Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cộng Hòa (Plato)

GIỚI THIỆU TRIẾT GIA PLATO

Cuộc đời. Sáng tác cách nay hai ngàn bốn trăm năm, các đối thoại mang tên Plato có ảnh hưởng lớn lao đến tư tưởng Tây phương thời cổ đại, thời Trung cổ, thời Phục hưng và cả thời hiện đại. Sáng tác đó được ca ngợi là nền tảng của tư tưởng Tây Âu, chất liệu điều hòa tình trạng quá độ trong tâm trí con người, đường thẳng xác định nhãn quan thế giới từ trước hoặc từ đó tới giờ chưa hề phác họa, miêu tả trong triết học, chính trị, luận lý và tâm lý. Người Tây phương nghĩ trở lại nhận thức phô diễn trong đối thoại là trở lại nguồn cội. Ngược lại, đối thoại cũng bị chỉ trích gay gắt. Có người cho rằng đối thoại trưởng giả về chính trị và huyền bí về triết học. Tuy nhiên, giữa hai khuynh hướng đối chọi, có người thận trọng, khách quan sau khi đọc nhận thấy đối thoại có ma lực đề xướng, thôi thúc tưởng tượng và suy tư. Nhiều dây dợ đan kết trong đối thoại, song ở trung tâm giữ vai trò ý nghĩa theo nhận thức của người Hy Lạp, thiên đạo (logos, căn nguyên của tư tưởng, nguyên lý điều hành, phát triển vũ trụ) là thiên nhiên lèo lái mọi sự vật từ bên trong. Tiếp cận như thế thiên nhiên không phải siêu việt, vô hình và cũng không phải trần tục, hữu hình; thiên nhiên là tổng thể hữu cơ, con người không ở ngoài mà ở trong thiên nhiên. Bám chặt quan điểm cùng ý nghĩa quan điểm hàm ngụ, tư tưởng và nghệ thuật Hy Lạp đạt mức minh bạch chưa từng thấy ở bất kể nơi nào, người phô diễn chính yếu là Plato. Qua sử sách miêu tả, trình bày ta thấy ông là người kinh điển, người dệt giấc mơ lý tưởng; và sử sách cũng nói ông là người hiểu rộng biết nhiều về thế giới, không phải triết gia tháp ngà ngụp lặn, chìm đắm trong rừng già sách vở. Ta còn biết ông là người học thức uyên thâm theo sát sinh hoạt trí thức đương thời. Dẫn chứng thi văn và bóng gió hàm ngụ trong đối thoại chứng tỏ ông theo dõi văn chương sát nút. Đời ông kéo dài từ cuộc chiến Peloponnesos giữa Athens và Sparta (431 TCN), qua ngày Pericles thủ lĩnh thành quốc Athens lìa đời (429 TCN), tới khi Philip - quân vương Macedonia - hạ thành Olynthus (348 TCN).

Đối thoại thường gọi là Cộng Hòa, tác phẩm trong số trước tác tương tự truyền lại, đến ngày nay hậu thế công nhận là sáng tác của Plato. Số sáng tác đồ sộ đã đưa tên tuổi ông lên hàng quen thuộc bậc nhất trong lịch sử nhân loại, nhất là lịch sử tư tưởng ở Tây phương cũng như Đông phương. Tuy vậy, người sau lại biết rất ít về ông, ngay cả trong nước Hy Lạp, quê hương ông, biết rất ít một cách kỳ lạ so với những gì người sau hy vọng muốn biết. Khi tìm hiểu cuộc đời bông hoa ngát hương trong vườn triết học người sau chỉ biết ông sống trong giai đoạn lịch sử đặc biệt, liên hệ tới biến cố và nhân vật người sau biết qua kho tàng tài liệu phong phú khác thường: sinh thời ông nổi tiếng, ông lập trường dạy học, ông đi du thuyết, ông sống khá lâu, ông viết rất nhiều, sáng tác truyền lại đều ở tình trạng hoàn hảo khiến người sau nghĩ toàn bộ đã được bảo tồn cẩn thận ngay từ đầu. Sự thể có vẻ kỳ lạ, dữ kiện về đời ông sao ít ỏi, mong manh đến thế, ngay cả số lượng sáng tác phong phú cũng rơi vào vòng mờ mịt, người sau không nhìn thấy liên hệ hỗ tương giữa tác phẩm và tác giả. Không những thiếu vắng dữ kiện cụ thể để thiết lập tiểu sử, người sau còn gặp cảnh tượng ngán ngẩm trong khi muốn tìm hiểu, trong sáng tác ông không đả động gì đến bản thân. Đó là nét đặc biệt người sau biết về triết gia lý tưởng mắt sáng, vai rộng, cao lớn, khỏe mạnh, đầu óc phi thường, lối sống thanh tao, văn gia bút pháp uyển chuyển, đa dạng, từ lúc trẻ mang biệt danh Plato, tên thực là Aristocles, tên đặt giống tên ông nội, nếu vậy theo phong tục xứ sở là con trưởng và cháu đích tôn. Nhưng sự thật có phải hoàn toàn như thế hay không, người sau cũng thực tình không rõ!

Là con ông Ariston, cháu ông Aristocles, có hai em trai, môt em gái, Plato chào đời khi Diotimus làm Archón, pháp quan Athens, nhiệm kỳ kéo dài từ mùa hè năm 428 TCN đến mùa hè năm sau. Hơn thế người sau không biết gì về gia đình bên nội, trừ một số thân nhân bên ngoại. Thân mẫu nhũ danh Perictione thuộc dòng dõi quý tộc, mà nổi tiếng nhất là Solon (638-558 TCN), pháp quan Athens nhiệm kỳ 594-3 TCN. Em họ bà là Critias, người sau biết là thủ lãnh nhóm Ba Mươi Bạo Chúa và tác giả nhiều sáng tác; em trai bà là Charmides cũng hăng say tham gia chính trị với nhóm Ba Mươi Bạo Chúa, song thất bại thảm hại. Cũng như anh Plato, Adeimantus và Glaucon, hai người là nhân vật trong nhiều đối thoại, một trong số mang tên Charmides. Speusippus, người kế vị Plato điều hành

Học Viện, là con bà Potone, em Plato. Sau khi thân phụ qua đời, lúc Plato còn rất nhỏ, thân mẫu tái giá với ông Pyrilampes, nghe nói là cậu họ, đã có gia đình và con riêng, con trai tên Demos (nhắc tới trong Gorgias), nhân vật giàu có, thế lực trong nhóm dân chủ ủng hộ lãnh tụ Pericles, chính khách khôn ngoan, lỗi lạc đã đưa thành quốc lên mức phát triển cao độ về mặt trí thức, nghệ thuật và kinh tế. Với ông này, bà sinh con trai tên Antiphone, em cùng mẹ khác cha với Plato, theo đuổi triết học ít lâu, bỗng dưng bỏ dở rẽ ngang. Nhìn từ bên này rồi bên kia người sau thấy Plato có liên hệ mật thiết với giai cấp quý tộc Athens. Dẫu vậy liên hệ này không khiến đầu óc trở nên hẹp hòi, thiển cận, trái lại ông vẫn giữ thái độ cơ bản của bậc sĩ phu: ngay thẳng, khách quan trong lối sống cũng như sáng tác từ đầu chí cuối. Tìm mua: Cộng Hòa TiKi Lazada Shopee

Theo nhận định chung từ trước tới nay, ở trong cũng như ngoài nước, sự kiện có thể coi là xác đáng liên hệ tới cuộc đời Plato chỉ đủ cấu thành nét phác tả tổng quát sơ sài, dẫu vậy cũng không đủ để minh định một cách chắc chắn. Đối thoại của ông, mặc dù cảnh trí đặt ở thời đại ông sống, người tham dự là nhân vật nổi tiếng, sống thực, sinh hoạt hết sức tự nhiên, kể cả anh ông, cũng không đóng góp gì vào bức tranh tiểu sử. Tuy nhiên, có mấy lá thư cho là do ông viết hé lộ khá nhiều vì sao ông quyết định, nhất là ám chỉ giai đoạn tham dự hoạt động chính trị đương thời. Số thư này trong thế kỷ vừa qua mang tiếng giả mạo, phần quan trọng hơn hết có vẻ là thực, lại bị cho là do đệ tử ông viết.

Trong số mười ba lá, trừ lá thứ mười hai, tất cả đều được người xưa công nhận là chân thực, sử dụng để diễn giải triết thuyết Plato. Trong hàng phê bình ngày trước và ngày nay có người không ngần ngại chấp nhận chứng liệu của người xưa, có người bác bỏ thẳng thừng, coi số thư đó là ngụy thư diễn tả khéo léo, có người giữ thái độ trung dung cho rằng Plato là tác giả lá thứ sáu, thứ bảy và thứ tám, số còn lại rơi vào vòng tồn nghi. Ngược lại, cương quyết khẳng định số thư đó là do ông viết, ở Anh hạ bán thế kỷ XIX G. Grote trong Plato and Other Companions of Socrates (1867) không ngần ngại đưa số thư đó vào sáng tác của ông, mặc dù nhiều nhà phê bình vai vế đương thời lớn tiếng phủ nhận.

Hăng hái đưa thần tượng từ nấc thang siêu nhân xuống thứ bậc thế nhân, học giả này sẵn sàng gán cho ông số sáng tác phần đông cho là không xứng đáng với triết gia siêu việt. Nhưng nhờ biện luận vững chắc nhằm đặt lại vấn đề, học giả vừa kể đủ sức thuyết phục nhiều người chấp nhận kết luận. Vì vậy kể từ đó không còn e ngại nữa khi kể chi tiết lý thú chứa đựng trong số lá thư, và nhờ thế người sau biết đôi chút về cuộc đời triết gia, trong khi các nhà phê bình thủ cựu cũng sẵn sàng chấp nhận phần lớn số sáng tác đặc biệt đó là chân thực.

Năm sinh và nơi sinh của Plato sử sách ghi khác nhau: 430, 428 và 427 TCN, nơi sinh thành Athens hoặc đảo Aegina, năm mất 348 hoặc 347 TCN Như vậy là ông sống lâu, 80 hoặc 83 tuổi mới qua đời.

Nếu lấy năm 430 TCN là năm sinh, ông ra đời 121 năm sau Khổng Tử (551-479 TCN). Nếu lấy năm 428 TCN làm năm sinh, ông chào đời 135 năm sau Thích-Ca Mâu-Ni (563-483 TCN). Nếu lấy năm 427 TCN làm năm sinh, ông vào đời 424 năm trước Giê-su Ki-tô (4 TCN - 29 SCN) và khoảng 4 năm sau cuộc chiến Peloponnesos (431-404 TCN). Cuốn sử Thucydides ghi chép bao gồm 16 hoặc 17 năm đầu đời của ông, chỗ Thucydides ngừng, Xenophon tiếp, kể lịch sử Hy Lạp kéo dài 48 năm nữa, tới trận Mantinea diễn ra năm 362. Định mệnh đẩy đưa ông lớn lên cùng vinh nhục của đất nước đang phấn đấu để phát triển, may mắn cũng nhiều, thành công cũng lắm, cuối cùng suy sụp hoàn toàn, tủi hổ ngút trời. Thôn tính thành quốc Athens diễn ra năm 403; tiếp theo là cuộc cai trị ngắn ngủi của nhóm Ba Mươi Bạo Chúa đứng đầu là Critias (cậu Plato) và Theramenes. Chính quyền chuyên chế của nhóm Ba Mươi Bạo Chúa bị Thrasybulus lật đổ, chế độ dân chủ ngày trước tái lập. Năm 399 diễn ra vụ xử gây chấn động dư luận cả lục địa lẫn quần đảo, hội đồng kết án tử hình Socrates vì tội phỉ báng thần linh, đầu độc tuổi trẻ. Nửa thế kỷ tiếp theo, thành quốc Athens hầu như vắng bóng trong lịch sử Hy Lạp, song góp phần đáng kể trong các phong trào thời đại dưới tài lãnh đạo của nhân vật lừng danh Iphicrates, Chabrias, Timotheus. Agesilaus quân vương Lacedaemon và Epaminondas quân vương Thebes là người cầm quyền tài ba suốt thời kỳ, lèo lái cuộc chiến tới thành công qua trận Leuctra (371 TCN) và trận Mantinea (362 TCN). Sau trận Mantinea, lịch sử Hy Lạp lại thay đổi, Philip (382-336 TCN) vùng Macedonia mạn nam bán đảo Balkan dần dần ngoi lên chói lọi trên chính trường.

Trước khi Plato qua đời chính khách Demosthenes (384-322 TCN) trở thành lừng danh qua các bài diễn văn đả kích quân vương Philip kịch liệt; trong vòng một năm trước khi băng hà, do tiêu diệt phe Phocion (402-317 TCN) chấm dứt cuộc chiến thiêng liêng, Philip nắm quyền bá chủ Hy Lạp. Song song với biến sự diễn ra trong lục địa Hy Lạp, về mặt lịch sử, đảo Sicile trở nên hấp dẫn, đồng thời giữ vai trò quan trọng trong suốt thời gian nửa thế kỷ dưới quyền cai trị sắt máu của cha con Dionysius và Dion. Nắm quyền cai trị thành phố Syracuse một phần tư thế kỷ, và cai trị hết sức khe khắt, hà khắc, Dionysius Cha chết năm 367 TCN. Nối ngôi thay quyền, áp dụng chính sách tương tự, Dionysius

Con kiểm soát thành quốc chặt chẽ mười hai năm nữa mới bị Dion nổi lên truất phế. Sau bốn năm cầm quyền cai trị ông này cũng bị chống đối, lật đổ, xử tử.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cộng Hòa PDF của tác giả Plato nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Liêt Tử Và Dương Tử (Nguyễn Hiến Lê)
Vài lời thưa trướcĐọc bộ Đại cương triết học Trung Quốc (ĐCTHTQ)[1] của hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê viết vào khoảng 1962-63, chúng ta có thể biết được khá nhiều về đời sống và triết thuyết của Dương tử (tức Dương Chu) và vị triết gia này được hai cụ sắp vào trong nhóm các triết gia lớn thời Tiên Tần như Khổng Tử, Lão tử, Mạnh tử, Trang tử, Mặc tử…; còn Liệt tử (tức Liệt Ngự Khấu) thì khác: trong phần tiểu sử, hai cụ chỉ ghi tóm tắt trong như sau: “Liệt Ngự Khấu, sinh khoảng năm 430 (Khảo Vương) mất khoảng 349 (Hiển Vương).Dương Chu, Quan Doãn, Lão Đam, Liệt Ngụ Khấu đồng thời với nhau mà không có tình thầy trò gì với nhau cả”. (ĐCTHTQ, trang 882). Tại sao địa vị của Liệt tử, và cả bộ Liệt tử nữa, lại mờ nhạt như vậy? Một trong những lí do đó, như lời hai cụ bảo, là: “Bộ Liệt tử, chưa biết rõ tác giả là ai. Theo các học giả gần đây thì có lẽ là do người đời Nguỵ, Tấn viết rồi mạo danh là Liệt Ngự Khấu, một triết gia đời Xuân Thu”. (ĐCTHTQ, tr. 766). Tìm mua: Liêt Tử Và Dương Tử TiKi Lazada Shopee Khoảng 10 năm sau, trong bộ Liệt tử và Dương tử[2] (LT&DT) này, cụ Nguyễn Hiến Lê cũng không tin là do Liệt tử viết, nhưng cụ bảo: “Tuy nhiên, nếu chúng ta đọc kỹ tác phẩm, bỏ qua một bên những bài mâu thuẫn với tư tưởng chính trong bộ, và những bài trùng với những bộ khác, thì ta thấy bộ Liệt tử có hai phần chính:- Một phần gồm những bài tản mác trong các thiên Thiên thuỵ, Hoàng Đế, Thang vấn, Lực mệnh… diễn những tư tưởng có ít nhiều hệ thống mà ta có thể tạm tin là của Liệt tử do người đời Chiến Quốc truyền miệng nhau rồi chép lại.- Một phần gồm những bài trong thiên Dương Chu, có tính cách nhất trí, chép tư tưởng cùng cố sự của Dương Chu”. Qua phân tích những bài trong phần sau, cụ Nguyễn Hiến Lê giúp chúng ta biết thêm đời sống và tư tưởng của Dương tử và qua phân tích những bài “có thể tạm tin” ở phần trước, cụ chẳng những giúp chúng ta biết thêm về đời sống và triết thuyết của Liệt tử, mà địa vị của Liệt tử cũng được cụ tôn lên ngang hàng với Dương tử và trên nhiều triết gia khác thời Tiên Tần. Theo cụ thì triết thuyết của Liệt tử “gần đạo Lão, mà cách phô diễn (dùng nhiều ngụ ngôn chứ ít lí thuyết) lại gần Trang. Không chê Khổng tử lắm, có cảm tình với Khổng là khác mà có chỗ lại cơ hồ như chịu ảnh hưởng của Mặc (…). Như vậy đủ cho chúng ta kết luận rằng Liệt là gạch nối giữa Lão và Trang. Học thuyết đó không sâu sắc bằng Lão, không rực rỡ bằng Trang (…); nhưng theo chúng tôi, Liệt tử vẫn xứng đáng đứng dưới Lão, Trang, trên nhiều triết gia khác thời đó, và ngang hàng với Dương tử”. Lại khoảng 10 năm sau nữa, trong bộ Hồi kí[3] (HK), phần xét riêng các triết gia về chính trị thời Tiên Tần, cụ Nguyễn Hiến Lê sắp các triết gia làm ba phái: hữu vi, vô vi và cực hữu vi. Và theo cụ thì: “Phái vô vi chủ trương can thiệp rất ít (Lão tử) hoặc không can thiệp chút gì (Trang tử, Liệt tử) vào đời sống của dân, để mặc dân sống theo bản năng, trở về tính chất phác thời nguyên thuỷ, như vậy xã hội sẽ hết loạn. Có thể kể thêm trong phái này Dương tử và các ẩn sĩ không dự chút gì vào việc đời” (HK, tr. 550). Nghĩa là cụ vẫn tiếp tục xem Liệt tử là một triết gia tiêu biểu thời Tiên Tần. Điều này thật khác so với nhận định cụ và cụ Giản Chi lúc viết bộ ĐCTHTQ. Khi xét về quan niệm vô vi, vô trị trong phần Chính trị luận thì hai cụ bảo: “(…) tác giả bộ Liệt tử thì theo hẳn mà muốn chủ trương vô quân…”. (ĐCTHTQ, tr. 765). Hai cụ gọi là “tác giả” bộ Liệt tử mà không gọi là Liệt tử hay Liệt Ngự Khấu là vì các cụ cho rằng bộ Liệt tử không phải do Liệt tử viết như tôi đã nói ở trên. Trong phần Vũ trụ luận, tuy bộ Liệt tử được trích vài câu, nhưng hai cụ cũng không bảo là lời của Liệt tử. Ví dụ như: “Sách Liệt tử cũng nói: Cái không từ đâu sinh ra cả thì thường sinh ra cái khác… Cho nên cái sinh ra vật, chính nó không từ đâu sinh ra cả” (bất sinh giả thường sinh sinh… Cố sinh vật giả bất sinh 不生者常生生…故生物者不生). (ĐCTHTQ, tr. 181). Câu đó trích trong thiên Thiên thuỵ. Câu sau đây cũng trích trong thiên Thiên thuỵ và hai cụ cũng dè dặt ghi là “trong sách Liệt tử”: “Cái không biến hoá có thể làm cho tất cả cái khác biến hoá… Cái làm cho vạn vật biến hoá, chính nó không biến hoá” (Bất hoá giả năng hoá hoá… Hoá vật giả bất hoá 不化者能化化…化物者不化). (ĐCTHTQ, tr. 182). Trong bộ LT&DT này, tuy cụ Nguyễn Hiến Lê chỉ lựa những bài “có thể tạm tin là tư tưởng của Liệt tử”, nhưng cụ đã khéo sắp xếp lại cho sáng sủa hơn, và nhất là trong đó có nhiều truyện “lí thú, nên đọc”, như lời cụ tự nhận định về bộ này trong Hồi kí: “Bộ Liệt tử chữ Hán không có tính cách nhất trí, nội dung rất tạp, chép cả về Dương tử, Khổng tử, Lão tử, Quan Doãn, Quản Trọng, Án tử…; lại thêm có nhiều bài mâu thuẫn, nhiều bài trùng với các tác phẩm khác; rõ ràng cuốn đó của người đời sau viết mà chỉ một số là môn đệ của Liệt tử thôi.Tôi đọc kỹ, loại bỏ những bài nguỵ tác, chỉ lựa những bài diễn những tư tưởng có ít nhiều hệ thống, có thể tạm tin là tư tưởng của Liệt tử, và chắc chắn của Dương tử rồi chia làm hai phần: Liệt tử và Dương tử.Riêng phần Liệt tử tôi lại chia thành 6 chương có nội dung nhất trí, việc mà trước chưa ai làm. Nhờ vậy bản của tôi không luộm thuộm như bản chữ Hán, sáng sủa hơn, có ý nghĩa hơn. Cuốn đó có nhiều truyện (huyền thoại, cố sự, ngụ ngôn) lý thú, nên đọc”. (HK, tr. 453). Bộ Liệt tử chữ Hán gồm 8 thiên: I. Thiên thuỵ 天瑞II. Hoàng Đế 黃帝III. Chu Mục vương 周穆王IV. Trọng Ni 仲尼V. Thang vấn 湯問VI. Lực mệnh 力命VI. Dương Chu 楊朱VIII. Thuyết phù 說符 Mỗi thiên, cụ Nguyễn Hiến Lê chia ra làm nhiều bài, cả bộ gồm trên 140 bài. Trong bộ LT&DT này, cụ lược bỏ khoảng 30 bài mà cụ cho là “không quan trọng, ít lí thú”, rồi gom hết các bài nói về Dương tử trong các thiên II, VI, VII, VII cho vào phần III nhan đề là Dương tử, còn tất cả các bài khác cụ cho vào phần II nhan đề là Liệt tử. Cụ bảo: “… chúng tôi có ý xét riêng tư tưởng của Liệt tử và Dương tử cho nên nhan đề bản dịch của chúng tôi là Liệt tử và Dương tử”. (Sách gồm 3 phần, phần I có nhan đề là Giới thiệugồm 5 tiết, trong đó có đến hai tiết viết về Liệt tử: Nhân vật Liệt Ngự Khấu, Tư tưởng của Liệt tử, nhưng chỉ có một tiết viết về Dương tử: Tư tưởng của Dương tử). Tuy nhan đề sách của cụ là Liệt tử và Dương tử, nhưng nhiều chỗ cụ chỉ gọi tắt là Liệt tử. Với mỗi bài được tuyển dịch, cụ đều đặt cho một nhan đề và ghi thêm số thứ tự (cũng là tên gọi tắt của bài). Ví dụ như bài đầu của thiên Thiên thuỵ được cụ đặt nhan đề là Mẹ của vạn vật, và ghi thêm tên gọi tắt là gọi tắt là I.1: “Mẹ của vạn vật I.1”. Hai câu trích dẫn trong thiên Thiên thuỵ mà tôi chép lại ở trên, câu trước trong bài I.1, câu sau trong bài I.2. Cả hai câu đó, trong bộ LT&DT này đều được cụ Nguyễn Hiến Lê dịch lại. Trong bộ Trang tử (còn gọi là Nam Hoa kinh) có nhiều bài cũng chép trong Liệt tử, cho nên hầu hết các bài đã được cụ dịch trong LT&DT rồi thì cụ không dịch lại mà cũng không chép vào trong bộ Trang tử và Nam Hoa kinh (TT&NHK); riêng bài Liệt Ngự Khấu 1, đoạn chép trong bộ Liệt tử, tức trong bài Đừng làm cho người ta biết mình (II.14), cụ dịch lại “để sửa vài chữ”. Để tiện tham khảo, tôi chép đoạn dịch lại đó vào phần Phụ lục (sách không có phần này)[4]. Trái lại, có ít nhất là ba bài cụ không dịch trong LT&DT: II.4, II.20, II.5, nhưng lại được cụ dịch trong TT&NHK: Đạt sinh 2, Đạt sinh 8, Điền Tử Phương 9. Ba bài này tôi cũng chép vào Phụ lục và tạm đặt tên ba bài đó là: Người say rượu té xe, Thuật luyện gà đá, Thuật bắn cung. Ngoài các bài giống nhau đó, trong sách Trang tử, bài Tề vật luận 5 còn có đoạn kể chuyện gạt khỉ như sau: “Thư công phú, viết: “Triêu tam mộ tứ”. Chúng thư giai nộ. Viết: “Nhiên tắc triêu tứ nhi mộ tam”. Chúng thư giai duyệt”. 狙公賦,曰:“朝三暮四。”眾狙皆怒。曰:“然則朝四而暮三。”眾狙皆悅. Cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Ông già nuôi khỉ, bảo chúng: “Tao cho chúng bây sáng ba [trái lật], chiều bốn [trái]. Chúng bây chịu không?”. Chúng đều bất bình. Ông già bèn bảo: “Thế thì sáng bốn [trái], chiều ba. Chịu không?”. Chúng đều mừng”. Tương ứng với bốn chữ “Triêu tam mộ tứ” là năm chữ “triêu tam nhi mộ tứ” 朝三而暮四 trong sách Liệt tử, bài II.19: Một cách gạt khỉ (bài này nhiều chi tiết hơn). Do đó mà có tài liệu bảo rằng xuất xứ của thành ngữ “triêu tam mộ tứ” là sách Trang tử, lại có tài liệu lại bảo là sách Liệt tử[5]. Về việc dịch lại, chúng ta còn thấy, ví dụ như trong phần Một, chương III, lời của Khổng tử được cụ trích dẫn để so sánh phép tu luyện gồm bốn giai đoạn của Liệt tử với phép tu luyện gồm năm giai đoạn của Khổng tử, cũng được cụ dịch lại trong cuốn Luận ngữ (chương Vi chính). Sự khác biệt rõ nét nhất ở câu: lục thập nhi nhĩ thuận 六十而耳順. Trong LT&DT này, cụ dịch là: “sáu mươi tuổi thì lời nào lọt vào tai là ta hiểu ngay”; còn trong Luận ngữ, cụ dịch là: “sáu mươi đã biết theo mệnh trời (chữ nhĩ ở đây không có nghĩa là tai, mà có nghĩa là dĩ = đã)”[6]. Lời của Khổng tử tuy sau này được cụ dịch lại, nhưng vì lời đó, cụ chỉ dùng để so sánh các giai đoạn tu dưỡng của Liệt tử và Khổng tử, nên không ảnh hưởng gì đến nhận định của cụ về tư tưởng của Liệt tử. Tương tự như vậy, bài II.14 tuy cũng được dịch lại, cũng không ảnh hưởng đến cái ý của câu: “Hình như Liệt tử không lãnh một chức vụ gì cả, có lần qua nước Vệ vì ở Trịnh đói kém, một lần khác qua Tề nửa đường trở về (bài II.14), vì ngại vua Tề sẽ giao phó trọng trách cho, ông ta phải gắng sức mà không được an nhàn”. Tôi không biết trong bộ LT&DT này có câu nào, bài nào được dịch lại trong các tác phẩm cụ mà viết sau bộ này như Trang tử, Hàn Phi, Tuân tử, Mặc học, Lão tử, Luận ngữ, Khổng tử, Kinh Dịch, thực sự ảnh hưởng sự nhận định của cụ về tư tưởng của Liệt tử hay không, nhưng dù có ảnh hưởng ít nhiều đi nữa thì đến khi viết bộ Hồi kí, xét về tư tưởng chính trị, địa vị của Liệt tử vẫn được cụ tiếp tục đặt lên hàng các triết gia tiêu biểu của thời Tiên Tần, cụ thể là được kể tên trong phái vô vi cùng với Lão tử, Trang tử và Dương tử. Tuy nhiên, sau bộ Hồi kí, đến bộ Sử Trung Quốc, cũng xét về tư tưởng chính trị, thì trong phái vô vi cụ chỉ kể đến Lão tử, Trang tử và Dương tử, còn Liệt tử đã không được cụ nhắc đến. Có lẽ cụ cho rằng tư tưởng chính trị của Liệt tử không có gì đặc sắc, gần giống như tư tưởng của Trang tử và Dương tử ở điểm “không cần trị dân” mà lại không được diễn rõ ràng như Trang tử và Dương tử nên cụ đã không nêu Liệt tử ra. Tuy nhiên, vì trong Sử Trung Quốc, cụ không xét đến các quan điểm về vũ trụ, tri thức và nhân sinh của các triết gia thời Tiên Tần nên ta không thể dựa vào đó mà bảo rằng cụ không còn bảo lưu ý kiến cho rằng “Liệt tử vẫn xứng đáng đứng dưới Lão, Trang, trên nhiều triết gia khác thời đó, và ngang hàng với Dương tử”. Nhưng dù thế nào đi nữa thì LT&DT vẫn là một tác phẩm “nên đọc” vì trong đó có nhiều truyện “rất lí thú”, “thỉnh thoảng được trích dẫn trong các sách, báo, đặc biệt là trong bộ Cổ học tinh hoa[7] (CHTH) của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân, như truyện Bệnh quên, Mất dê, Người kiếm củi được con hươu, Lo trời đổ, Ngu Công dọn núi…, những truyện ai cũng phải nhận là những ngụ ngôn quí nhất của nhân loại”. Có khá nhiều bài mà nhan đề trong CHTH và nhan đề của bài tương ứng trong LT&DT không giống nhau, ví dụ bài Bệnh quên và bài Mất dê trong CHTH chính là bài Quên hết lại sướng và bài Mất cừu trong LT&DT. Bài Mất cừu, khởi đầu bằng mấy chữ Dương tử chi lân vong dương 楊子之鄰人亡羊, là bài VIII.23, tức là bài 23 của thiên VIII: thiên Thuyết phù 說符; nhưng theo bản Xung hư chân kinh - Liệt tử chữ Hán do bác Vvn chia sẻ trên trang e-thuvien.com, tạm gọi là bản Vvn, thì bài (không có nhan đề, ta cũng có thể gọi là đoạn) bắt đầu bằng mấy chữ đó lại là bài 25 (tạm gọi là bài Thuyết phù 25)[8]. Theo cụ Nguyễn Hiến Lê thì bản gốc do Trương Trầm sưu tập chỉ chia thành tám chương, mỗi chương chẳng những không được chia thành bài mà in cũng không xuống dòng. Từ bản không được chia ra thành bài đó, mỗi nhà tự chia lấy, do vậy mà có chỗ không giống nhau. Ví dụ như thiên Thuyết phù, số bài trong bản của cụ Nguyễn Hiến Lê (bản NHL) ít hơn so với số bài trong bản Vvn, vì bài VIII.1 trong bản NHL gồm hai bài 1 và 2 trong bản Vvn, bài VIII.17 gồm hai bài 18 và 19, do vậy mà bài VIII. 23 trùng với bài Thuyết phù 25 như tôi nói ở trên. Cũng có vài trường hợp ngược lại như bài Dương Chu 17. Bài này cụ Nguyễn Hiến Lê chia ra thành ba bài: Bài VII.18: Loài mọt của trời đất (bắt đầu bằng mấy chữ: Dương Chu viết: Phong ốc, mĩ phục).Bài VII.19: Bỏ trung nghĩa đi (bắt đầu bằng: Trung bất túc dĩ an dân).Bài VII.20: Lợi và hại của danh (bắt đầu bằng: Dục tử viết: Khứ danh giả vô ưu).Hai bài VII.18 và VII.19 chép lời của Dương tử nên cụ Nguyễn Hiến Lê sắp hai bài đó vào phần III: Dương tử; còn bài VII.20 tuy cũng thuộc thiên Dương tử, nhưng vì ghi lời của Dục tử chứ không phải lời của Dương tử nên cụ sắp vài phần II: Liệt tử. Tuy sắp vào phần II: Liệt tử, nhưng khi xét về triết thuyết của Liệt tử, cụ Nguyễn Hiến Lê không nhắc đến bài luận về chữ danh này. Trong 8 thiên, chỉ có mỗi thiên II: Hoàng Đế là cả hai bản đều chia thành 21 bài. Thiên này, trong LT&DT cụ Nguyễn Hiến Lê tuyển dịch 13 bài, trong Phụ lục tôi chép thêm 3 bài nữa như đã nói ở trên, như vậy thiên II chỉ còn 5 chưa dịch: II.8, II.11, II.13, II.17, II.18. Trong quá trình gõ tác phẩm này, có lúc tôi chép theo bản của nhà Lá Bối, chắc là in năm 1972 (tôi dùng bản scan đăng trên http://timsach.com.vn; bản scan này thiếu một số trang), có lúc tôi chép theo bản của nhà Văn hoá Thông tin - năm 2002. Nếu bản này có chỗ nào ngờ sai thì tôi đối chiếu bản kia để, nếu sai, tôi sẽ châm chước sửa lại, mà hầu hết các chỗ sửa lỗi đó tôi không chú thích. Ngoài việc cung cấp bản chữ Hán, như đã nói trên, bác Vvncòn nhiệt tình giải đáp cho tôi những thắc mắc liên quan đến chữ Hán. Xin chân thành cảm ơn bác Vvn, và xin chia sẻ cùng các bạn. GoldfishTháng10-2009Bổ sung tháng 12-2011 ***Ngay ở nước ta, cả trong giới tân học, tên Liệt tử cũng khá quen thuộc. Hầu hết chúng ta đều biết rằng tư tưởng của ông giống tư tưởng Lão, Trang và tuy chưa đọc cuốn Liệt tử vì chưa ai dịch nhưng ít nhất chúng ta cũng được biết dăm ba truyện rất lí thú trong cuốn đó thỉnh thoảng được trích dẫn trong các sách, báo, đặc biệt là trong bộ Cổ học tinh hoa của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân, như truyện Bệnh quên, Mất dê, Người kiếm củi được con hươu, Lo trời đổ, Ngu Công dọn núi…, những truyện ai cũng phải nhận là những ngụ ngôn quí nhất của nhân loại. Ở Trung Hoa, cuốn Liệt tử được tôn xưng là một cuốn kinh: Xung hư chân kinh, từ năm 742[9] (năm thứ nhất niên hiệu Thiên Bảo vua Đường Huyền Tôn), rồi tới đầu thế kỉ XI, đời vua Tống Chân Tôn, lại được thêm hai chữ “chí đức” nữa, thành: “Xung hư chí đức chân kinh” (Xung hư có nghĩa là hư không). Như vậy là cuốn đó được đặt ngang hàng với Đạo Đức kinh, Nam Hoa kinh, hoặc Thi kinh, Thư kinh, và Liệt Ngự Khấu (tức Liệt tử) cũng được đặt ngang hàng với các triết gia lớn nhất thời Xuân Thu, Chiến Quốc, như Khổng Khâu, Lão Đam, Trang Chu. Vậy mà các học giả Trung Hoa gần đây viết về cổ triết của họ, như Hồ Thích, Phùng Hữu Lan, Vũ Đồng không nhà nào để riêng một chương nói Liệt tử, trong khi họ phân tích những triết gia khác chúng ta ít nghe tiếng, chẳng lưu lại một thiên, một chương sách nào cả, như Trần Trọng Tử, Hứa Hành, Doãn Văn… Dĩ nhiên các học giả đó không khi nào bỏ sót một cuốn như Xung hư chân kinh mà không đọc, nhưng đọc rồi, họ chỉ trích vài câu trong Thiên Thuỵ (về vũ trụ) và dùng trọn mỗi một thiên (Tác phẩm gồm tám thiên) tức thiên Dương Chu, để viết không phải về Liệt Ngự Khấu, mà viết về Dương Chu, và viết rất kỹ nữa. Chẳng hạn Hồ Thích trong cuốn Trung Quốc cổ đại triết học sử đại cương bỏ ra 6 trang, Phùng Hữu Lan trong bộ Trung Quốc triết học sử bỏ ra mười trang nghiên cứu học thuyết Dương Chu. Sự kiện cơ hồ khó hiểu đó có ba lý do thuộc về: nhân vật Liệt Ngự Khấu.nguồn gốc tác phẩm Xung hư chân kinh.và học thuyết trong tác phẩm đó.Dưới đây chúng tôi tuần tự xét từng điểm đó một. I. Nhân vật Liệt Ngự KhấuII. Nguồn gốc tác phẩm Xung Hư Chân KinhIII. Tư tưởng của Liệt TửIV. Tư tưởng của Dương TửV. Bản dịch của chúng tôi*** Trong di sản đồ sộ của Nguyễn Hiến Lê thì có rất nhiều tác phẩm họ không chịu in lại - chắc vì khó đến được số đông. Nguyễn Hiến Lê dành toàn bộ năm tháng cuối đời để viết về “Bách gia chư tử” và nhiều cuốn sau khi in lần đầu vào năm 1993 chưa bao giờ in lại cả. Nay được tái bản, nhiều bạn quan tâm sẽ lần đầu được tiếp cận.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Hiến Lê":Kinh Dịch - Đạo Của Người Quân Tử7 Bước Đến Thành CôngĐắc Nhân TâmMạnh TửSống 365 Ngày Một NămMột Lương Tâm Nổi LoạnRèn Nghị Lực Để Lập ThânSống ĐẹpKhổng Tử Và Luận NgữGiải Nghĩa 64 Quẻ Kinh DịchBảy Ngày Trong Đồng Tháp MườiHồi Ký Nguyễn Hiến LêNhững Vấn Đề Của Thời ĐạiRèn Luyện Tình CảmTrang Tử Nam Hoa KinhÝ Cao Tình ĐẹpBảy Bước Đến Thành CôngDạy Con Theo Lối MớiGương Chiến ĐấuGương Hy SinhHàn Phi TửLiêt Tử Và Dương TửNghề Viết VănSăn Sóc Sự Học Của Con EmSử Trung QuốcTổ Chức Gia ĐìnhVài Nét Sơ Lược Về Sự Phát Triển Của Triết Học Trung HoaĐường, Tống Bát Đại GiaLão Tử Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến LêGương Kiên NhẫnCon Đường Thiên LýĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Liêt Tử Và Dương Tử PDF của tác giả Nguyễn Hiến Lê nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kinh Tế Việt Nam - Định Hướng Và Viễn Cảnh Phát Triển (Trần Bình)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kinh Tế Việt Nam - Định Hướng Và Viễn Cảnh Phát Triển PDF của tác giả Trần Bình nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Khế Ước Xã Hội (Jean-Jacquesrousseau)
Khế Ước Xã Hội là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong thời kỳ Khai sáng, mở đường cho Cách mạng Pháp và Tuyên ngôn Nhân quyền Pháp năm 1789.Khế ước Xã hội gồm bốn quyển, mỗi quyển từ mười tới mười lăm chương. Trong lời mở đầu Rousseau viết: “Với bản chất con người như ta biết, và với tính chất có thể xảy ra của luật pháp, tôi muốn tìm xem trong trật tự của một xã hội dân sự có thể có một luật lệ cai trị nào chắc chắn và hợp tình hợp lý…” “Cái mà con người mất đi khi chấp nhận khế ước xã hội là sự tự do thiên nhiên và sự vô giới hạn trong những việc anh ta muốn làm và những gì anh ta muốn giữ khi chiếm được; bù lại cái mà anh ta nhận được là sự tự do trong văn minh và quyền sở hữu chính đáng những gì mà anh ta có”. “Người” có thẩm quyền làm ra luật để cai trị một cộng đồng lập nên bởi khế ước xã hội, theo Rousseau, không ai khác hơn là tất cả mọi người đồng trao quyền đó cho một con người nhân tạo gọi là “Hội đồng Tối cao” (sovereign) bao gồm tất cả mọi người; con người nhân tạo này khi được thành hình bởi khế ước xã hội có đời sống và ý chí riêng. Ý chí riêng của con người nhân tạo này là ý chí của cả tập thể, gọi là “ý chí tập thể” (general will) nhằm đạt tới cái tốt chung cho cả cộng đồng.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Khế Ước Xã Hội PDF của tác giả Jean-Jacquesrousseau nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hành Trình Trí Thức Của Karl Marx (Nguyễn Văn Trung)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hành Trình Trí Thức Của Karl Marx PDF của tác giả Nguyễn Văn Trung nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.