Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hồ Sơ Một Điệp Viên (Georges Simenon)

Ông cố vấn: Hồ sơ một điệp viên là một tiểu thuyết của nhà văn Hữu Mai, viết về cuộc đời hoạt động của nhà tình báo Việt Nam Vũ Ngọc Nhạ trong khoảng thời gian từ năm 1958 đến năm 1975. Tác phẩm được xuất bản lần đầu vào năm 1987, bao gồm 3 tập, và được tái bản nhiều lần. Lần tái bản gần nhất vào năm 2002, khi đó tác phẩm đã được chỉnh, hiệu đính và gom lại thành 2 tập.

Tiểu thuyết kể về cuộc đời hoạt động của nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ và mạng lưới tình báo A.22. Bằng tài năng của mình, Vũ Ngọc Nhạ đã trở thành “Ông Cố vấn” đáng tin cậy trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa, cung cấp cho Hà Nội những thông tin tình báo quan trọng, góp phần vào chiến thắng cuối cùng giải phóng đất nước.***

CUỐI năm 1969, cả Sài Gòn xôn xao vì mới tìm ra một lưới tình báo quân sự của Việt Cộng nằm ngay trong những cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam cộng hòa.

Báo chí đưa tin bằng những hàng tít lớn: “Vụ án gián điệp lớn nhất thời đại”[1], “Vụ án chính trị của thế kỷ”[2]. Các bị cáo đều là những nhân vật quan yếu trong chính phủ Sài Gòn: người là cố vấn đặc biệt của tổng thống, người là cấp bộ trưởng, người là tham chánh văn phòng bộ chiêu hồi... Có nhà bình luận còn nói trong số những người bị đưa ra xét xử, có người được coi là ứng cử viên tổng thống nhiệm kỳ sắp tới. Những cơ quan thông tin đại chúng nước ngoài, đặc biệt là của Mỹ, đã đưa nhiều tin tức về vụ án. Năm 1983 trong cuốn hồi ký của mình[3], Ralph McGehee, một nhân vật CIA kỳ cựu, đã nhận chính CIA dã làm áp lực mạnh mẽ với tổng thống Thiệu để tiến hành chiến dịch phá lưới gián điệp này. Vì nội vụ đề cập tới những nhân vật quan yếu trong chính phủ, những nhà hoạt động chính trị xã hội có uy tín rộng rãi trong quần chúng, nên người phúc trình tin tức đã được chính Dale Waites kiểm tra bằng máy dò sự thật (Polygraph Tost).

Cuối cùng, ngày 28-11-1969, chính quyền Sài Gòn đã cho mở phiên tòa quân sự tại Sài Gòn để xét xử những bị can. Trên một trăm ký giả trong và ngoài nước đã có mặt tại Nha Quân pháp ở đại lộ Bạch Đằng chật ních người đến theo dõi vụ án. Tìm mua: Hồ Sơ Một Điệp Viên TiKi Lazada Shopee

Bản cáo trạng dài 23 trang, đọc hết một tiếng rưỡi đồng hồ. Theo tường thuật trên báo chí, “Vụ án này rất căng thẳng và quan trọng, vì qua hồ sơ không có một đảng phái chính trị nào, một nhân vật chính trị nào mà không có liên quan ít nhiều đến vụ án. Xếp hồ sơ đó nặng gấp 200 lần so với bản cáo trạng đã đọc...”[4].

Sau ngày giải phóng Sài Gòn, chúng ta đã tìm được toàn bộ những hồ sơ đó tại Nha Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia của chính quyền Sài Gòn. Trong tập 1 của hồ sơ, có thể trích ra vài nhận xét sau đây: “Từ trước đến nay, ngoại trừ những giai thoại giả tưởng trong tiểu thuyết trinh thám, chưa bao giờ có những tổ điệp báo thành công đến như thế. (...) Cụm A.22 hoạt động và phát triển đều đặn và đã thi thố nhiều thủ đoạn mà chúng ta phải nhìn nhận là huyền diệu và xuất sắc... Cụm đã phát triển một hệ thống diệp vụ vô cùng quan trọng và đã len lỏi vào được nhiều cơ quan đầu não của Việt Nam cộng hòa (...) Những tin tức chiến lược mà Cảnh sát Quốc gia biết họ đã cung cấp, đều có giá trị giúp cho Hà Nội có được những dữ kiện chắc chắn khi ấn định chính sách của họ đối với cuộc chiến tranh hiện nay. (...) Các dự án quốc gia đều được Cụm A.22 thu thập và phúc trình và nhờ cụm tình báo chiến lược mà các cấp lãnh đạo Hà Nội biết nhiều điều cơ mật mà chính các Tổng Bộ trưởng Sài Gòn không biết. (...) Họ đã tiếp xúc được với các yếu nhân Việt Nam và cũng gặp gỡ đàm luận dễ dàng với các yếu nhân Mỹ như CONLON, HEAVNER, SMITH, COLBY, BURGER...”[5].

Các báo chí Sài Gòn đều ghi nhận “tất cả bị can đều có nét mặt tươi cười và rất tự nhiên”, “như đi dự đám cưới”, “tất cả cũng vẫn có vẻ đẹp trai”... Hơn hai mươi luật sư biện bộ, trong đó có những người danh tiếng nhất, đứng sau lưng họ.

Phiên tòa trở thành diễn đàn vạch rõ những mâu thuẫn trầm trọng của chế độ Sài Gòn, giữa chính quyền với các đảng phái, tôn giáo, đồng minh chiến lược Hoa Kỳ, giữa những cá nhân trong những tổ chức nảy, với những bằng chứng cụ thể không thể bác bỏ, và công khai tuyên truyền cho đường lối hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc. Một luật sư đã nói: “Là người biện hộ trong vụ án, tôi như ếch ngồi đáy giếng mà miệng giếng đã bị tổng thống Thiệu đậy lại rồi...”.

Vũ Ngọc Nhạ, người bị tố cáo cầm đầu lưới gián điệp, xuất hiện trước tòa với bộ áo trắng, quần đen, cravat nâu, ung dung cầm một xấp giấy trắng, miệng luôn luôn tươi cười. Riêng anh từ chối nhờ luật sư biện hộ cho mình và cũng không tự bào chữa. Anh tuyên bố những việc mình đã làm chỉ có lịch sử phán xét. Tất cả những bị can không ai có một lời đề nghị được khoan hồng. Nhạ và hai đồng đội chính của anh đã bị án chung thân khổ sai. “Lần đầu trong một vụ án quan trọng và trước những bản án nặng nề, người ta không hề ghi nhận một tiếng khóc nào và chỉ thấy những gương mặt vui thân và nghe những tiếng cười...”[6].

Trước rất đông công chúng tụ tập ở cửa tòa án, vây quanh chiếc xe bịt bùng đưa những người vừa bị kết án về trại giam, Nhạ nói với mọi người: “Các bạn cứ chờ xem, một trang sử mới sắp lật qua. Không còn bao lâu nữa đâu!”. Anh và các bạn hướng về những máy ghi âm, ống kính truyền hình, máy ảnh của những ký giả nước ngoài chõ về phía họ, nói bằng tiếng Pháp và tiếng Anh: “Cuộc đấu tranh chưa kết thúc, đến đây chỉ mới tạm dừng. Chúng tôi ra đi nhưng nhất định chúng tôi sẽ trở về...”

Họ đã giữ đúng lời hứa. Ba năm sau đó, họ lại xuất hiện ở Sài Gòn, tiếp tục cuộc chiến đấu trên mặt trận thầm lặng cùng với bao nhiêu đồng chí khác, trong đó có nhiều người dã lập nên những kỳ tích mà chúng ta còn chưa biết tới.

Vụ án trở thành một vấn đề thời sự sôi nổi. Dư luận cho là nó còn chứa đựng nhiều nghi vấn. Theo nguồn tin từ dinh Độc Lập, tổng thống Thiệu trong những cuộc trao đổi riêng tư đã nói đây là một việc làm xấu xa của CIA nhằm bôi nhọ uy tín cá nhân mình. Sau đó lại có tin tỉnh trưởng Côn Sơn (Côn Đảo) đã bị thay. Người ta nói tổng thống đưa người của mình ra nắm quyền hành ở Côn Sơn, để chăm sóc ông cố vấn vừa ra đó bắt đầu cuộc sống lưu đày. Giáo hoàng Paul VI cũng gửi tới Côn Sơn tặng ông nguyên cố vấn huy chương “Vì Hòa bình” với một bức thư tỏ lòng ngưỡng mộ người chiến sĩ Công giáo đã cống hiến nhiều cho hòa bình vì lý tưởng thiêng liêng của Chúa.

Cho đến những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn tháng 4-1975, Nguyễn Văn Thiệu vẫn giữ quan hệ với người cố vấn cũ của mình, coi đây là một mối quan hệ tốt đẹp trong suốt cuộc đời chấp chính.

Tập hồ sơ sau đây sẽ đưa ra ánh sáng những vấn đề đến nay còn chưa rõ ràng chung quanh vụ nghi án. Nó được trình bày dưới dạng tiểu thuyết để cho về hình thức đỡ khô khan. Tuy nhiên, điều mong mỏi chủ yếu của tác giả là được chuyển tới bạn đọc những sự kiện, những chi tiết chân xác, với những con người thật.

Bạn đọc có thể gặp nhiều nhân vật của cuốn sách này đang tiếp tục cuộc sống bình dị của họ sau những biến cố lịch sử ở nước ta, cũng như ở đâu đó một số nước ngoài. Nếu có những điều sai sót về họ, tác giả rất mong sẽ được chính họ góp ý kiến để bổ cứu cho lần in sau nếu cuốn sách có được may mắn đó.HỮU MAIDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Georges Simenon":Con Chó VàngHồ Sơ Một Điệp ViênNăm Chàng Một NàngTên Trộm Của Cảnh Sát Trưởng MaigretThanh Tra MaigretThanh Tra Maigret Và Ngài Bộ TrưởngTội Ác Trong Bóng ĐêmTrước Tòa Đại HìnhVụ Bắt Cóc Nữ Ca Sĩ Phòng TràXác Không Đầu

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hồ Sơ Một Điệp Viên PDF của tác giả Georges Simenon nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Jack London Tuyển Tập (Jack London)
Một người quyết chí thắng nghịch cảnh. Ba tháng học hết chương trình trung học và viết 51 cuốn sách trong 18 năm Những danh nhân mà thiếu thời phải làm những nghề mà hồi xưa cho là ti tiện, thì ta thường thấy: Abraham Lincoln đốn củi, cày ruộng, chăn bò chó các chủ trại; Heinrich Schliemann đong rượu, cân cá, đếm khoai cho các tiệm tạp hoá; Quản Trọng làm chú bán dầu; J.J. Rousseau làm đầy tớ cho các nhà quyền quí, nhưng chưa có nhà nào như Jack London, trôi dạt khắp nơi, từ Nhật tới Alaska (miền tây bắc Gia Nã Đại), làm đủ các nghề cực khổ: thuỷ thủ phụ rỡ hàng, hải khấu, gác dan, thợ trong các xưởng, rửa chén dĩa trong các khách sạn, cọ nhà, đào vàng; có hồi đói quá phải xin ăn, bị nhốt khám. Theo Dale Carnegie thì Jack London bị nhốt khám cả trăm lần ở Hoa Kỳ, Mễ Tây Cơ, Mãn Châu, Nhựt Bản và Triều Tiên; lần lâu nhất là ở Buffalo (Huê Kỳ) vì tội du thủ du thực. Hồi đó ông ngoài hai mươi, hết tiền, trốn trong toa xe lửa tới Buffalo, đi xin ăn từng nhà. Cảnh sát bắt ông và xử ông ba mươi ngày khổ sai. Vậy mà chỉ sáu năm sau ông nổi danh khắp xứ, được các nhà xuất bản và các nhà phê bình coi là văn hào bậc nhất đương thời. Ông thành công đột ngột và rực rỡ như vậy chính là nhờ cuộc đời ba đào của ông, nhờ ông đã gặp được rất nhiều nghịch cảnh ấy, nghĩa là ông say mê chép thành truyện những bước gian truân của ông cùng những cảnh hải hùng của vũ trụ, những nỗi đau lòng trong xã hội. Ít khi ta thấy văn chương dào dạt nhựa sống như tác phẩm của ông. Đời Jack London gồm hai thời kỳ, thời kỳ thứ nhất là thời kỳ hỗn độn, lưu lạc, cơ cực, vừa kiếm ăn vừa tự học; thời kỳ thứ nhì là thời kỳ thành công, tài năng phát triển, sáng tác liên tiếp. Tìm mua: Jack London Tuyển Tập TiKi Lazada Shopee Ông cố ông gốc gác ở Anh, qua Huê Kỳ lập nghiệp và chiến đấu anh dũng trong hàng ngũ của Washington. Than phụ ông bị thương trong trận Nam Bắc phân tranh, được giải ngũ, về nhà làm ruộng, cưới vợ, sinh một con gái tên là Eliza và sáu người con nữa; rồi goá vợ, tục huyền với cô Flora Wellman. Jack London là con dòng sau, sanh ở San Francisco ngày 12 tháng giêng năm 1876. Cho tới hồi mười tuổi, đời sống của cậu bình thường; khoẻ mạnh, thịt chắc, ngực nở, ít đau ốm. Thân phụ cậu có hồi buôn bán thua lỗ vì bị lường gạt, nhưng làm ruộng cũng đủ ăn. Cậu lại được cô Eliza, người chị cùng cha khác mẹ, âu yếm săn sóc. Nhưng gia đình vì đông con, nên phải cần kiệm, trong nhà ít khi được ăn thịt. Sau này lớn lên, Jack London có lần thú với bạn là hồi bảy tuổi, đi học ở trường San Pecho, thèm thịt tới nỗi khi thấy bạn bè gặm xương gà xong rồi liệng xuống đất, cậu muốn lượm lên để gỡ thịt thừa, có lần cậu gắp một miếng thịt trong rổ một người đàn bà nhai ngấu nghiến, nhưng xong rồi thì biết xấu hổ và không tái phạm nữa. Cậu sớm thích đọc sách và cũng như phần đông trẻ khác, ưa loại mạo hiểm, du lịch, như Đời Garfield (La vie de Garfield) của Paul du Chaillu, Alhambra của Washinton Irving; nhất là cuốn Signa của Ouida đã làm cho cậu tin rằng tương lai ở trong tay những người có đại đởm. Từ năm 11 tuổi, đời Jack London bắt đầu vất vả, cô Eliza xuất giá: chồng là một đại uý già, goá vợ. Thân phụ cậu làm ăn thất bại, gia đình mỗi ngày mỗi suy. Vì không ưa lối dạy nhồi sọ của bà giáo, cậu không tấn tới, suốt ngày ở thư viện thành phố, đọc hết cuốn này đến cuốn khác, từ sử ký, du lịch, rồi chép đặc cả nhiều tập vở, tới nỗi hoá đau: mắt mờ, đầu lảo đảo. Chẳng bao lâu cậu phải làm việc giúp nhà. Tuổi thơ của cậu tới đó là hết: dậy từ ba giờ sáng để bán báo, xong rồi mới đi học. Chiều về lại bán báo. Chủ nhật thì quét dọn cho các tiệm nước, hoặc giao nước đá cho từng nhà. Có lúc lại gác đêm cho một công ty, lượm quân ki (quille) [1]cho những người chơi say rượu. Được đồng nào cậu mang về đưa hết cho mẹ. Năm 13 tuổi, quần áo rách rưới, lam lũ quá, cậu mắc cỡ không dám tới trường để thi tiểu học. Những phút vui nhất trong thời đó là khi mọi việc xong rồi cậu xuống một chiếc thuyền nhỏ dài độ bốn thước, giương buồm lên, thả theo bờ biển để đánh cá. Nhìn cảnh biển bao la, tâm hồn cậu lâng lâng, mơ mộng những cuộc viễn du tả trong sách, rồi chỉ muốn đâm thẳng ra khơi, theo cánh chim mà tới những nơi xa lạ ở bên kia chân trời mù mịt. Hai năm sau, cậu không được hưởng những lúc vui ngắn ngủi đó nữa và phải vào làm thợ trong một hãng chế tạo hộp sắt để chứa đồ hộp. Xưởng là một chuồng ngựa dơ dáy, hôi hám, không cửa sổ, ánh nắng chỉ lọt vào qua khe ván. Công việc của cậu là phải coi một bộ phận máy mà chỉ vô ý một chút là đủ mất ngón tay. Tai nạn xảy ra rất thường, nhất là thợ đàn bà. Sau này kể lại thời đó, Jack London viết: “Dù là mệt lữ đi nữa, chúng tôi chúng tôi cũng không có thì giờ ngước mắt lên, hoặc thở dài. Chỉ vô ý một giây thôi là ngón tay văng ra. Tôi may lắm mà không bị thương (…). Buổi chiều bọn con trai chúng tôi được nghỉ vài phút để nói chuyện. Con gái cũng làm việc nhiều như con trai mà không được nghỉ như vậy. Ngoài những phút đó ra, chúng tôi phải chăm chú làm như bị cự hình, tới đứt gãy gân cốt được”. Sự bốc lột của chủ nhân thật tàn nhẫn. Có khi cậu phải làm đến nửa đêm, mệt quá, không còn biết gì nữa, bước về nhà như một người máy. Có lần cậu phải ngồi luôn ở máy suốt ba mươi giờ liên tiếp. Thường thì cứ 11 giờ khuya về tới nhà, ăn xong, 12 giờ đi ngủ, 5 giờ sáng dậy để 7 giờ có mặt tại hãng. Trong nhật ký của cậu, ta đọc: “Như vậy đời còn có nghĩa gì đối với tôi? Phải làm cái kiếp trâu ngựa hay sao? Tới con ngựa cũng không phải làm cực khổ như tôi (…). Tôi phải làm việc trong hãng đó ba tháng hè để có tiền học trong ba tháng (…) tiền công rất ít, song nhờ làm thêm giờ nên tôi lãnh được năm chục đô la mỗi tháng. Nhưng tiền đó, tôi không giữ lấy một xu (…). Mùa thu năm ngoái tôi rán để dành được năm đô la. Má tôi lại hãng lấy hết số tiền đó vì người có việc phải tiêu gấp. Tối hôm đó tôi muốn tự tử”. Chán nản quá, cậu bỏ nghề đó, theo một bọn hải khấu, chuyên đoạt sò ở ngoài khơi San Francisco. Nghề đó lậu thuế có thể đưa câu vô khám được lắm, nhưng bề gì cũng thú hơn là làm mọi trong xưởng đóng hộp. Cậu xin tiền người vú nuôi, mua một chiếc tàu nhỏ. Sướng quá, cậu ghi trong nhật ký: “Tôi tháo dây cho buồm khỏi căng rồi theo thuỷ triều, cho tàu trôi tới quần đảo Asperges, bỏ neo ở ngoài khơi, cách bờ vài hải lý. Mộng của tôi đã thực hiện được! Tôi sắp được ngủ trên nước, thức dậy trên nước, sống suốt đời trên nước!”. Năm đó Jack London mới mười sáu tuổi nhưng lực lưỡng nhờ bản chất, và hiểu đời ít nhiều nhờ mấy năm lăn lộn để kiếm miếng ăn, cho nên trong nghề đoạt sò chàng không thua kém ai. Cũng truỵ lạc, nóc hết ly huýt ky này tới ly khác rồi say mèm, cũng cướp nhân tình của người khác - một cô cùng tuổi với chàng - rồi sống với chàng như vợ chồng, cũng kiếm được nhiều tiền nhưng cũng có đêm thua bạc tới một trăm tám mươi đô la mà không hề ân hận. Gì thì gì cũng còn hơn là làm như trâu mười hai giờ một ngày trong một xưởng hôi hám để lãnh mỗi giờ một cắc. Được mấy tháng như vậy, sau một đêm say sưa chàng tỉnh dậy thấy túi thì rỗng mà tàu thì hư, không còn tiền sửa, chàng bán tàu, hùn vốn với một người khác cũng làm cái nghề bất lương đó trong ít lâu rồi bỏ luôn, xin làm lính tuần tiểu. Sự thay đổi lạ lùng nhưng dễ hiểu: chàng chỉ muốn sống hết những cảnh nguy hiểm, đã trải qua đời ăn cướp, nay muốn thử nghề bắt đồ lậu. Chàng vào hạng nhân viên phụ, không được ăn lương, chỉ được hưởng một phần tiền phạt mà kẻ bị bắt phải đóng cho ty quan thuế. Nhưng khi tàu đoan [2] rượt một tàu buôn lậu trong cơn giông tố, chàng rất sung sướng: “Tôi như điên! Tàu chạy thú quá! Nó nhảy đâm vào ngọn sóng trắng xoá như một con ngựa đua. Tôi không ném nỗi nổi vui. Buồm căng, con tàu bổ nhào xuống, và tôi, một thằng người chim chích ở giữa cơn giông tố, tôi chỉ huy sự chiến đấu trong gió”. Chàng luyện tinh thần chiến đấu đó để sau này thắng nghịch cảnh trong nghề cầm bút. Chàng uống rượu dữ, say bí tỉ không biết bao nhiêu lần, có lần liên tiếp ba tuần lễ. Người ta đã tưởng chàng truỵ lạc thành con người bỏ đi. Nhưng rồi một hôm chàng biết nghĩ lại. Lần đó, chàng say quá, té xuống nước, dòng nước cuống chàng ra biển. Chàng hồi tỉnh lại, lờ mờ hiểu tình cảnh, đập chân đập tay cho khỏi chìm. Trong khi để mặc cho dòng nước trôi đi, chàng bỗng cảm thấy tủi nhục cho cái đời mình mà trào lệ, muốn tự tử và trước khi tự tử, chàng hát lên một điệu lìa đời. Chàng nằm ngửa trên nước mà ngó sao lấp lánh trên trời và hát hết khúc này đến khúc khác, toàn một giọng ai oán cho tới sáng thì chàng tỉnh hẳn, lạnh muốn cóng tay chân, không đủ sức lội vào bờ nữa. Một người đánh cá vừa kịp vớt được chàng. Từ đó chàng bớt uống rượu. Một lần chàng bị một tên buôn lậu Trung Hoa bắt được trói lại, quẳng lên một đảo hẻo lánh; may phúc chàng tự gỡ trói trốn thoát được trước khi nó về. Truyện đó sau chép lại trong cuốn Le mouchoir jaune (Chiếc mùi xoa vàng) tả đời nguy hiểm của bọn lính tuần biển.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jack London":Tiếng Gọi Nơi Hoang DãCô Gái Băng TuyếtGót SắtJack London Truyện Ngắn Chọn LọcJack London Tuyển TậpMartin EdenMối Thù Thiên ThuTừ Bỏ Thế Giới VàngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Jack London Tuyển Tập PDF của tác giả Jack London nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Jack London Truyện Ngắn Chọn Lọc (Jack London)
Jack London (1876 - 1916) là một trong những nhà văn ngoại quốc được người đọc Việt Nam hết sức yêu mến. Những tác phẩm nổi tiếng của ông đã đến với người đọc nước ta từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, thế nhưng lâu nay người ta chỉ tập trung nghiên cứu Jack London với tư cách là một tiểu thuyết gia, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống về Jack London với tư cách là một “bậc thầy truyện ngắn”. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn của J. London khá đa dạng. Nét đặc trưng của J. London thể hiện ở chỗ ông luôn khai thác không gian với tất cả tính chất hung dữ, thù địch với con người. Đó là cách để nhà văn vạch trần bộ mặt đen tối của xã hội, đồng thời thể hiện những trăn trở, những ước mơ khát vọng của mình đối với con người và xã hội.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jack London":Tiếng Gọi Nơi Hoang DãCô Gái Băng TuyếtGót SắtJack London Truyện Ngắn Chọn LọcJack London Tuyển TậpMartin EdenMối Thù Thiên ThuTừ Bỏ Thế Giới VàngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Jack London Truyện Ngắn Chọn Lọc PDF của tác giả Jack London nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ivanhoe (Sir Walter Scott)
Walter Scott sinh tại tỉnh Edinburgh nước Anh, ngày 14/08/1771 trong một gia đình trí thức, cha làm Chưởng lý tại tòa án Edinburgh, mẹ là con một vị giáo sư y khoa đại học. Từ thuở nhỏ, Scott đã ham đọc truyện cổ nước Anh và tác phẩm những nhà văn lớn thời Phục hưng nước Pháp và nước Ý. Ông thường đi thăm nhiều di tích lịch sử miền Bắc nước Anh (xứ Scotland), nên sau này ông thích viết về đề tài lịch sử của dân tộc. Khi lớn, ông theo học luật khoa và làm luật sư trong hai mươi nhăm năm, vừa làm việc vừa sáng tác. Về già, ông mắc bệnh tê liệt, và chết ở Abbotsford ngày 21- 9- 1832. Scott bước chân vào làng văn với các tác phẩm dịch của hai thi sĩ Đức là Goethe và Bürger. Sau đó, ông làm nhiều thơ; ba thi phẩm có giá trị của ông là: Bài hát của người ca công cuối cùng (The Lay of the Last Minstrel, 1805), Marmion (1809) và Công nương trên hồ. Về sau ông chuyên viết tiểu thuyết. Những tập truyện nổi tiếng nhất của ông là Truyện Oavớclê (Waverley), Thời xưa bất tử, Ivanhoe, Chiếc gậy thần. Ivanhoe là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Scott. Tác giả đã dựa vào một bi kịch cũ, ít giá trị, là Rơnơmiđơ của Logan nhưng thay hẳn cốt truyện và lồng vào một chủ đề mới. Câu chuyện xảy ra vào khoảng thế kỷ thứ 12, dưới triều đại vua Richard đệ nhất, tóm tắt như sau: Cedric là một hào trưởng, dòng dõi quý tộc Saxon nước Anh, ông rất căm thù quân xâm lược Normans, và mưu đồ khôi phục đất nước, ông có người con trai là Ivanhoe theo Richard đệ nhất dự cuộc Thập tự chinh ở Palestine. Tuy vua Richard thuộc dòng dõi Normans nhưng là người công bằng yêu nước. Từ Palestine, Richard và Ivanhoe bí mật về nước, cải trang dự hội võ, đánh thắng bọn hiệp sĩ, tay chân của Hoàng tử John, John là em trai Richard đang cầm quyền nhiếp chính, nhưng phản bội anh và thông đồng với ngoại quốc hại Richard, mưu việc chiếm ngôi. Ivanhoe bị thương nặng, được Rebecca, một thiếu nữ đẹp, con một người Do Thái giàu có là Isaac cứu chữa. Sau đó, bọn tay chân của John bắt cóc Cedric, Isaac và Rebecca để cưỡng bức nàng và bắt cả bọn nộp tiền chuộc. Ivanhoe với người yêu là Rowena cũng bị bắt. Tất cả bị giam vào một lâu đài kiên cố. Ở ngoài, Richard cùng bọn lục lâm người Saxon, vì lòng yêu nước và yêu chuộng công lý, tổ chức công phá lâu đài để giải phóng họ. Nhưng Rebecca bị một tên hiệp sĩ Normans là Bois-Guilbert phá vòng vây mang nhốt tại một tu viện. Việc tiết lộ, tên Giáo trưởng buộc tội nàng có tà thuật mê hoặc giáo sĩ, định bắt thiêu sống trên giàn lửa. Mặc dầu đang ốm, Ivanhoe cũng hy sinh thân mình để chiến đấu cứu Rebecca. Bois-Guilbert chết một cách kỳ lạ, Rebecca thoát nạn và bè đảng phản quốc của John bị tiêu diệt. Tìm mua: Ivanhoe TiKi Lazada Shopee Tác phẩm đề cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc và đức tính thượng võ cao quý của người Anh thời cổ. Chủ đề của tác phẩm phản ánh tinh thần nhân dân nước Anh trong khoảng đầu thế kỷ 19, khi giai cấp tư sản dân tộc đang phát triển, chiến thắng cuộc xâm lăng của đế quốc Pháp dưới thời đế chế Napoleon I: Cedric tiêu biểu cho những người Saxon thuần túy, có ý thức dân tộc mãnh liệt, đương đầu với bọn quý tộc Normans, đại diện cho bọn xâm lược. Ngoài giá trị tư tưởng, Ivanhoe còn có giá trị lịch sử. Những nhân vật và sự việc lớn trong truyện như Richard, John, cuộc Thập tự chinh, việc Richard bị cầm tù, cuộc hội võ, sự áp bức, bóc lột của bọn quý tộc, tình trạng xã hội hỗn độn, đen tối, v.v… đều là những sự thực lịch sử. Tác giả đã mô tả đúng những phong tục, tập quán, những cách trang phục và cả ngôn ngữ của thời đại. Sau này, những nhà tiểu thuyết thời đại lớn của Anh như Thackeray, Dickens cũng chịu ảnh hưởng của Scott về mặt tôn trọng màu sắc địa phương và màu sắc lịch sử trong các tác phẩm của mình. Do giá trị lịch sử nói trên mà Ivanhoe có một số yếu tố hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm còn có một giá trị nhân đạo sâu sắc. Đương thời nhiều thi sĩ lãng mạn như Byron, Shelley ca tụng tự do một cách nồng nhiệt. Qua những nhân vật Cedric, Richard, Gurth… Scott cũng tỏ thái độ chống áp bức và đề cao tự do. Đồng thời tác giả còn đề cao những đức tinh cao quý như tinh thần ưa chuộng công lý, tinh thần vị tha, đức hy sinh, lòng dũng cảm, tính cương trực… dưới hình thức những phong tục mã thượng đẹp đẽ thời cổ. Tinh thần nhân đạo đó gần gũi với truyền thống nhân đạo tiếp thu từ Shakspeare, thời đại Phục hưng. Tác giả công kích kịch liệt bọn đội lốt thầy tu để thỏa mãn thú tính để tiện và lòng tham lam không đáy. Tác giả bênh vực quyền sống và giá trị của dân tộc Do Thái, tuy kịch liệt mạt sát thói cho vay lãi của họ, tương tự như thái độ của Shakspeare trong Người lái buôn thành Venice. Tác giả đề cao những nhân vật xuất thân từ quần chúng, như anh chăn lợn Gurth, anh hề Wamba, cho ta thấy cả bản chất tốt đẹp của người bình dân: họ có tinh thần yêu tự do công lý, họ cũng thông minh, dũng cảm và có đức hy sinh… Thậm chí Locksley, là đầu lĩnh một bọn cướp, cũng có tinh thần yêu nước chẳng khác gì nhân vật Robin Hood trong truyện cổ dân gian nước Anh. Tóm lại, Scott có quan điểm khá tiến bộ trong những vấn đề tôn giáo, chủng tộc và đẳng cấp. Nhưng Scott quan niệm vấn đề hạnh phúc rất tiêu cực; ông cho hạnh phúc là ở chỗ biết chịu đựng những đau khổ và thiệt thời trong cuộc sống, theo ý Chúa Trời, nên đã để cho Rebecca thất tình, trở về Palestine, tìm quên trong những việc thiện, lấy sự hy sinh những tình cảm cá nhân của mình làm hạnh phúc. Về mặt nghệ thuật, Ivanhoe có một sức hấp dẫn đặc biệt, cốt truyện có tính chất ly kỳ, nhưng không rối rắm. Tình tiết trong truyện tuy phức tạp nhưng không có sự việc nào thừa, tất cả đều tạo điều kiện làm nổi bật tâm lý của nhân vật, phục vụ cho nội dung của tác phẩm. Cuộc sống trong tác phẩm rất sinh động, các nhân vật va chạm nhau, yêu đương, căm thù, ao ước, chiến đấu… với một cường độ rất cao. Trí tưởng tượng của tác giả kết hợp với óc khoa học đưa ta vào một thế giới vừa thực vừa kỳ lạ, đúng với thực tế lịch sử; song rộng lớn hơn, phong phú hơn, lộng lẫy và hấp dẫn hơn nhiều. Đặc điểm ấy do bút pháp lãng mạn của tác giả; bút pháp này đã ảnh hưởng đến nhà tiểu thuyết lịch sử Pháp nổi tiếng là Alexandre Dumas và cả đến những sứ giả Pháp là Thierry và Michelet với phương pháp “làm sống lại lịch sử một cách toàn vẹn”. Những nhân vật như Cedric, Rebecca, Isaac, Bois-Guilbert, De Bracy, v.v… có tinh chất phức tạp sâu sắc của con người thực, nên hấp dẫn người đọc mạnh mẽ. Chúng tôi dịch theo bản Anh Văn, tôn trọng lối văn đặc sắc của tác giả, khi dí dỏm tế nhị, lúc trang trọng hùng hồn, đồng thời cố gắng giữ đầy đủ nguyên ý và không khí cổ kính của tác phẩm. Song việc đó có nhiều khó khăn, mong độc giả giúp đỡ ý kiến để sau này có thể có một bản dịch hoàn hảo hơn.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ivanhoe PDF của tác giả Sir Walter Scott nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ivanhoe (Sir Walter Scott)
Walter Scott sinh tại tỉnh Edinburgh nước Anh, ngày 14/08/1771 trong một gia đình trí thức, cha làm Chưởng lý tại tòa án Edinburgh, mẹ là con một vị giáo sư y khoa đại học. Từ thuở nhỏ, Scott đã ham đọc truyện cổ nước Anh và tác phẩm những nhà văn lớn thời Phục hưng nước Pháp và nước Ý. Ông thường đi thăm nhiều di tích lịch sử miền Bắc nước Anh (xứ Scotland), nên sau này ông thích viết về đề tài lịch sử của dân tộc. Khi lớn, ông theo học luật khoa và làm luật sư trong hai mươi nhăm năm, vừa làm việc vừa sáng tác. Về già, ông mắc bệnh tê liệt, và chết ở Abbotsford ngày 21- 9- 1832. Scott bước chân vào làng văn với các tác phẩm dịch của hai thi sĩ Đức là Goethe và Bürger. Sau đó, ông làm nhiều thơ; ba thi phẩm có giá trị của ông là: Bài hát của người ca công cuối cùng (The Lay of the Last Minstrel, 1805), Marmion (1809) và Công nương trên hồ. Về sau ông chuyên viết tiểu thuyết. Những tập truyện nổi tiếng nhất của ông là Truyện Oavớclê (Waverley), Thời xưa bất tử, Ivanhoe, Chiếc gậy thần. Ivanhoe là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Scott. Tác giả đã dựa vào một bi kịch cũ, ít giá trị, là Rơnơmiđơ của Logan nhưng thay hẳn cốt truyện và lồng vào một chủ đề mới. Câu chuyện xảy ra vào khoảng thế kỷ thứ 12, dưới triều đại vua Richard đệ nhất, tóm tắt như sau: Cedric là một hào trưởng, dòng dõi quý tộc Saxon nước Anh, ông rất căm thù quân xâm lược Normans, và mưu đồ khôi phục đất nước, ông có người con trai là Ivanhoe theo Richard đệ nhất dự cuộc Thập tự chinh ở Palestine. Tuy vua Richard thuộc dòng dõi Normans nhưng là người công bằng yêu nước. Từ Palestine, Richard và Ivanhoe bí mật về nước, cải trang dự hội võ, đánh thắng bọn hiệp sĩ, tay chân của Hoàng tử John, John là em trai Richard đang cầm quyền nhiếp chính, nhưng phản bội anh và thông đồng với ngoại quốc hại Richard, mưu việc chiếm ngôi. Ivanhoe bị thương nặng, được Rebecca, một thiếu nữ đẹp, con một người Do Thái giàu có là Isaac cứu chữa. Sau đó, bọn tay chân của John bắt cóc Cedric, Isaac và Rebecca để cưỡng bức nàng và bắt cả bọn nộp tiền chuộc. Ivanhoe với người yêu là Rowena cũng bị bắt. Tất cả bị giam vào một lâu đài kiên cố. Ở ngoài, Richard cùng bọn lục lâm người Saxon, vì lòng yêu nước và yêu chuộng công lý, tổ chức công phá lâu đài để giải phóng họ. Nhưng Rebecca bị một tên hiệp sĩ Normans là Bois-Guilbert phá vòng vây mang nhốt tại một tu viện. Việc tiết lộ, tên Giáo trưởng buộc tội nàng có tà thuật mê hoặc giáo sĩ, định bắt thiêu sống trên giàn lửa. Mặc dầu đang ốm, Ivanhoe cũng hy sinh thân mình để chiến đấu cứu Rebecca. Bois-Guilbert chết một cách kỳ lạ, Rebecca thoát nạn và bè đảng phản quốc của John bị tiêu diệt. Tìm mua: Ivanhoe TiKi Lazada Shopee Tác phẩm đề cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc và đức tính thượng võ cao quý của người Anh thời cổ. Chủ đề của tác phẩm phản ánh tinh thần nhân dân nước Anh trong khoảng đầu thế kỷ 19, khi giai cấp tư sản dân tộc đang phát triển, chiến thắng cuộc xâm lăng của đế quốc Pháp dưới thời đế chế Napoleon I: Cedric tiêu biểu cho những người Saxon thuần túy, có ý thức dân tộc mãnh liệt, đương đầu với bọn quý tộc Normans, đại diện cho bọn xâm lược. Ngoài giá trị tư tưởng, Ivanhoe còn có giá trị lịch sử. Những nhân vật và sự việc lớn trong truyện như Richard, John, cuộc Thập tự chinh, việc Richard bị cầm tù, cuộc hội võ, sự áp bức, bóc lột của bọn quý tộc, tình trạng xã hội hỗn độn, đen tối, v.v… đều là những sự thực lịch sử. Tác giả đã mô tả đúng những phong tục, tập quán, những cách trang phục và cả ngôn ngữ của thời đại. Sau này, những nhà tiểu thuyết thời đại lớn của Anh như Thackeray, Dickens cũng chịu ảnh hưởng của Scott về mặt tôn trọng màu sắc địa phương và màu sắc lịch sử trong các tác phẩm của mình. Do giá trị lịch sử nói trên mà Ivanhoe có một số yếu tố hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm còn có một giá trị nhân đạo sâu sắc. Đương thời nhiều thi sĩ lãng mạn như Byron, Shelley ca tụng tự do một cách nồng nhiệt. Qua những nhân vật Cedric, Richard, Gurth… Scott cũng tỏ thái độ chống áp bức và đề cao tự do. Đồng thời tác giả còn đề cao những đức tinh cao quý như tinh thần ưa chuộng công lý, tinh thần vị tha, đức hy sinh, lòng dũng cảm, tính cương trực… dưới hình thức những phong tục mã thượng đẹp đẽ thời cổ. Tinh thần nhân đạo đó gần gũi với truyền thống nhân đạo tiếp thu từ Shakspeare, thời đại Phục hưng. Tác giả công kích kịch liệt bọn đội lốt thầy tu để thỏa mãn thú tính để tiện và lòng tham lam không đáy. Tác giả bênh vực quyền sống và giá trị của dân tộc Do Thái, tuy kịch liệt mạt sát thói cho vay lãi của họ, tương tự như thái độ của Shakspeare trong Người lái buôn thành Venice. Tác giả đề cao những nhân vật xuất thân từ quần chúng, như anh chăn lợn Gurth, anh hề Wamba, cho ta thấy cả bản chất tốt đẹp của người bình dân: họ có tinh thần yêu tự do công lý, họ cũng thông minh, dũng cảm và có đức hy sinh… Thậm chí Locksley, là đầu lĩnh một bọn cướp, cũng có tinh thần yêu nước chẳng khác gì nhân vật Robin Hood trong truyện cổ dân gian nước Anh. Tóm lại, Scott có quan điểm khá tiến bộ trong những vấn đề tôn giáo, chủng tộc và đẳng cấp. Nhưng Scott quan niệm vấn đề hạnh phúc rất tiêu cực; ông cho hạnh phúc là ở chỗ biết chịu đựng những đau khổ và thiệt thời trong cuộc sống, theo ý Chúa Trời, nên đã để cho Rebecca thất tình, trở về Palestine, tìm quên trong những việc thiện, lấy sự hy sinh những tình cảm cá nhân của mình làm hạnh phúc. Về mặt nghệ thuật, Ivanhoe có một sức hấp dẫn đặc biệt, cốt truyện có tính chất ly kỳ, nhưng không rối rắm. Tình tiết trong truyện tuy phức tạp nhưng không có sự việc nào thừa, tất cả đều tạo điều kiện làm nổi bật tâm lý của nhân vật, phục vụ cho nội dung của tác phẩm. Cuộc sống trong tác phẩm rất sinh động, các nhân vật va chạm nhau, yêu đương, căm thù, ao ước, chiến đấu… với một cường độ rất cao. Trí tưởng tượng của tác giả kết hợp với óc khoa học đưa ta vào một thế giới vừa thực vừa kỳ lạ, đúng với thực tế lịch sử; song rộng lớn hơn, phong phú hơn, lộng lẫy và hấp dẫn hơn nhiều. Đặc điểm ấy do bút pháp lãng mạn của tác giả; bút pháp này đã ảnh hưởng đến nhà tiểu thuyết lịch sử Pháp nổi tiếng là Alexandre Dumas và cả đến những sứ giả Pháp là Thierry và Michelet với phương pháp “làm sống lại lịch sử một cách toàn vẹn”. Những nhân vật như Cedric, Rebecca, Isaac, Bois-Guilbert, De Bracy, v.v… có tinh chất phức tạp sâu sắc của con người thực, nên hấp dẫn người đọc mạnh mẽ. Chúng tôi dịch theo bản Anh Văn, tôn trọng lối văn đặc sắc của tác giả, khi dí dỏm tế nhị, lúc trang trọng hùng hồn, đồng thời cố gắng giữ đầy đủ nguyên ý và không khí cổ kính của tác phẩm. Song việc đó có nhiều khó khăn, mong độc giả giúp đỡ ý kiến để sau này có thể có một bản dịch hoàn hảo hơn.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ivanhoe PDF của tác giả Sir Walter Scott nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.