trong sáng không vướn một hạt bụi trần… Thầy yêu, thầy yêu cô học trò bé nhỏ của thầy, tình yêu đó chưa từng được biểu lộ, nhưng tình yêu đó lại được thầy triển khai bằng hành động, thầy thông tuệ như thế, thầy sáng suốt như thế… Thầy làm sao có thể để bản thân một người khiếm thị như mình ảnh hưởng đến tương lai của cô. Trong suốt quá trình đọc truyện, hơn bất kỳ ai, hơn bất kỳ một độc giả nào, tôi luôn hy vọng “Bến Xe” hãy ảo hơn một chút, hãy không thực tế hơn một chút, tôi từng hy vọng “Bến Xe” hãy cho tôi một chút cảm giác đó là tiểu thuyết, hãy cho thầy được quyền yêu và được yêu, hãy để cuộc sống mất mát quá nhiều thứ của thầy được bù đắp.

Điều mà tôi ngưỡng mộ nhất ở tác giả Thương Thái Vi là cách xây dựng tình tiết truyện “Bến Xe”, trong suốt quá trình đọc truyện, tôi hồi hợp và thậm chí đã bị sốc với diễn biến của truyện. Tôi ngẩn ngơ vì bất ngờ với lối xây dựng tình huống của cô. Có một điều khiến tôi tâm đắt khi đọc “Bến Xe”, đó chính là truyện quá thực tế, cách tác giả Thương Thái Vi miêu tả hiện thực trong truyện thực tế đến mức tôi cảm thấy trần trụi. Đúng vậy, đó là trần trụi.

Bi kịch chính là những thứ đẹp đẽ bị hủy bỏ, Thầy Chương chính là vẻ đẹp bị số mệnh hủy diệt. Nhưng vẻ đẹp kiểu gì vẫn cứ là đẹp, dù có bị nghiền nát thành mảnh vụn cũng vẫn đẹp.

Xã hội luôn như thế, những cá thể tạo thành một xã hội như chúng ta luôn khắc nghiệt và lạnh lùng đến mức dửng dưng với một con người khiếm khuyết như thầy Chương Ngọc, con người như chúng ta luôn đố kị với tài hoa của người khác, luôn bực tức khi bản thân mình kém hơn người khác vì thế chúng ta cũng bài xích và phủ định những người khuyết tật nhưng lại tài giỏi hơn chúng ta. Tàn nhẫn hơn nữa là dư luận, chúng ta là một trong những người đan chỉ thành tấm vải dư luận, dư luận là gì? Dư luận không hề nuôi sống chúng ta, nhưng tại sao dư luận lại là sức mạnh vô hình có thể quyết định sinh tử của một người. Có lẽ tác giả đã thông qua “Bến Xe” để lên án bóng tối trong mỗi con người, thông qua tác phẩm tác giả muốn chúng ta nhìn nhận về khuyết điểm của dư luận.

"Danh dự là gì? Nói trắng ra, danh dự chính là cách nhìn của người khác về bạn. Bạn có danh dự hay không, không phải vấn đề bản thân bạn có trong sạch hay không, mà là vấn đề người khác có thừa nhận bạn hay không? Vì vậy từ xưa đến nay, rất nhiều người dùng cái chết để chứng minh sự trong sạch và bảo vệ danh dự của bản thân. Cách làm này tuy tiêu cực nhưng cũng hữu hiệu nhất. Bởi vì trong hiện thực cuộc sống, con người không dễ thông cảm cho người sống, mà dễ thông cảm cho người chết. Con người thường nhớ tới khuyết điểm của người sống. Một khi người đó chết đi, con người sẽ dễ nhớ đến ưu điểm của họ. Vì vậy, dùng cái chết để chứng minh sự trong sạch, tuy phải bỏ cả mạng sống nhưng phần lớn có thể đạt được mục đích. Chỉ là, khi mỗi sinh mệnh sống tìm cách bảo vệ danh dự, càng nghiệm chứng một cách sâu sắc sự tàn khốc của xã hội".

Cho đến lúc này, nữ chính Liễu Địch là nhân vật nữ mà tôi thích nhất. Tôi thích Liễu Địch không phải do cô xinh đẹp, thông minh mà do cô mạnh mẽ và kiên định. Với một cô gái chỉ hơn 18 tuổi, cô còn quá nhỏ để đối mặt với tình yêu, với cuộc sống và với sự tàn nhẫn của dư luận, nhưng cô lại kiên định đến mức khẳng định cô chỉ yêu và yêu một người. Cô là vận mệnh của thầy, thầy là số kiếp của cô. Cô thắp sáng cuộc đời tối tăm của thầy, thầy lại là con thuyền đưa cô đến với tương lai tươi sáng. Nếu không có thầy, Liễu Địch chưa chắc đã thành công, nếu không có cô, chưa chắc cuộc đời của thầy Chương Ngọc sẽ đủ màu sắc.

Tình cảm của tôi đối với thầy, gồm cả sùng bái, ái mộ, khát khao, quyến luyến… Đây là tình cảm đã được tôi luyện qua ba năm, tôi và thầy cùng trải qua phong ba bão táp, là tình cảm nảy sinh từ sự tin tưởng, chia sẻ cùng nhau.

Nhưng Liễu Địch còn quá nhỏ để nhận ra tình yêu của thầy dành cho cô, nhận ra lời tỏ tình của thầy trong những câu hát, sự quan tâm của thầy trong hành động, sự yêu thương của thầy trong lời nói… Và hơn nữa là trái tim bé nhỏ của cô đã yêu thầy khi mà cô không hề phát hiện. Đó là tình thầy trò hay đó là tình yêu? Liễu Địch không thể biết được, cô còn quá nhỏ để nhận thức được tình yêu cô dành cho thầy, nhận ra rằng đó là “yêu” chứ không phải “sùng bái”.

Nhưng khi ngòi thuốc tình yêu trong lòng cô được châm đốt, rồi nhen nhóm, rồi phát sáng và bùng nổ. Cô đã khẳng khái đối mặt với nó, cô muốn nói “cô yêu thầy”, cô muốn nói cô nguyện cùng thầy vượt qua tất cả… Nếu vận mệnh ít trớ trêu hơn, nếu cuộc sống công bằng hơn, nếu đời người có chữ "nếu". Điều tiếc nuối nhất của tôi đó chính là cuối cùng thầy Chương Ngọc vẫn không thể nghe được lời nói yêu của Liễu Địch dành cho thầy, thầy dùng tính mạng của mình để “thành toàn” cho cuộc đời của cô, cho tương lai của cô, cho danh dự của cô, giá như cô về sớm hơn, giá như cô nhận ra sớm hơn…Nhưng tất cả đã quá trễ, trễ một ngày, trễ một mối tình và trễ cả cuộc đời.

Bi kịch thật sự không phải là cái chết, sự chia lìa mà bi kịch thật sự chính là chúng ta không tìm được người đáng để chúng ta trả giá trong cuộc đời của mình.

“Con từng nói, sinh mệnh và linh hồn của con đã hòa nhập vào sinh mệnh và linh hồn của thầy Chương. Bây giờ, con chính là thầy, thầy chính là con, tác phẩm thầy chưa hoàn thành, con sẽ viết thay thầy; mơ ước thầy chưa thực hiện, con sẽ thực hiện giúp thầy; Con đường thầy chưa đi hết, con sẽ tiến bước thay thầy; Huy hoàng thầy chưa kịp tạo ra, con sẽ tạo giúp thầy. Con sẽ vì thầy sống vui vẻ, sống ngoạn mục. Con sẽ cùng thầy bước ra khỏi bóng tối, đi tới ánh sáng!”

“Con sẽ không yêu bất kỳ người đàn ông nào. Sinh mệnh và linh hồn của con đã hòa nhập cùng thầy Chương, sao con có thể dung nạp người khác?”

“Con sẽ không oán trách số phận nữa. Con cám ơn ông trời vì đã cho con một tình yêu lâu bền nhất, cao thượng nhất, thuần khiết nhất, mãnh liệt nhất, sâu sắc nhất trên cuộc cõi đời này. Bao nhiêu người sống ở đời có được một tình yêu như vậy? Con còn điều gì không hài lòng?”

Xuyên suốt quá trình đọc “Bến Xe” tôi đã khóc rất nhiều, tôi cảm động, tôi chấn động và tôi sợ hãi. Tình yêu của thầy Chương Ngọc dành cho Liễu Địch quá cao cả và bao la, tình yêu của thầy quá thiêng liêng và rộng lớn. Tôi thích cách yêu của thầy, thầy yêu lặng lẽ, thầy yêu âm thầm nhưng đó lại là tình yêu mãnh liệt. Tôi từng nhiều lần hỏi bản thân mình, phải chăng vận mệnh của những người đa tài như thầy đều bi ai đến thế, phải chăng vì thầy quá tài hoa nên đường đời của thầy mới đầy chông gai. Có phải chỉ khi thầy là Chương Hải Thiên thì thầy mới chính là thầy đầy sức sống, vậy linh hồn và thể xác thầy về với trời biển bao la phải chăng đó mới chính là điều mà thầy muốn, nếu thế, cái kết của “Bến Xe” không chỉ thành toàn cho Liễu Địch mà còn thành toàn cho cả thầy, cho cả ước mơ khao khát của thầy nữa.

“Liễu Địch, thứ tôi có thể cho em trong cuộc đời này, chỉ có danh dự trong sạch và một tương lai tươi đẹp mà thôi. Thế nhưng, nếu chúng ta có kiếp sau, nếu kiếp sau tôi có đôi mắt sáng, tôi sẽ ở bến xe này… Đợi em”

Thầy Chương nở nụ cười, lần đầu tiên nở nụ cười tươi. Nụ cười đó trong sáng như bầu trời mùa thu không một gợn mây, rạng rỡ như ánh nắng mùa xuân…

Liễu Địch ngây ngốc dõi theo chiếc xe buýt mỗi lúc một xa, cho đến khi gương mặt và nụ cười xán lạn của thầy Chương biến mất trong sắc chiều tà.

Đó là hình ảnh cuối cùng của thầy Chương Ngọc mà Liễu Địch được nhìn thấy, và đó cũng là nụ cười đầu tiên mà thầy dành cho cô. Chiếc xe nào cũng phải rời bến, con đường nào cũng phải có điểm dừng. Hình ảnh chia xa cuối cùng của thầy và cô là hình ảnh thầy rực sáng và đẹp đẽ nhất. Đó là nụ cười bình an, đó là nụ cười thanh thản của sự chia ly vĩnh viễn.

“Tôi ra đời vì sự ra đời,

Tôi chết đi vì sự tử vong,

Tôi chết đi vì sự ra đời”

Thầy đã trở về với trời biển bao la, cảnh đẹp mà thầy thích nhất, cô cùng đã có được danh dự trong sáng và tương lai tươi đẹp như thầy muốn. Nếu vậy, không phải cái kết của “Bến Xe” rất đẹp và hoàn hảo hay sao?

Cuối cùng là chúng ta, những người sống trong xã hội hiện thực, tôi nghĩ, điều chúng ta sợ nhất không phải là gặp phải bi kịch, mà là không tìm được người chúng ta có thể yêu đến mức đánh đổi cả sinh mệnh và yêu chúng ta đến mức đánh đổi cả mạng sống. Bi kịch thật sự không phải là cái chết, sự chia lìa mà bi kịch thật sự chính là chúng ta không tìm được người đáng để chúng ta trả giá trong cuộc đời của mình.

Hãy chúc cho những người yêu và sẵn sàng trả giá, đánh đổi, hy sinh như thầy Chương Ngọc có một cái kết vui vẻ và cũng chúc những ai đánh đổi cả mạng sống vì tình yêu được bình an, thanh nhàn. Cám ơn cô Thái Vi, cám ơn chị Greenrosetq một lần nữa đã mang “Bến Xe” đến với độc giả, gieo mầm giá trị tình yêu và cuộc sống bất hữu vào lòng người đọc.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bến Xe PDF của tác giả Thương Thái Vi nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Đồng Cỏ (Nguyễn Đình Toàn)
Đồng Cỏ là một tác phẩm khác dự báo một Sài Gòn sắp mất. Nguyễn Đình Toàn mẫn cảm với thay đổi thời tiết cũng như với những biến chuyển của lịch sử. Dự cảm hay trực giác của nhà văn đi trước tấn thảm kịch, đi trước những đổ vỡ chia ly đã mang tính tiên tri. Đọc văn Nguyễn Đình Toàn, để sống với Hà Nội những ngày sắp mất nhưng cũng không bao giờ mất qua hơn 300 trang sách. Nguyễn Đình Toàn 1970, anh đã phải thốt lên: "mỗi lời dẫn cho một bản nhạc ở đây là một "nhạc thoại" một tác phẩm khác. Nó thể hiện tính thẩm văn và thẩm nhạc của người tuyển chọn là Nguyễn Đình Toàn". Rồi cuối cùng, hai người bạn họ Nguyễn ấy như Bá Nha Tử Kỳ cùng một kiếp tha hương, họ cũng đã gặp nhau không phải trên "một quê hương Việt Nam sợ hãi - chữ của Nguyễn Đình Toàn trong Đồng Cỏ" mà trên lục địa Mỹ Châu thênh thang tự do nhưng vẫn là lưu đầy. Truyện Nguyễn Đình Toàn rất giàu hình ảnh và nhiều chất thơ có thể đọc như một bài thơ xuôi/ prose poem. Khi đặt lời cho một bản nhạc thì tự thân phần lời ấy đã là một bài thơ. Nguyễn Đình Toàn viết nhạc, nổi tiếng với một số nhạc khúc, nhưng có lẽ những nốt nhạc được cất cánh từ những ý thơ ban đầu của Nguyễn Đình Toàn. Lời bản Tình Khúc Thứ Nhất đã là một thi phẩm trước khi kết hợp với phần nhạc của Vũ Thành An.***Nguyễn Đình Toàn có bút hiệu ban đầu là Tô Hà Vân nhưng thành danh với tên thật và cũng là bút hiệu chính thức sau này; sinh ngày 6 tháng 9 năm 1936 tại huyện Gia Lâm, bên bờ sông Hồng, ngoại thành Hà Nội. Di cư vào Nam 1954, Nguyễn Đình Toàn bắt đầu viết văn làm thơ, viết kịch, viết nhạc, cộng tác với các tạp chí Văn, Văn Học [trong nhiều năm, Nguyễn Đình Toàn phụ giúp Trần Phong Giao tuyển chọn thơ và truyện cho báo Văn]; Nguyễn Đình Toàn cũng viết feuilleton cho các nhật báo Tự Do, Chính Luận, Xây Dựng, Tiền Tuyến; biên tập viên đài phát thanh Sài Gòn, nổi tiếng với chương trình Nhạc Chủ Đề trong những năm 1970s. Sau 1975, cùng chung số phận như mọi văn nghệ sĩ Miền Nam, Nguyễn Đình Toàn bị bắt hai lần và đi tù cải tạo một thời gian gần sáu năm. Sang Mỹ định cư từ cuối năm 1998, Nguyễn Đình Toàn và vợ, chị Thu Hồng cùng phụ trách chương trình Đọc Sách cho đài phát thanh VOA, Nguyễn Đình Toàn còn viết cho tuần báo Việt Tide mục Văn Học Nghệ Thuật của nhà văn Nhật Tiến cho tới khi nghỉ hưu. Gia đình Nguyễn Đình Toàn hiện sống tại Nam California.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đồng Cỏ PDF của tác giả Nguyễn Đình Toàn nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe (Ma Văn Kháng)
Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tìm mua: Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe TiKi Lazada Shopee Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Đọc xong Đồng bạc trắng hoa xòe có cái mừng là thấy lớp người sau đã kế tục được lớp người trước. Và còn nhiều hy vọng vì còn trẻ, còn khỏe, còn như con ngựa mới chạy nước kiệu trên một quãng đường. Ma Văn Kháng, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, gốc người làng Kim Liên, khu Đống Đa, Hà Nội, tham gia cách mạng năm mười hai tuổi, do thói quen chung hồi ấy, đổi tên là Nguyễn Kháng, cho nó bí mật tông tích. Lên dạy học Lao Kay kết nghĩa anh em với một cán bộ huyện họ Ma, và để tỏ sự quyết tâm sống bám vùng đất này, theo lời một cán bộ tỉnh ủy khuyên: “Vùng này không thua gì Sông Đông êm đềm đâu. Cậu muốn viết văn hãy cố sống ở đây hết một giai đoạn”. Kháng đã đổi họ Ma, và sống trên đó gần một phần tư thế kỷ. Hai mươi hai năm ròng sống, làm việc, quan sát, và viết. Ma Văn Kháng tích lũy tư liệu cần cù đúng như một con kiến tha mồi vào tổ, mỗi ngày một ít, mỗi tháng một ít. Anh tham gia biên soạn lịch sử Đảng bộ Lao Kay, tham gia tổ chức hội nghị tỉnh ủy nghiên cứu chuyên đề thổ ty. Nhiều tư liệu ngấm vào anh thật tự nhiên, do việc cọ sát hàng ngày với những cán bộ H'Mông cùng cơ quan, những buổi công tác xuống huyện, xuống xã, đi tham dự các sinh hoạt dân tộc, những lễ ăn thề, lễ nào sồng, những phiên chợ, có mặt cả đám cưới đám ma các dòng họ H'Mông... Anh đọc nhiều và lấy làm biết ơn đã thừa hưởng thành quả những công trình nghiên cứu về dân tộc học, về phong tục tập quán, về ngôn ngữ H'Mông của Doãn Thanh, của Nông Trung, Lục Bình Thủy, Phạm Xuân Phúc, v.v... Anh thu thập cả những tài liệu nước ngoài viết về H'Mông như của Savina người Pháp, chuyên gia nghiên cứu H'Mông, có những nhận định về chính sách, cai trị vùng H'Mông: “H'Mông bao giờ cũng vẫn là H'Mông. Thổ ty là tất cả. Người Pháp phải tạo ra được các thủ lĩnh dân tộc ở từng địa phương và qua họ, mà cai trị đời đời ở các vùng miền núi". (Histoire des Miaos). Cho đến khi ra mắt bạn đọc hôm nay, Đồng bạc trắng hoa xòe được viết đi viết lại bốn lần. Tôi đã nhìn thấy đống bản thảo dày gần hai gang tay, bằng đủ các loại giấy thếp, giấy học sinh, giấy đánh máy, chi chít những chỗ dập xóa, chú thích bên lề... Công việc văn chương! Đáng thương biết mấy!*. Ông Goóc-ki có nói với bạn đọc, đại ý, ông khuyên những ai cho nghề viết văn là nhàn nhã, nắng không đến đầu, mưa không tới gáy, mà dấn thân vào thì thật là một lầm lẫn to lớn ở đời. Nghề viết văn thuộc lao động cực nhọc nhất trên thế gian này. Miếng da lừa (Balzac) có chín bản thảo khác nhau. Quan thanh tra (Gogol), năm bản. Người mẹ (Gorki) sáu bản, bản đầu và bản cuối cách nhau hai mươi năm. Riêng phần tả điệu múa Xalômê của Flô-be có mười bản, bản nào cũng gần như tuyệt vời. Với số tuổi như Ma Văn Kháng, ta sẽ phải hình dung anh đã vật lộn cực nhọc như thế nào để đẻ ra nổi hơn sáu trăm trang giấy, tái hiện một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng rắc rối vào bậc nhất của cách mạng Việt Nam hiện đại, tiến hành trên một vùng núi phong kiến thế tập phiên thần nghèo nàn và lạc hậu, lấy cái không gian tỉnh biên giới Lao Kay hừng hực, hỗn loạn, phức tạp, rối ren, bọc trong cái bối cảnh lịch sử ngàn cân treo sợi tóc của dân tộc: Nhật thua, Tưởng vào, Quốc dân Đảng về phá rối, Pháp trở lại xâm chiếm Nam Bộ, rồi vào Hà Nội với Hiệp định mồng 6 tháng 3, v.v... Giai đoạn lịch sử này ở miền núi lần đầu tiên được đưa vào tiểu thuyết. Có lẽ đã đến lúc rồi, chúng ta đã có điều kiện về thời gian, về khoảng cách lùi xa đủ tầm nhận thức những khúc ngoặt lịch sử có tính chất quyết định, mà tái hiện lại trong văn học đi thôi. Để cho tương xứng với tầm vóc những hy sinh to lớn, những đổi thay vĩ đại mà cuộc cách mạng theo học thuyết Mác — Lênin đã được những người cộng sản Việt Nam tiến hành trên đất nước này, cũng là lần đầu tiên trên thế giới. Và chỉ có loại hình tiểu thuyết mới kham nổi dung lượng ấy mà thôi. Ma Văn Kháng đã cảm thấy thế. Từ một câu chuyện định viết về tiễu phỉ năm 1955, anh đã chuyển sang tiểu thuyết, khi bắt được tia chớp hai cán bộ Việt Minh đơn độc vào vùng các châu miền đông Lao Kay: Bắc Hà, Pha Long, Mường Khương, thuyết phục thổ ty Hoàng Yên Chao, La Văn Tờ, ba anh em viên tri châu họ Nông... cùng tham gia đánh Pháp, đánh Việt Nam Quốc dân Đảng, giải phóng Lao Kay 1946 (Sau này vào truyện anh có đổi tên đi ít chút, cho nó được thoải mái trong sự sáng tạo). Cuốn truyện mở ra trước chúng ta cái thị xã biên giới Lao Kay đang bị bọn tranh giành quyền lợi Việt Nam Quốc dân Đảng chiếm đóng, rút chạy từ Vĩnh Yên, từ Việt Trì, từ Yên Bái dồn lại sống thoi thóp ở đây, thất vọng chán chường, vỡ mộng, nhưng vẫn đầy mưu mô xưng bá đồ vương, nhờ sự hà hơi của bọn Tàu Tưởng, theo Hiệp nghị, đã phải về bên kia biên giới. Những cán bộ Việt Minh được Đảng điều lên vận động quần chúng làm hậu thuẫn cho lực lượng vũ trang nhân dân: Vệ quốc đoàn, đã tiến đến Yên Bái, đang dừng lại chuẩn bị kế hoạch tấn công giải phóng thị xã Lao Kay. Người đọc hào hứng đi theo hai cán bộ Việt Minh, cưỡi hai con ngựa, gần như tay không, vào một vùng đất lâu đời nơi biên cương heo hút, với các chế độ thổ ty kỳ quặc từ bao thế kỷ, những phong tục tập quán thật kích thích và lạ lùng, và nhất là với tâm hồn người dân tộc thiểu số anh em đáng thương và đáng quí mà chúng ta chưa được biết là bao. Những đốm lửa cách mạng đã được đốt lên trên vùng hoang vắng trùng điệp núi non này, lòng yêu nước được khơi động, và quần chúng nhân dân anh em đã tề tựu dưới lá cờ Tổ quốc, cùng Vệ quốc đoàn tiến vào giải phóng Lao Kay, thành lập chính quyền Dân chủ nhân dân chậm nhất trong các tỉnh miền Bắc, nhưng đã thành công. Cuốn truyện đóng lại vào cuối năm 1947, trong một trận đánh trên đèo Mã Yên Sơn, lúc này bọn thổ ty đã phản bội, liên kết với thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hành quân chiếm đóng Lao Kay. Thị xã đã lệnh sơ tán, tiêu thổ kháng chiến, theo chủ trương trường kỳ kháng chiến bấy giờ. Cuốn sách dừng lại ở đầu một khúc ngoặt mới: Cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp, có ngụ ý mở cửa cho một cái gì sau này nữa đây. Và Đồng bạc trắng hoa xòe đã dựng lên hàng loạt nhân vật, lối đa tuyến bình đồ, không ai là chính cả, hay nói một cách khác, nhân vật nào cũng có đường dây riêng, phát triển tâm lý và tính cách như là một nhân vật chính. Những tuyến nhân vật đan chéo nhau rối rắm như một mớ tơ vò, với những tâm trạng, những số phận, những cảnh ngộ nhiều hình nhiều vẻ, nhưng rồi cái nào vẫn kéo ra cái ấy, giống như một sợi tơ chuốt nõn trong tay người quay sa kéo ra từ đống tơ vò nọ. Không gian chuyển dịch luôn luôn, tạo một cảnh tượng rộng lớn cho bức tranh văn học, có điều kiện để các nhân vật thỏa sức vẫy vùng. Nhịp độ nhanh, nhiều sự việc, nhiều hành động. Lối dựng này đáp ứng được dung lượng rộng lớn của những cơn lốc cách mạng, hàng loạt người lột xác hoặc thoái hóa, sự đổ vỡ của những giá trị cố hữu, những ngã ba đường, sự đụng độ giữa chân thiện mỹ với những thế lực hắc ám đã tàn tạ. Lối dựng này rất ít thấy trong tiểu thuyết nước ta. Viết Rừng động, Mạc Phi đã rất công phu thu thập tư liệu, muốn dựng lên một bức tranh lớn về những đổi thay của đồng bào Thái Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chuyển mình chín năm của dân tộc. Anh đã có những thành công về vùng người Thái. Cũng như Nguyên Ngọc đã có những thành công về miêu tả dân tộc anh em Tây Nguyên trong Đất nước đứng lên. Ma Văn Kháng đặc biệt thành công về các nhân vật người H'Mông. Nhiều người đọc sách anh cứ đinh ninh tác giả là người dân tộc. Dân tộc H'Mông, tất nhiên. Không phải lòe thiên hạ bằng những ngôn từ cụ thể lối so sánh chất phác với cái tên cây cối trong rừng, ví von với con hươu con nai bằng tiếng gọi địa phương là lạ, hoặc đôi lúc nhét một vài từ dân tộc trong lời thoại cho nó có sắc thái là người miền núi. Nghe cứ tức anh ách. Ma Văn Kháng học theo lối sử dụng cách nói miền núi của nhà văn Tô Hoài. Và cái chính là anh đã sống nhiều năm với người miền núi. Sống có tình. Anh mô tả các dân tộc Lao Kay bằng một thứ tình cảm chồng vợ, anh em ruột thịt. Những con người xa lạ tưởng như khó hiểu và man rợ trên vùng núi biên cương, bỗng nhiên thành gần gũi thân quen, đúng là anh em một nhà. Những cảnh sắc tưởng như buồn tẻ, hoang sơ, từ khai thiên lập địa, bỗng rực rỡ đẹp... Ma Văn Kháng đã làm như nhà văn Tô Hoài, chấm phá vẩy hồn vào cảnh vật, khiến chúng lung linh, rực rỡ, hấp dẫn, kích thích làm sao! Và tôi đoán chắc rằng, những ai thường ngần ngại khi được điều lên công tác Lao Kay, đọc xong cuốn truyện, hẳn sẽ an tâm đi nhận công tác, trút thoát được cái nặng nề trong tâm khảm vô căn cứ, khi đã đeo con mắt của tác giả Đồng bạc trắng hoa xòe. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng theo lối vẽ long trong mây. Con rồng đẹp cứ giấu mình trong mây che chỉ lộ ra những khúc lượn vàng son có hạn, nhưng cho người xem vẫn nhận được đủ cái vóc dáng mạnh mẽ thanh thoát của toàn bộ con rồng. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng lối uống rượu sớm mai. Độ rượu chỉ đủ để gây ngây ngất, quá nữa là say, dưới một chút coi là chưa uống. Biết dừng lại để gây ngây ngất mới là người biết uống rượu. Trong văn chương biết dừng lại là quí hóa lắm. Nghệ thuật viết văn của Đông Tây kim cổ thâu tóm lại cũng chỉ trong ba tiếng biết dừng lại mà thôi. Một lao động văn chương nghiêm túc thường có nhiều tác dụng lắm. Thử đeo đôi mắt một chính khách, đọc Đồng bạc trắng hoa xòe, bỗng nhận ra rằng: Thì ra bọn Pháp trước đây, bọn Mỹ vừa rồi, bọn phản động hiện nay đều chú ý đến vấn đề người H'Mông vùng Đông Nam Á chính vì thế đấy. Người H'Mông sống trên núi cao vùng giáp giới các nước Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện, móc nối nhau như một tam giác — khu tam giác vàng theo từ ngữ của Mỹ. Dân tộc H'Mông gan dạ và kiên nghị nhưng bị vây hãm bằng ngu dốt và man dại trong lịch sử, tạo cho họ một mặc cảm kỳ thị chủng tộc nặng nề, một niềm mong ước tự trị tha thiết run rẩy, đã góp phần hình thành một tính cách H'Mông đặc biệt. Phần thiếu sót của cuốn sách không đáng kể. Có chăng ở cảm giác đọc hơn một trăm trang đầu chưa thú vị lắm. Lối dựng các nhân vật phản diện Quốc dân Đảng theo một đường mòn thường thấy, đã là phản động thì xấu từ bên trong ra đến diện mạo, ăn mặc lố lăng, ngôn ngữ đểu cáng, rượu, gái, sợ chết, lại thường bị đẩy vào những tình huống tức cười ngớ ngẩn (Buổi họp thị trấn. Cảnh đón Vũ Khanh. Buổi họp ở nhà Cercle khiến chúng như một hành thi (thây ma đi, từ Đông y) đẩy ngón tay út cũng ngã. Có thể ở những đoạn mô tả các quán ăn chơi bời trước kia, tác giả chỉ được nghe kể lại, phải tưởng tượng ra nhiều hơn là từng trải (Quán Biên thùy). Có thể ở cả tâm trạng các loại người cũ, cũng thanh khí nhưng khác lạ hẳn lớp người anh, mà anh động chạm tới họ bằng những khắc họa ước lệ (Ngọc, Trọng). Sự thiếu sót này chỉ đáng ví như người đứng xem tranh thấy một vài nét màu vulgaire (tầm thường) lẫn lộn trong bức tranh sắc độ màu rất noble (cao nhã) của anh. Điều đáng tiếc thứ hai, bút lực của anh, sao mà không nhấn thêm, đậm hơn lên cái đoạn mô tả cảnh Pao lao động. Anh có thể làm được lắm! Như anh đã mô tả những đoạn tuyệt hay về cảnh hành quyết người Mèo, cảnh Pao vật ngựa, cảnh Châu Quán Lồ dạy ngựa, cảnh ngày hộ sư các lực lượng vũ trang dân tộc... Với quan điểm yêu quí người lao động như anh, bút pháp của anh, mà chỉ chấm phá vài nét cảnh Pao đi cày, thật đáng tiếc. Anh có cho biết là sợ trùng lặp với một cuốn sách khác của anh, đã mô tả kỹ cảnh này, có trích học trong sách giáo khoa. Đừng câu nệ, anh Ma Văn Kháng ạ. Cứ phải cho vào đây, để hoàn chỉnh một bức tranh đẹp, chặt chẽ về mặt nội dung tư tưởng. Công phu ra thì vẽ lại với một nuance (sắc độ) khác càng hay. Cuốn sách chưa kết thúc, nó chỉ nên coi là tập I. Chắc tác giả sẽ còn cho các nhân vật gặp nhau trong tập II, giai đoạn cuộc kháng chiến chín năm sẽ có nhiều thăng trầm, mâu thuẫn, xung đột gay cấn hơn nữa. Số phận của Châu Quán Lồ, của Pao, Lử, anh em Seng, Tếnh; những Chính, Đắc, Ngọc; những Triệu Đại Lộc, Phô-rô-pông, các viên thổ ty... còn biết bao là tâm trạng, là cảnh ngộ, là tính cách, sẽ va chạm nảy lửa.* Nếu coi đây là kết thúc thì cuốn sách lộ ra một nhược điểm lớn. Nhiều nhân vật xử lý chưa hết mức. Có những nhân vật xuất hiện ở phần một rồi mất hút (ông lão Lìu, bào lãi Lìu, sĩ quan cận vệ Mộng Huyền, võ sĩ Vận). Nếu chỉ thế thì tác giả giống như một phù thủy non tay quyết, gọi âm binh lên dày đặc, nhưng không đủ sức sai phái chúng làm hết việc, để chúng rơi vãi, thậm chí quên cả chúng đi. Ma Văn Kháng còn sung sức. Chúng tôi tin là anh còn đủ sức dắt dẫn nhân vật đi tiếp trong văn học, cho chúng ta thưởng thức những trang sách hay hơn nữa. Với Đồng bạc trắng hoa xòe, Ma Văn Kháng đã khẳng định là đứng được trong loại hình tiểu thuyết. Nó có thể coi như một cái mốc trên bước đường văn học của anh tính từ Xa phủ. Một phần năm thế kỷ sống ở miền núi, và quan sát, và viết. Một phần năm thế kỷ ấy thật đáng giá với Ma Văn Kháng. Và sự trân trọng của bạn đọc hôm nay với các tác phẩm của anh, đặc biệt với Đồng bạc trắng hoa xòe là một sự trả giá đầy ý nghĩa.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Ma Văn Kháng":Xa Xôi Thôn Ngựa GiàChim Én Liệng Trời CaoĐám Cưới Không Có Giấy Giá ThúĐồng Bạc Trắng Hoa XòeGặp Gỡ Ở La Pan TẩnMột Mình Một NgựaNgười Thợ Mộc Và Tấm Ván ThiênVõ Sĩ Lên ĐàiMùa Lá Rụng Trong VườnĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe PDF của tác giả Ma Văn Kháng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đơn Phương (Higashino Keigo)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đơn Phương PDF của tác giả Higashino Keigo nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Don Juan (George Gordon Byron)
Đông Gioăng (Don Juan) là một nhân vật huyền thoại dân gian ở châu Âu từ thời trung cổ. Còn trong văn học và nghệ thuật lần đầu tiên cái tên này xuất hiện trong một vở kịch của nhà soạn kịch Tây Ban Nha Tirso de Molina có tên “Gã quyến rũ người Sevilla và vị khách bằng đá” (El burlador de Sevilla y convidado de piedra - The Trickster of Seville and the Stone Guest). Nội dung của vở kịch này là một câu chuyện có thực ở Sevilla thế kỷ XIV. Nguyên mẫu của nhân vật huyền thoại này là Don Juan Tenorio - một chàng trai quý tộc ở Sevilla.Đông Gioăng vốn là một chàng trai dũng cảm, táo bạo và có phần vô đạo đức. Chàng đã dành cả cuộc đời mình cho việc tìm kiếm những thú vui nhục dục. Tình yêu, bạo lực và những cuộc đấu táo bạo của chàng làm cả thành phố Sevilla kinh hoàng.Để chiếm hữu được một người phụ nữ, Đông Gioăng sẵn sàng vi phạm cả luật đời cũng như luật đạo. Ngoài những cô gái quý tộc, các cô gái con nhà lành, chàng còn quyến rũ cả những ni cô xinh đẹp. Đối với đất nước Tây Ban Nha Thiên Chúa giáo thì đây là một việc làm tội lỗi. Nhưng pháp luật luôn im lặng. Bởi vì nhà vua Pedro I de Castilla là bạn của Đông Gioăng. Một lần, trong một cuộc trụy hoan có cả nhà vua, Đông Gioăng đã quyến rũ rồi bắt cóc cô con gái xinh đẹp của viên trung tá Gonzalo de Ulloa và đã giết chết người sĩ quan này. Nhưng luật pháp một lần nữa lại im lặng. Thế rồi các ni cô quyết định sẽ tự mình xử kẻ trụy lạc và giết người. Họ cho một ni cô xinh đẹp hẹn gặp gỡ với Đông Gioăng ở nhà thờ, nơi chôn viên sĩ quan bị Đông Gioăng giết chết. Khi Đông Gioăng đến đây họ đã giết chết chàng và chôn ở đó. Để tránh sự trừng phạt của nhà vua, họ loan tin rằng Đông Gioăng đã vứt bức tượng của viên sĩ quan vào địa ngục. Thời đó ở Tây Ban Nha, một sự giải thích như vậy được cho là hoàn toàn có lý.Phần kết vở kịch của Tirso de Molina khác với câu chuyện thực trên đây. Trong vở kịch này, sau khi giết chết viên sĩ quan, Đông Gioăng đã chạy trốn khỏi Sevilla. Sau một thời gian chàng trở về và tình cờ đi ngang mộ của viên sĩ quan nọ, trên mộ có dòng chữ ghi thề sẽ trả thù kẻ đã giết người. Đọc dòng chữ này, Đông Gioăng đã mời bức tượng đá đi ăn tối. Bức tượng đá đã đến và sau đó mời Đông Gioăng đến mộ mình. Đông Gioăng không thể thất hứa, đã đến ngôi mộ của viên sĩ quan nọ. Sau khi ăn tối xong, cả hai cùng rơi vào địa ngục. Người đầy tớ của Đông Gioăng báo tin cho nhà vua rằng Đông Gioăng đã bị Chúa Trời trừng phạt. Tìm mua: Don Juan TiKi Lazada Shopee Trong vở kịch của Tirso de Molina thì Đông Gioăng là một người quyến rũ không chỉ ham mê khoái lạc mà còn là một quá trình đấu tranh để chinh phục phụ nữ theo ý mình. Đông Gioăng là một kẻ chuyên đi chinh phục, không cần quan tâm đến những chiến thắng dễ dàng: “Niềm vui lớn nhất của tôi là quyến rũ phụ nữ, làm mất danh dự của họ rồi bỏ”. Tác phẩm nghệ thuật đầu tiên về Đông Gioăng là như thế. Năm 1630 vở kịch này lần đầu tiên được công diễn ở Sevilla và đã thành công vang dội. Ba năm sau đấy được công diễn ở Ý, được người Ý thêm bớt theo cách của mình và cũng thành công không kém. Tiếp đó đến Pháp, Đức và các nước châu Âu khác. Viết về Đông Gioăng có các nhà soạn kịch, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng thế giới như: Carlo Goldoni, Nikolaus Lenau, Molière, Alfred de Musset, Lord Byron, Prosper Mérimée, Aleksander Pushkin… Tất cả có gần 140 tác phẩm văn học nghệ thuật trên thế giới viết về huyền thoại này. Thường thì nhân vật không còn giống so với nguyên mẫu mà Đông Gioăng trở thành một chàng trai mơ mộng, rất lãng mạn, đôi khi còn là một chiến sĩ đấu tranh cho tự do. Theo dòng thời gian, tính cách táo bạo của Đông Gioăng được thay thế bằng tính cách dễ mến hơn, và cuối cùng, huyền thoại ở Sevilla trở thành một nhân vật vô cùng quyến rũ. Đông Gioăng ngang hàng cùng với Đông Ki-sốt (Don Quijote), Faust, Hamlet, là những hình tượng muôn thuở trong văn học, nghĩa là những hình tượng mang một ý nghĩa chung của nhân loại. Cái tên Đông Gioăng vượt ra ngoài khuôn khổ của những tác phẩm văn học nghệ thuật và được dùng không chỉ để gọi tên nhân vật. Cái tên này đã trở thành một danh từ chung, thường được sử dụng như là một hình dung từ.Theo cách hiểu chung của người đời thì “Đông Gioăng” là kẻ phóng đãng, kẻ tán gái thần sầu, kẻ quyến rũ từng làm tan nát biết bao con tim phụ nữ. Nhiều chàng “Đông Gioăng” cảm thấy một cung bậc cảm xúc cao nhất ở cái thời điểm quyến rũ và vượt qua được trở ngại. Còn khi người phụ nữ đã qui hàng thì họ lại mất đi sự hứng thú. Nhiều người đàn ông cảm thấy vui, dù thầm lặng, khi thấy người ta gọi mình là “Đông Gioăng”. Mặc dù, quả thực điều này cũng không có gì lấy làm ngạc nhiên, vì rằng nhiều khi sự phóng đãng lại hấp dẫn hơn nhiều so với đạo đức phẩm hạnh. Không phải ngẫu nhiên mà ở Sevilla người ta đã dựng tượng Don Juan Tenorio, kẻ phóng đãng đã làm cho Sevilla nổi tiếng khắp thế giới. Ở Việt Nam cái tên Đông Gioăng cũng nổi tiếng không kém và thường thường người ta hình dung Đông Gioăng là Sở Khanh. Tuy nhiên không phải tất cả đều nghĩ như vậy vì những lý do như đã nói. Dù sao, Đông Gioăng là một người tình vĩ đại, mà nguyên mẫu thì ai cũng chỉ nghe loáng thoáng qua vậy thôi. Còn chuyện hình ảnh Đông Gioăng trở thành vĩnh cửu, đời đời là bởi vì trong sâu thẳm cõi lòng, mỗi người đàn ông đều muốn được như Đông Gioăng, còn những người phụ nữ thì vẫn muốn và yêu những chàng Đông Gioăng như vậy.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Don Juan PDF của tác giả George Gordon Byron nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.