Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hannibal Trỗi Dậy

Hannibal Trỗi Dậy Hannibal Trỗi dậy “Một tuyệt phẩm của máu và bạo lực nơi những nỗi kinh hoàng của chiến tranh được miêu tả một cách đẹp đẽ, nếu có thể dùng từ đó, khi Hannibal buộc phải trở thành kẻ ăn thịt người mà sau này sẽ trở thành thương hiệu của hắn.”- Independent --------- Trước HANNIBAL Trước SỰ IM LẶNG CỦA BẦY CỪU Trước RỒNG ĐỎ Một đứa trẻ đã sống sót qua nỗi kinh hoàng Thế chiến, qua những kẻ ăn xác, qua sự tàn bạo man rợ của chiến tranh. Nó đứng trong tuyết, hoàn toàn đơn độc khi thế giới chìm trong máu, băng giá và tro tàn. Đứa trẻ đã bước vào mùa đông đằng đẵng của lòng mình và con quái vật khủng khiếp nhất tiểu thuyết lẫn màn ảnh thời hiện đại ấy trỗi dậy: Bác sĩ Hannibal Lecter. *** “Một đứa trẻ đã sống sót qua nỗi kinh hoàng Thế chiến, qua những kẻ ăn xác, qua sự tàn bạo man rợ của chiến tranh. Nó đứng trong tuyết, hoàn toàn đơn độc khi thế giới chìm trong máu, băng giá và tro tàn. Đứa trẻ đã bước vào mùa đông đằng đẵng của lòng mình và con quái vật khủng khiếp nhất tiểu thuyết lẫn màn ảnh thời hiện đại ấy trỗi dậy: BÁC SĨ HANNIBAL LECTER” Hannibal là ai? Hannibal, hay còn được biết đến cái tên với đầy đủ là Hannibal Lecter, là một tay bác sĩ nổi tiếng tài ba trong giới phẫu thuật học. Tuy vậy, bản chất thực sự của hắn lại là con quái vật ăn thịt người hung tợn với những thủ đoạn giết người khôn khéo và tàn bạo đủ khiến người đọc phải rợn tóc gáy. Đây là nhân vật kinh điển đã xuất hiện trong 4 tập truyện trong series về Hannibal của nhà văn người Mỹ Thomas Harris. Trong đời thực, tên sát nhân này được lấy cảm hứng từ Dr. Alfredo Balli Trevino, kẻ đã giết và ăn thịt chính người bạn trai của mình. Mặc dù là tập cuối cùng trong bộ truyện, thế nhưng Hannibal Trỗi Dậy lại miêu tả về những sự việc đầu tiên trong cuộc đời của Hannibal, dẫn dắt người đọc theo dòng cảm xúc của gã sát nhân để ta hiểu được rằng, trước khi biến thành con quái vật khát máu, Hannibal đã từng là một con người bình thường, có tình yêu thương có cảm xúc. Thậm chí, nếu không vì những thăng trầm đẩy hắn xuống vực sâu của tội ác, hắn đã có thể trở thành một thiên tài lừng lẫy ghi dấu trong lịch sử nhân loại. “Một tuyệt phẩm của máu và bạo lực nơi những nỗi kinh hoàng của chiến tranh được miêu tả một cách đẹp đẽ, nếu có thể dùng từ đó, khi Hannibal buộc phải trở thành kẻ ăn thịt người mà sau này sẽ trở thành thương hiệu của hắn” – Theo INDEPENDENT. Sơ lược về nội dung của cuốn sách Mạch truyện được dẫn dắt từ tuổi thơ của Hannibal Lecter kéo dài cho đến khi tên sát nhân này 18 tuổi. Vốn xuất thân từ một gia đình quý tộc và quyền quý, Hannibal từ nhỏ đã thông thạo tận ba thứ tiếng: Anh, Đức và Lít Va. Không những thế, cậu bé Hannibal còn phát triển khả năng của mình ở những môn học khác như toán, lý,… dưới sự giảng dạy của người thầy Jacob. Tuy nhiên, khi chiến tranh ập đến, cậu bé Hannibal đã mất đi những người thân của mình, mà đau thương nhất chính là cô em gái Mischa, khi Hannibal tận mắt chứng kiến cảnh cô em gái của mình bị những tên tội phạm chiến tranh ăn thịt.  Có lẽ vì chính những kí ức đau thương ấy đã tác động đến tâm lý của cậu bé Hannibal hồn nhiên, nhân hậu, thông minh, biến cậu trở thành một kẻ giết người hàng loạt sau này. Khi tương lai của một vĩ nhân, bị phá hoại bởi bom đạn chiến tranh Không phải chỉ riêng trong tác phẩm này mà chúng ta nhìn ra được cái đau thương mà chiến tranh mang lại. Thế chiến thứ hai khi ấy đi qua, để lại cho toàn thế giới với cái chết của hàng triệu người, gắn liền với nó là nỗi đau mất mát. Mất mát không chỉ về thể xác, tinh thần, mà còn mất mát về những hoài bão. Khi nghiền ngẫm về tuổi thơ của Hannibal, có lẽ không ít độc giả sẽ tự mường tượng ra hình ảnh của một vĩ nhân tương lai cùng những giải thưởng danh giá trong các lĩnh vực toán học, vật lý, ngôn ngữ,… “Hannibal Lecter biết đọc từ khi mới chào đời hoặc trong mắt chị vú thì đúng là như vậy. Chị từng có một thời gian ngắn đọc sách cho thằng bé nghe hồi nó lên hai, thường là đọc cuốn truyện cổ Grimm được mình họa bằng các tranh khắc gỗ vẽ những hình người có móng chân nhọn. Thằng bé lắng nghe chị vú đọc, ngả đầu áp vào người chị trong lúc nhìn các trang giấy, sau đó chị vú phát hiện ra thằng bé đang tự mình đọc, tì trán lên cuốn sách rồi nâng người lên cách trang sách một đoạn, đọc thành tiếng theo lối phát âm của chị vú. Cha Hannibal có lòng hiếu kỳ rất mạnh. Xuất phát từ lòng hiếu kỳ về con trai mình, bá tước Lecter đã sai người hầu lôi những cuốn từ điển nặng trịch từ trên giá sách trong thư viện của lâu đài xuống. Từ điển tiếng anh, tiếng Đức cùng hai mươi ba tập từ điển Litva; rồi sau đó Hannibal một mình xử lý đống sách.” “Cũng vào năm Hannibal lên sáu, bá tước Lecter bắt gặp con trai đang tìm cách đo chiều cao của lâu đài dựa vào chiều dài các bóng tháp, làm theo các hướng dẫn mà theo lời thằng bé là do chính Euclid đưa ra. Đến lúc đó, bá tước Lecter bèn tìm các gia sư giỏi giang hơn cho thằng bé – vậy là sáu tuần sau đó, thầy Jakov – một học giả không xu dính túi từ Leipzig – xuất hiện” Nếu không vì chiến tranh, Hannibal của sau này, chắc hẳn đã lẫy lừng trên các mặt báo và truyền thông thời ấy vì những phát kiến vĩ đại của mình. Tuy rằng giọng văn của Thomas Harris không chất đầy sự thương cảm, nhưng bù lại, bằng cách miêu tả về chính tài năng thiên bẩm và khả năng học hỏi không ngừng ấy của Hannibal bị vùi dập bởi chiến tranh, cũng đủ để khơi dậy sự tiếc nuối trong lòng người đọc. Nhưng cái kinh khủng hơn cả, vẫn là nỗi đau tinh thần, thứ đã thật sự biến cậu thành một con quái vật. Mở đầu câu truyện, độc giả hẳn sẽ thấy xao xuyến bởi nét đáng yêu của cô bé Mischa, em gái Hannibal, cũng như cảm nhận được tình anh em gắn bó keo sơn giữa cả hai. Khi chứng kiến cái chết của cha mẹ mình và những người khác dưới sự phá hủy của bom đạn, Hannibal tự nhủ chính mình là bờ vai vững chắc những chăm sóc, đùm bọc cho cô em gái nhỏ bé của mình. Tưởng chừng chỉ phải chống chọi với cái cô độc của mùa đông, nhưng điều kinh hoàng chỉ thật sự ập đến khi những kẻ tội phạm chiến tranh, đứng đầu là Grutas, chiếm giữ và biến Mischa thành bữa ngon của chúng. Sự kiện ấy có lẽ đã đeo bám cậu cho đến mãi sau này, Hannibal vẫn luôn bắt gặp nó trong những giấc mơ, cùng câu nói đã khiến cậu ám ảnh: “Y xoay bộ mặt lấm máu về phía ban công, nhổ một sợi lông dính trong miệng ra rồi nói, “Bọn tao mà không ăn thì sẽ đi đời nhà ma.” Chúng vứt vào trong ngọn lửa album ảnh gia đình Lecter cùng các món đồ chơi bằng giấy của Mischa ,tòa lâu đài của con bé, những con búp bê giấy của nó. Đến lúc này, Hannibal đang đứng trên sàn nhà trước lò sưởi, một cách đột ngột, không hề ý thức được nó đã leo xuống cầu thang như thế nào, và sau đó chúng lại đang ở trong chuồng ngựa, mấy món quần áo nhét giữa rơm, những món quần áo trẻ em thằng bé không nhận ra và cứng quèo vì máu. Đám đàn ông túm tụm tiến lại gần, sờ mó da thịt thằng bé và Mischa. “Mang con bé này đi đi, đằng nào nó chẳng chết. Đi chơi thôi nào, đi chơi thôi nào.” Giờ chúng đang túm lấy con bé, đồng thời cất tiếng hát. “Gã nhỏ bé trong rừng, tĩnh lặng…” ” Đây chính dấu mốc quan trọng mở đầu cho con thú dữ, cho một sự trỗi dậy của tên tội phạm khét tiếng: “Hannibal Lecter”. Những tranh cãi xung quanh mối quan hệ giữa Hannibal và phu nhân Murasaki Murasaki có lẽ là một người phụ nữ sẽ để lại nhiều ấn tượng mạnh cho người đọc khi đã buông quyển sách xuống, không chỉ vì phong thái sắc sảo, thoắt ẩn thoắt hiện đầy bí ẩn của bà, mà còn vì câu chuyện tình cảm giữa bà và Hannibal được giới độc giả tranh cãi một cách rầm rộ kể từ khi quyển sách được ra mắt cho đến nay. Giới thiệu một chút về Murasaki. Khi Hannibal 13 tuổi, cậu được chuyển về cô nhi viện (nhưng thật chất trước đây nơi này chính là lâu đài Lecter, ngôi nhà mà cả gia đình Hannibal đã sinh sống). Do chính tác động tiêu cực trước cảnh tượng em gái mình bị ăn thịt, mà Hannibal trở nên tách biệt với xã hội và không thể nào giao tiếp với những đứa trẻ khác. Cậu trở thành học sinh cá biệt, là cái gai trong mắt những người xung quanh, nhất là các giáo viên trong trường. Chính vì thế, ông Robert Lecter, người em ruột của ba cậu và vợ của ông, phu nhân Seba Murasaki đã quyết định nhận nuôi cậu. Phải chăng một trang mới đã mở ra với Hannibal, khi cậu học được rất nhiều thứ từ ông: cậu học được cách cảm thụ hội họa, cảm nhận những tinh hoa từ các tác phẩm nghệ thuật. Nhưng điều đó chưa phải là hết, bên cạnh Murasaki, cậu tiếp thu thêm được những tinh hoa từ văn hóa nghệ thuật Nhật Bản, từ trà đạo, kiếm đạo cho đến những chiến tích lẫy lừng của những vị Samurai cổ xưa. “ Cánh cửa phòng áp mái ngày xưa vốn được lắp vào một chỗ khác trong ngôi nhà, một khuôn mặt được khắc lên cửa cửa, một cái mặt nạ hài kịch Hy Lạp. Phu ngân Murasaki, cầm theo cây đèn nến, dẫn đường đi sâu vào trong căn phòng áp mái rộng mênh mông, băng qua bộ sưu tập ba trăm năm tuổi những món đồ lưu kho, những rương hòm, đồ trang hoàng Giáng Sinh, đồ trang trí bãi cỏ, các món nội thất bằng liễu gai, trang phục kịch Noh và trang phục kịch Kabuki cùng một dãy con rối dùng cho các lễ hội kích cỡ như người thật treo lủng lẳng trên một thanh xà. Ánh sáng yếu ớt len qua tấm rèm chắn sáng trên cửa sổ mái nằm cách xa cửa vào. Cây nến phu nhân Murasaki đang cầm chiếu sáng một bàn thờ nhỏ một thần bằng nằm đối diện cửa sổ. Trên bàn thờ, đặt ảnh các bậc tổ tiên của cô và của Hannibal. Một đàn hạc giấy, rất nhiều hạc giấy, vây xung quanh các bức ảnh […] Khi phu nhân Murasaki kéo tấm rèm che cửa sổ mái lên, ánh sáng đầu ngày bao trùm lên Hannibal, bao trùm lên sự hiện diện tối đen bên cạnh nó, bao trùm lên bàn chân bọc thép, cây quạt chiến được nắm trong hai bàn tay đeo găng sắt, giáp che ngực và cuối cùng là chiếc mặt nạ sắt và chiếc mũ sắt có sừng của một chỉ huy samurai. Bộ giáp được đặt theo tư thế đang ngồi trên một bệ nâng. Vũ khí của vị samurai, đoản kiếm và trường kiếm, đoản đao và một cây rìu chiến, nằm trên một cái giá phía trước một bộ giáp.” “Có một cuộn giấy da nằm trên cái bệ trước bộ giáp. Cuộn giấy mở ra một đoạn vừa đủ để lộ khung hình đầu tiên, vị samurai mặc giáp trong buổi tiếp kiến tùy tùng. Trong lúc Murasaki bày biện lại thần bằng, Hannibal mở cuộn giấy ra thêm một đoạn nữa, đến khung hình tiếp theo, vị samurai mặc giáp trước một dãy những cái đầu samurai, mỗi một cái đầu kẻ thù đều được đi kèm với cái tên của kẻ đã chết, thẻ tên được gắn vào mái tóc, còn trong trường hợp kẻ này trọc đầu thì thẻ tên được gắn vào tai” Tuy nhiên điều gắn kết lớn nhất mà Hannibal tìm thấy ở phu nhân, có lẽ là sự đồng cảm: “Nếu cháu không muốn nói bằng tiếng Pháp tiếng Anh hay tiếng ý thì chúng ta có thể sử dụng một số từ tiếng Nhật, chẳng hạn như kieuseru. Nó có nghĩa là “biến mất”. Cô để một cuốn hoa xuống, ánh mắt dời khỏi những bông hoa, nhướng lên nhìn thẳng vào thằng bé. “Thế giới Hiroshima của cô đã tan biến trong chớp mắt. Thế giới của cháu cũng bị tước đoạt khỏi cháu. Giờ cháu và cô có một thế giới để chúng ta dựng xây – cùng với nhau. Trong giây phút này, trong căn phòng này.” Như những gì lịch sử ghi lại, hai quả bom nguyên từ giáng xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki vào năm 1945 đã để lại một chấn động trong lịch sử nhân loại bởi sự tàn phá khủng khiếp của nó: hơn 140 ngàn người chết cũng như để lại sự kinh hãi cho những người đã may mắn sống sót qua giây phút hoảng loạn ấy. Và phu nhân Murasaki cũng không nằm ngoài số đó. Mặc dù không đề cập quá rõ những mất mát bà đã từng chịu đựng, nhưng với tính cách rắn rỏi, mạnh mẽ nhưng không kém phần mềm mại của người phụ nữ người Nhật ấy, ta có thể đủ chiêm nghiệm ra những vết xước tâm hồn đủ lớn để làm nên con người của bà lúc này. Vì có mất mát mà có thấu hiểu, một nỗi đau lại gặp gỡ một nỗi đau mà điểm cắt chung của nó là sự mất mát. Tình cảm của Hannibal dành cho Murasaki và ngược lại, thật sự khó nói bởi nó không phải là tình cảm máu mủ đơn thuần, và mỗi người sẽ có một cách cảm nhận khác nhau về nó. Tuy nhiên đứng trên phương diện của mình, nó như là một lời thề sẽ bảo vệ hết mình của Hannibal dành cho bà, một sự đền đáp ơn nghĩa của trò dành cho Thầy. Ta không thể biết rõ rằng, Hannibal đã thật sự dành một tình cảm mãnh liệt cho Murasaki từ giây phút nào. Từ những bài học, từ sự tiếp xúc thường xuyên dưới danh nghĩa cô-cháu của cả hai, hay chính là từ cái chết bất đắc kỳ tử của ông Robert Lecter khi đang ra tay trả thù cho bà? Nhưng có bộc phát lúc nào đi nữa, phải chăng Murasaki đã dần trở thành lý tưởng sống của cậu, vẫn là tín hiệu cho cậu thấy mình vẫn là con người, dù cho chính Hannibal phản lại những lời khuyên khẩn thiết dành cho bà trong những lần tàn sát khốc liệt của mình sau này. Hannibal – Một kẻ giết và ăn thịt người hàng loạt Ở phần này, mình xin phép được gọi Hannibal bằng “hắn”, vì để đúng với cách Thomas gọi Hannibal trong những lần đi “săn người” trong nguyên tác của mình. Tổng số nạn nhân của Hannibal trong cả bộ truyện là 28, và tính riêng tác phẩm này là 6 người. Tuy nhiên, trong bài viết này mình chỉ sẽ đề cập đến Paul Đồ Tể, nạn nhân đầu tiên của Hannibal, và nạn nhân cuối cùng, Grutas, kẻ man rợ và hung hãn năm nào đã nhẫn tâm ra tay sát hại cô em gái Mischa đáng thương của Hannibal. Nói về Paul Đồ Tể, hay Paul Momund cũng vốn là một tội phạm chiến tranh (nhưng giờ hắn là một gã bán thịt), bị rất nhiều người miệt thị và ghét bỏ trong khu chợ. Trong một lần cùng Hannibal đi mua sắm, phu nhân Murasaki đã bị hắn ta xúc phạm với ngôn ngữ miệt thị về dân tộc và thể xác. Điều đó dấy lên nỗi căm phẫn trong lòng Hannibal và khiến cả hai bên xung đột. Nhưng chỉ đến khi ông Robert Lecter lên cơn đau tim khi đang trả thù Paul Đồ Tể và ra đi mãi mãi, thì đó mới là động cơ chính thức để Hannibal ra tay giết chết Momund. Và kinh hãi nhất, sau khi giết chết Paul, Hannibal đã biến tên đồ tể thành bữa trưa của hắn. “Giờ thanh gươm lại vung lên, vạch vào người Paul thành hình chữ X, mắt Paul trợn trừng sửng sốt và gã đồ tể cố tháo chạy, tóm lấy hai bên xương đòn, một dòng máu từ động mạch gã bắn ra xịt vào mặt Hannibal. Hai nhát chém tiếp theo rạch vào phía sau chân Paul và gã đồ tể bị cắt đứt gân kheo đổ sụm xuống, rú lên như một con bò. Paul đồ tể ngồi dựa vào cái cây bị đốn trơ gốc. Hắn không nhấc tay lên được nữa. Hannibal nhìn thẳng vào mặt gã. “Mày có muốn xem tao vẽ gì không?” Thằng bé chìa tập ra. Trên tờ giấy là hình vẽ cái đầu Paul Đồ Tể nằm trên một cái dĩa phẳng, tóc gắn nhãn tên. Cái nhãn đề Paul Momund, Thịt Ngon. Hình ảnh xung quanh rìa tầm nhìn của Paul tối dần lại. Hannibal vung gươm và trong một thoáng, mọi cảnh vật trong mắt Paul chuyển sang tư thế nằm ngang, rồi sau đó, áp sáu máu biến mất và bóng tối bao trùm” Hiển nhiên, kẻ đầu tiên mà cảnh sát đưa vào diện tình nghi chính là Hannibal, nhưng điều khiến cho người đọc vừa ngưỡng mộ, cũng vừa kinh hãi chính là việc hắn có thể đánh lừa cả máy nói dối và thoát tội một cách dễ dàng. Như đã đề cập ở trên, hắn vừa có khả năng về ngôn ngữ lẫn những môn khoa học trí tuệ, thì qua cuộc điều tra này, người ta còn tìm thấy ở con quái vật khả năng thâu tóm cảm xúc lẫn đánh lừa người khác. Điều này không chỉ được đề cập trong Hannibal Trỗi Dậy, mà trong những tập truyện trước của series này, độc giả cũng đã được dịp chiêm ngưỡng khả năng đáng sợ này của hắn ta. Tiếp theo, Vladis Grutas Nhắc đến Grutas, mình không thể nào không căm phẫn trước những chiêu trò đồi bại lẫn tàn nhẫn của hắn ta. Là kẻ cầm đầu trong băng đảng những tội phạm chiến tranh, hắn (hoặc cùng những tên đồng phạm khác), đã từng phạm vào nhiều tội danh khác nhau liên quan tới buôn lậu các tác phẩm tranh vẽ nổi tiếng, buôn người hay kinh khủng nhất: giết người. Dường như cái chết chẳng là gì đối với một con quỷ dữ như gã cả. Sau khi ra tay giết chết hàng loạt những người anh em khác của Grutas bằng những cách thức dã man khác nhau, Hannibal cuối cùng cũng đã tìm ra và kết liễu Grutas trên con thuyền buôn người của gã. “Grutas vội vã tiến về phía khẩu súng, trong lúc đó vẫn nói không ngừng: “Mày đã ăn thịt nó, nửa tỉnh nửa mê, đôi môi mày hau háu ngậm cái thìa”  Hannibal ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, hét lên, “KHÔNGÔNGÔNGÔNGÔNG!” và chạy về phía Grutas, giơ cao thanh đoản đao, đè chân lên khẩu súng rồi rạch một chữ “M” lên mặt Grutas, chạy dài suốt từ trán xuống cằm y, vừa rạch vừa gào thét, “ ‘M’ viết tắt của Mischa! ‘M’ viết tắt của Mischa! ‘M’ viết tắt của Mischa!’ Grutas giật lùi trên sàn và Hannibal rạch một chữ “M” to tướng lên người y.” Nhịp văn nhanh và gấp rút, đủ để mình thấy ớn lạnh với hình ảnh cái xác của gã ta nằm lăn lóc dưới tay của Hannibal. Quả thật cách giết người của hắn vô cùng tinh vi, khéo léo, hay nói cách khác, đầy nghệ thuật bởi những điều hắn đã học được từ hội họa và phẫu thuật học. Nhưng nếu lật lại tuổi thơ của Hannibal, nó vẫn để lại cho mình một sự tiếc nuối, khi một thiên tài đã mãi mãi nằm lại ở hố sâu địa ngục, một con quỷ dưới hình dạng con người với sự thèm khát máu thịt, mà đến mức Popil, viên cảnh sát chuyên điều tra những sự việc liên quan đến hắn phải thốt lên: “Giờ hắn là gì? Hiện tại, ta vẫn chưa tìm được cách gọi chính xác. …, chúng ta cứ gọi hắn là con quái vật đi.” Lời kết Tuy là tập cuối cùng được sản xuất trong cả vũ trụ Hannibal, thế nhưng bạn đọc có thể yên tâm tìm đọc nó đầu tiên bởi lẽ “Hannibal Trỗi Dậy” tường thuật lại những sự kiện đầu tiên của cả cuộc đời hắn ta, nhất là về nguồn gốc con quái vật luôn ngự trị trong hắn. Điều khác biệt nhất so với ba tập truyện còn lại, chính là mình nhìn thấy một Hannibal với nhiều cung bậc cảm xúc cùng nhiều mặt tính cách hơn của hắn. Từ một cậu bé lanh lợi, sang một sinh viên tài ba, cho đến một quý ông lãng mạn trong mắt Murasaki, và cuối cùng, con quái vật ăn thịt người man rợ. Mình tin rằng sẽ không hiếm độc giả sẽ cảm thấy rợn tóc gáy với những chiêu trò giết người tinh xảo của hắn, cũng như thán phục trước đầu óc của một tên thiên tài điên loạn. Vì vậy, sau khi buông quyển sách xuống, hãy dành chút ít thời gian xem thêm phiên bản điện ảnh của tác phẩm này nhé, chắc chắn sẽ không làm bạn thất vọng đâu. “Cô có nghĩ là Chúa muốn ăn thịt Isaac không, bởi vậy nên ngài mới bảo Abraham giết chết cậu ta?” Hannibal hỏi. “Không, Hannibal. Tất nhiên không phải thế. Thiên thần đã can thiệp kịp thời” “Không phải lúc nào cũng vậy,” Hannibal nói. Review chi tiết bởi: Trọng Kiên – Bookademy Mời các bạn đón đọc Hannibal Trỗi Dậy của tác giả Thomas Harris.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Buổi Tiệc Trà Kì Bí
Đầu năm mới, Kyoto khoác lên mình dáng vẻ vô cùng nhộn nhịp. Cô bé Mashiro Aoi đang làm thêm ở cửa hàng đồ cổ “Kura” trong khu phố Teramachi Sanjo cùng cháu trai ông chủ là Yagashira Kiyotaka được mời tới tham dự buổi “tiệc đọc sách” của tác giả thể loại văn học kì bí nổi tiếng, Aigasa Kurisu. Sự kiện ấy được tổ chức tại Sơn trang Yoshida vào buổi tối ngày Valentine. Trong buổi “tiệc đọc sách”, biên tập viên phụ trách và bạn bè thân thiết của Kurisu cũng được mời đến. Tại đó, em gái Kurisu đã yêu cầu Kiyotaka tìm ra thủ phạm định giết chị gái mình ba tháng trước… Đây là tập bốn của loạt tiểu thuyết kì bí thành công vang dội! * Holmes ở Kyoto là bộ tiểu thuyết kì bí nhẹ nhàng cực kì nổi tiếng, không chỉ tạo cơ hội cho độc giả làm quen với những nét đẹp văn hoá của mảnh đất Kyoto mà còn giới thiệu về muôn vàn món cổ vật nổi tiếng ở khắp nơi trên thế giới. Và rồi, mỗi món cổ vật đều cất giữ câu chuyện của riêng mình. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** Một nhành dương liễu được tô điểm bằng những chiếc bánh mochi hồng và trắng. Mỗi khi năm mới đến, người ta sẽ lại bắt gặp món đồ trang trí dễ thương này. Nếu tôi không nhầm thì mochibana-shidare[1] là tên gọi của nó. Đồ trang trí trong dịp Tết có rất nhiều loại, nhưng tôi thích nhất là mochibana-shidare. Tôi, Mashiro Aoi, đang ngồi trên một chuyến xe buýt chật ních người. Vừa lắc lư theo chiếc xe, tôi vừa nhìn ra ngoài cửa sổ và nhoẻn miệng cười. Mùng ba tháng Giêng. Cả Kyoto đang tràn ngập niềm vui đón năm mới. Khắp nơi được trang hoàng lộng lẫy với shime-kazari[2], nebiki-matsu[3], mochibana-shidare, và những chiếc quạt giấy mạ vàng. Già trẻ gái trai trong trang phục truyền thống đi lại trên đường đông như mắc cửi. Ngỡ là toàn bộ thành phố đang trong mùa lễ hội rộn ràng. Tôi dám chắc những người đang đi lại trên phố này đa phần là khách du lịch. Có lẽ họ đến từ các tỉnh thành khác, muốn được tận hưởng dịp Tết ở một nơi “đậm chất Nhật Bản” như Kyoto, nên mới tới đây thăm thú đền chùa và xin lộc đầu năm. Và biết đâu, người ngoài trông thấy tôi lúc này cũng sẽ tưởng tôi là khách du lịch. Nhìn bộ dạng của bản thân hiện tại, tôi bẽn lẽn thu mình. Chiếc xe vừa dừng lại trước toà thị chính, tôi đã hấp tập nhảy xuống. Từ đường Oike, tôi đi xuyên qua biển người để tìm đến phố mua sắm Teramachi, Khu phố thương mại lợp mái vòm hôm nay còn náo nhiệt hơn thường ngày. Phần lớn những cửa hàng được xây kề nhau trong khu phố đã bắt đầu mở cửa từ mùng hai; chỗ thì chuẩn bị sẵn túi may mắn[4] chỗ lại phát rượu khai vị đầu năm[5]. Tất cả đều chìm trong bầu không khí hân hoan vui vẻ. Phố mua sắm Teramachi lúc này tấp nập ngang ngửa dịp cuối năm, nhưng cảm giác bề bộn, hối hả khi ấy đã không còn. Dù tính ra cũng mới có vài ngày kể từ khi năm cũ khép lại. Tới tận ngày ba mươi mốt tháng Mười Hai, tôi vẫn còn làm thêm ở đây. Vậy mà kì lạ thay, chỉ cần “sang năm mới” là tôi đã có cảm tưởng như lâu lắm mới được đặt chân đến nơi này. Nhịp bước nhún nhảy của tôi liệu có phải do tâm trạng phấn chấn trong không khí Tết? Cuối cùng thì ngày làm việc đầu tiên trong năm cũng đã đến. Phải, tiệm đồ cổ “Kura” nơi tôi làm thêm sẽ chính thức hoạt động trở lại vào hôm nay, mùng ba tháng Một. Ông chủ tiệm là ông Yagashira Seiji đã đề xuất rằng, “Vào ngày làm việc đầu tiên, tất cả đều phải có mặt nghen,” cho nên kể cả đứa làm thêm như tôi cũng được gọi đến. Ngoài việc trong cửa hàng ra, tôi tự thấy mình chẳng giúp được gì nhiều. Ấy vậy mà ông chủ vẫn mời tôi đến dự buổi gặp mặt đầu năm, khiến tôi vô cùng hạnh phúc. Cảm giác như mọi người đã thật sự công nhận tôi là một phần của tiệm “Kura”. Tôi tự nhủ mình phải vững vàng lên, mắt nhìn thẳng về phía trước và bước đi mạnh mẽ. Chẳng mấy chốc, tấm biển của cửa hàng đồ cổ “Kura” đã hiện ra trong tầm mắt. Bề ngoài của nó vẫn như mọi khi, giống một quán cà phê hơn là tiệm đồ cổ. Tiệm “Kura” hôm nay cũng đã chuyển sang “chế độ mừng năm mới”, với mặt tiền được trang hoàng bởi kadomatsu[6], shime-kazari, và cả mochibana-shidare. “Cháu chào mọi người ạ.” Khi tôi đẩy cửa bước vào, tiếng chuông cửa quen thuộc lại reo lên leng keng. “Ồ, Aoi đó hả?” Người vừa cất giọng sang sảng và ngoảnh lại nhìn tôi là ông chủ cửa hàng này, ông Yagashira Seiji, năm nay bảy mươi bảy tuổi. Ông là một người chuyên giám định đồ cổ nổi tiếng mang danh hiệu “Chuyên gia giám định cấp quốc gia” được đông đảo cư dân ở vùng Kansai này biết đến. Thường ngày, ông chủ hay ăn vận theo phong cách kinagashi phóng khoáng, nhưng hôm nay đã đổi sang lễ phục đầy đủ quần hakama[7] và áo khoác haori[8] cho đúng tinh thần lễ tết, cảm giác trịnh trọng và uy nghiêm hơn bội phần. Đứng cạnh ông chủ là con trai ông, bác quản lí Takeshi. Gọi là quản lí nhưng nghề nghiệp chính của bác ấy là nhà văn, chuyên sáng tác tiểu thuyết lịch sử với bối cảnh thời phong kiến. Bác gắn liền với hình ảnh vừa trông cửa hàng vừa cặm cụi cày bản thảo ở “Kura”. Hôm nay bác mặc một bộ kimono màu chàm. Đứng bên còn lại của ông chủ là một chàng thanh niên cao ráo với gương mặt khôi ngô đang nhoẻn miệng cười dịu dàng. Đó là cháu nội kiêm đệ tử của ông, anh Kiyotaka, hay còn gọi là anh Holmes, một sinh viên cao học đang làm giám định viên tập sự. Anh là người có đầu óc nhạy bén, được đặt biệt danh là Holmes nhờ vào khả năng quan sát và mắt thẩm định tinh tường hiếm thấy, cùng cái họ “Yagashira”. Anh Holmes lúc này cũng đang khoác trên mình một bộ kimono giống ông chủ và bác quản lí, nhưng màu mực tàu. Ở phía sau lưng họ có một người phụ nữ xinh đẹp. Cô là Takiyama Yoshie, đang điều hành một công ty chuyên tư vấn tổ chức những sự kiện liên quan đến mĩ thuật, đồng thời cũng là bạn gái của ông chủ. Cô có ngoại hình hết sức trẻ trung, tưởng như mới ngoài ba mươi, nhưng thực ra là một mĩ nhân đứng tuổi đã ngoại tứ tuần. Bộ hōmongi[9] xanh lục sáng như màu cỏ non hôm nay hoà hợp với cô một cách hoàn hảo. Đúng vậy, hôm nay, ngày làm việc đầu tiên của năm đã được quy ước là ngày “mặc kimono đi làm” nên tất cả chúng tôi đều diện trang phục truyền thống. “Chúc mừng năm mới Aoi nhé.” Được mọi người đồng thanh gửi lời chúc, tôi rụt rè cúi đầu. “Ch-Chúc mừng năm mới cả nhà mình ạ. Dù đã biết hôm nay sẽ như thế, nhưng nhìn mọi người đồng loạt mặc kimono thế này vẫn làm cháu hơi choáng ngợp.” “Tết là mặc kimono”, rất đúng kiểu của “Kura”. “Vậy nhưng, ở đây chỉ có một mình anh là mặc kiểu kinagashi thôi này.” Kinagashi là cách mặc trang phục truyền thống giản lược, không cần áo khoác haori hay quần hakama mà chỉ có kimonothắt obi. “Em thấy anh mặc đẹp lắm ạ.” Tôi có cảm giác là kiểu mặc kinagashi thanh thoát, không cầu kì sẽ hợp với anh Holmes hơn lễ phục cứng nhắc với đầy đủ haori và hakama. Mái tóc đen nhánh kết hợp với bộ kimonomàu mực tàu làm nổi bật lên làn da trắng trẻo của anh ấy, trông thật là quyến rũ. “Cảm ơn Aoi. Bộ komon ấy cũng rất hợp với em,” anh Holmes mỉm cười đáp. “Công nhận, cháu đáng yêu lắm.” “Phải đấy, trông rất xinh.” Cô Yoshie và bác quản lí cũng chêm vào. “... Ch-Cháu cảm ơn ạ,” tôi xấu hổ lí nhí. Đúng vậy, hôm nay tôi cũng mặc kimono. Gọi vậy thôi chứ nó không phải furisode mà là komon, loại kimono với hoa văn nhỏ phủ khắp thân áo. Những đoá hoa phớt hồng rải rác trên nền vải màu kem. Obi cũng có màu hồng nhạt tương tự, mặt trước trông như một bông hoa to sắp nở, tổng thể nhìn chung là hết sức dễ thương. Tôi ưng bộ kimono này vì nó trông không đến nỗi quá thường, nhưng vẫn nhẹ nhàng đủ để có thể thoải mái ra phố dạo chơi. “Bộ komon này có phải em mua ở ‘Kobo-san’ hồi trước không?” Anh Holmes hỏi, vẻ như muốn xác nhận lại. Tôi ngẩng lên nhìn anh và gật đầu đáp, “Vâng.” “Kobo-san” là tên thường gọi của hội chợ được tổ chức tại chùa To-ji vào ngày hai mươi mốt hằng tháng. Nó giống như một buổi chợ trời lớn song song với lễ hội. Vào ngày này, người ta sẽ mở sạp hàng kinh doanh đủ thứ trong khuôn viên chùa To-ji, từ quầy ăn uống, trò chơi, đồ cổ cho đến tạp hoá, quần áo cũ, kimono, thực phẩm. Trước đây, tôi đã có lần cùng anh Holmes đến đó, quy mô còn lớn hơn cả chợ hàng thủ công ở Hyakumanben Chion-ji. Nhân tiện thì ở Kyoto có ba hội chợ lớn được mở hằng tháng: chợ hàng thủ công tại chùa Hyakumanben Chion-ji vào ngày mười lăm, chợ Kobo-san tại chùa To-ji vào ngày hai mươi mốt, còn ngày hai mươi lăm là chợ Tenjin-san ở đền Kitano Tenmangu. Tôi tìm thấy bộ kimono này vào dịp cuối năm, trong lần đầu tiên đến chợ Kobo-san cùng cô bạn Miyashita Kaori. Khi cầm bộ kimono nằm trong xe chở hàng lên, Kaori đã bảo tôi rằng, “Chỗ này toàn món hời đó nha.” Nhà Kaori là một cửa hàng trang phục truyền thống danh tiếng với lịch sử lâu đời. Nghe được nhận xét của cậu ấy nên tôi cũng có thể yên tâm mua món hàng này. Kimono thường gắn liền với hình ảnh của một loại trang phục đắt đỏ, không dễ gì mua được, nhưng những bộ được bày bán ở hội chợ lại rẻ hơn tôi nghĩ, chỉ với khoản lương làm thêm của tôi cũng dư sức trả rồi. Nghĩ lại thì trước khi chuyển đến sống ở Kyoto, việc bỏ tiền túi ra mua một bộ kimono với tôi là chuyện không tưởng. Thực ra obi là đồ có sẵn ở nhà, còn cách mặc thì tôi phải nhờ bà giúp. Tôi chạm tay vào obi, trong lòng mong mỏi một ngày nào đó mình có thể tự mặc kimono. “Mọi người tập hợp đồng đủ rồi, giờ ta cụng ly khích lệ tinh thần làm việc đầu năm nhé.” “Của Aoi là amazake[10] nhỉ.” Anh Holmes rót sake và amazake vào chén, sau đó đưa rượu cho từng người theo thứ tự tuổi từ thấp đến cao, bắt đầu từ tôi, cô Yoshie, quản lí, và cuối cùng là ông chủ kèm câu: “Mời ông ạ.” Chẳng biết có phải do trang phục truyền thống hay không, mà mỗi động tác của anh Holmes đều quyến rũ hơn bình thường, khiến tôi không tài nào nhìn thẳng được. “E-Em cảm ơn ạ,” tôi nhận lấy chén rượu và e lệ cụp mắt xuống. Đúng lúc mọi người đang chuẩn bị nâng ly, tiếng chuông leng keng vang lên ngoài cửa, và anh Akihito hớt hải xông vào, “Xin lỗi cả nhà, cháu đến muộn! Năm mới vui vẻ ạ!” Anh ấy cũng đóng bộ chỉnh tề với hakama và haori có màu xanh chủ đạo. Mái tóc sáng màu nhìn qua tưởng chừng không ăn nhập với phục trang, thế mà lại hoà hợp đến bất ngờ. Hiện nay, anh Akihito đang được công chúng khen ngợi là một “diễn viên điển trai”. Chắc nhờ thường xuyên mặc trang phục truyền thống trên chương trình giới thiệu Kyoto “Tiết trời Cố đô” nên anh ấy đã quen với kimono rồi. “‘Xin lỗi cả nhà’ gì chứ, có ai mời anh đâu nhỉ?” “Bậy nào.” Bị anh Holmes ném cho một cái nhìn lạnh tanh, anh Akihito lắc đầu nguầy nguậy. “Hôm mở tiệc giao thừa, ông chủ đã dặn tôi rằng: ‘Mồng ba tiệm bắt đầu mở cửa trở lại, cậu hổng mắc việc gì thì nhớ ghé qua nghen. Có cậu Akihito tới bao giờ cũng vui.’ Tôi được ông chủ chiếu cố bấy lâu nay, nghe thế sao có thể không đến được.” Anh Akihito vừa cười vừa tét một phát vào cánh tay anh Holmes. Đối nghịch lại, anh Holmes xoa xoa chỗ tay bị tét với ánh mắt lạnh lùng. Hai con người này mới đầu năm đã thế, chẳng thay đổi gì. “Vậy là cậu Akihito cũng tới rồi.” Ông chủ đích thân rót sake vào chén và trao cho anh Akihito. Anh Akihito nhận lấy với vẻ trân trọng. “Nào, Takeshi, Kiyotaka, Yoshie, bé Aoi, cậu Akihito. Năm nay vẫn lại tiếp tục chiếu cố nhau nghen” Ông chủ cao giọng hô: “Cụng ly!”, chúng tôi cũng đồng loạt nâng chén và nói: “Cụng ly!” rồi uống một hơi cạn chén. Có lẽ do tôi đã thấm mệt vì không quen mặc kimono, lại phải đi từ nhà đến tận đây, nên ngụm amazake thanh mát ấy cảm giác ngon vô cùng. “Ơ, Aoi cũng uống sake à?” “Dạ không, mình em uống amazake ạ.” “À ừ, em vẫn còn vị thành niên nhỉ. Lớp Mười Một đúng không?” “Vâng, em sẽ lên lớp Mười Hai vào mùa xuân ạ.” “Phải rồi Aoi, nói đến mùa xuân thì xuân năm nay đứa con trai đang đi du học của cô sẽ về nước đấy. Mong cháu giúp đỡ thằng bé nhé,” cô Yoshie chêm vào một câu như thể vừa sực nhớ ra. Tôi bị bất ngờ, nhưng vẫn gật đầu đáp: “V-Vâng ạ.” Nhắc mới nhớ, Cô Yoshie có một đứa con trai. Nếu tôi không nhầm thì cậu ấy đang học lớp Mười, nghĩa là nhỏ hơn tới một tuổi. Con của cô Yoshie thì hẳn phải đẹp trai lắm. Trong lúc mọi người đang sôi nổi trò chuyện, ông chủ nhìn đồng hồ rồi chậm rãi đứng dậy. “Thôi, bọn ta đi trước nghen.” “Vậy bố cũng...” “Khoan.” Thấy ông chủ và quản lí lại chuẩn bị đi đâu đó, anh Holmes vội lên tiếng. “Ông và bố có thể nán lại một chút rồi mới đi có được không ạ? Hôm nay dù sao cũng là ngày mở hàng, con muốn dẫn Aoi đến thăm Yata Jizo-son.” Nghe anh Holmes nói, tôi nghiêng đầu thắc mắc: “Yata Jizo-son ấy ạ?” “Là ngôi chùa Địa Tạng ở ngay gần đây. Ngày làm việc đầu tiên nên anh nghĩ cũng nên đến chào hỏi chút.” “À, chỗ bên cạnh đồn cảnh sát phải không ạ?” Tôi vỗ hai tay vào nhau. Hôm nào đi làm tôi cũng trông thấy nơi đó, nhưng không mấy để tâm nên đến tên cũng chẳng biết. Tôi tự dưng thấy có lỗi vì sự thiếu lễ độ của mình. “Cũng được, mà đi lẹ lẹ nha. Ta hổng có đợi được lâu đâu,” ông chủ ngúng nguẩy quay đi. “Nói gì thì đây vẫn là cửa hàng của ông đấy ạ. Ông định trốn việc đi chơi mà sao còn giở giọng hách dịch với con cháu thế?” “Ta còn nhiệm vụ đi chúc Tết rất quan trọng đó. Đã thế thì bây làm thay ta đi nhá?”   Mời các bạn mượn đọc sách Buổi Tiệc Trà Kì Bí của tác giả Mai Mochizuki & Dương Dương (dịch).
Tâm Tư Lẩn Khuất Cõi Trần Ai
Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại tiệm “Kura” và được Kiyotaka chỉ dạy về mĩ thuật cổ. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** Ở khu vực lân cận Teramachi Sanjo thuộc Kyoto, có đến mấy con phố mua sắm giăng mắc với nhau theo một bố cục tương đối là phức tạp. Những mái vòm nối liền nhau rất dễ khiến người ta nhầm tưởng rằng tất cả đều thuộc cùng một khu mua sắm, nhưng thực chất mỗi con đường lại là một phố mua sắm khác nhau. Từ đường Oike rẽ vào đường Teramachi là “phố mua sắm của Hiệp hội Cửa hàng chuyên doanh Teramachi”, đi thêm chút nữa sẽ giao với “dãy cửa hàng danh tiếng Sanjo”. “Phố mua sắm Teramachi Kyogoku” và “phố mua sắm Shinkyogoku” chạy song song với nhau, nhìn đằng trước sẽ thấy được “chợ Nishiki”, nơi nổi danh toàn quốc là “nhà bếp của đất kinh kì”. Chỉ nghe tả thế này thôi thì đúng là hơi bị rối rắm, có vẻ đến dân Kyoto cũng nhiều người ú ớ, nên khách du lịch không nắm được âu cũng là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, người đi mua sắm có khi cũng chẳng cần để ý nhiều đến vậy. Từ đường Oike vào “phố mua sắm Hiệp hội Cửa hàng chuyên doanh Teramachi”, người ta có thể ngoặt sang “dãy cửa hàng danh tiếng Sanjo”, và cũng có thể cứ thế đủng đỉnh đi dọc “phố mua sắm Teramachi Kyogoku” hay “phố mua sắm Shinkyogoku” rồi lang thang thăm thú “chợ Nishiki”. Thậm chí ta còn có thể bước qua một loạt những cửa hàng nối liền nhau, rồi bắt gặp một ngôi đền, ngôi chùa nhỏ xinh nào đó. Tiệm đồ cổ “Kura” nằm lặng lẽ giữa khu phố mua sắm với kết cấu y hệt mê cung như vậy. Cửa hàng tuyệt nhiên chẳng mang diện mạo cố tình gây ấn tượng, nên người đi đường nhiều lúc sẽ chỉ lướt qua, nhưng một khi đã để mắt tới nó, người ta sẽ nhận ra rằng nơi đây toát lên một sức hấp dẫn lạ kì. Trong cửa hàng có đèn chùm, bộ sô pha cổ, bên vách tường cạnh quầy thu ngân là giá sách và tủ đựng đồ kiểu Nhật làm bằng gỗ sồi đánh véc ni. Một nơi dung hoà phong cách Nhật Bản với phương Tây, khiến ta liên tưởng đến các quán cà phê mang xu hướng Modern Retro[1] đậm nét. Kim giây của chiếc đồng hồ tủ đứng cỡ lớn đang miệt mài di chuyển phát ra những âm thanh tích tắc. Âm sắc nhạc jazzdu dương như hoà nhịp với tiếng kim đồng hồ. Đủ loại đồ cổ và đồ tạp hoá được xếp thành hàng trên giá. Vẫn như mọi khi, thời gian cứ như đã ngừng trôi trong cửa hàng này. Tôi, Mashiro Aoi, nhân viên đang làm thêm trong tiệm, vừa phủi bụi cho các món hàng như thường lệ, vừa đưa mắt liếc về phía quầy thu ngân. Ở đó, một chàng thanh niên với khuôn mặt tuấn tú đang cầm một bức tranh cuộn trong tay và cười tủm tỉm. Tên anh là Yagashira Kiyotaka. Anh ấy là sinh viên cao học, nhờ khả năng quan sát và mắt giám định phi phàm hiếm thấy, lại thêm cái họ “Yagashira” nên anh có biệt danh là “Holmes”. Ngoài ra, anh còn là cháu nội kiêm đệ tử của ông chủ cửa hàng này là ông Yagashira Seiji, người được biết đến với tư cách Chuyên gia giám định cấp Quốc gia. Anh là một thanh niên điển trai với vóc người mảnh khảnh, tóc mái hơi dài, làn da trắng trẻo và sống mũi thẳng tắp. Hoàn toàn tương ứng với ngoại hình ấy, anh cũng là một người lịch thiệp, dịu dàng, nho nhã và có phong thái ứng xử hết sức ôn hoà. Nhưng mặt khác, anh còn là một kẻ tương đối kì quặc, thi thoảng lại tỏ ra nham hiểm, thậm chí có cả cái tính cứng đầu, hiếu thắng, hơn hết là lòng dạ nhiều khi hơi hơi đen tối. Lúc đầu tôi cũng hay bị anh làm cho lúng túng, thế mà chúng tôi đã cùng nhau trải qua khoảng thời gian tới tám tháng rồi. Chắc rằng tôi đã quen hơn nhiều, nên giờ không còn cảm thấy ngạc nhiên trước những nét kì quặc và tính cách hai mặt của anh ấy nữa. “... Bức tranh cuộn treo tường mà bác Ueda mang đến thế nào rồi ạ?” Tôi bước đến và thò mặt lại gần quầy thu ngân. Cuộn tranh anh Holmes hiện đang cầm trên tay là đồ tôi giữ giùm bác Ueda, một khách quen nhẵn mặt của tiệm, trong lúc anh ấy không có mặt ở cửa hàng. “Aoi thấy sao?” Anh Holmes hơi nghiêng nửa thân trên để tôi thấy được cuộn tranh. Một bức tranh được gọi là “mĩ nhân hoạ”, hay nói cách khác... “... Là ukiyo-e[2] anh nhỉ?” “Ừ, đúng rồi.” Bức ukiyo-e ấy vẽ một người phụ nữ hơi cúi đầu, tay cầm tẩu thuốc. Gương mặt mang nét u sầu ấy vô cùng xinh đẹp, nhưng tôi chẳng cảm nhận được sức ép khiến mình phải nín thở chút nào. Nếu được hỏi về tính thật giả của bức tranh này thì tôi có cảm giác đây không phải đồ thật. Có điều, ukiyo-e vốn là “tranh in khắc”, vậy nên... Đối với tranh in thạch bản của nước ngoài, tranh thật được gọi là “thạch bản gốc”, chủ yếu chỉ những tác phẩm do chính tác giả in, hoặc được chế tác tại công xưởng dưới sự giám sát của tác giả. Trước đây, anh Holmes đã dạy tôi điều đó. Vậy thì có phải ukiyo-e cũng giống thế không? “... Tranh khắc ukiyo-e thật với giả khác nhau ra sao ạ? Có phân biệt dựa vào việc ‘tác giả có chính tay in tranh hay không’ giống tranh in thạch bản không anh?” Khi tôi nói ra nguyên văn nghi vấn vừa hiện lên trong đầu, anh Holmes bèn gật gù. “Phải rồi. Ukiyo-e gồm hai loại chính, ‘tranh vẽ cọ’ do hoạ sĩ vẽ nên và ‘tranh in khắc’ được in từ mộc bản. Nhắc ukiyo-echủ yếu là ám chỉ tranh mộc bản của vế sau, còn tranh vẽ cọ là thứ có một không hai đến từ hoạ sư, cho nên vô cùng giá trị. Hiểu một cách nôm na thì tranh mộc bản phải trải qua những công đoạn như: hoạ sĩ vẽ bản thảo gốc, sau đó giao cho thợ khắc, cuối cùng là đến thợ in thực hiện việc in ra, vậy nên mới tồn tại những bức tranh mộc bản được in cùng thời điểm.” “Thế nghĩa là hoạ sĩ không tự tay khắc mộc bản anh nhỉ?” “Đúng vậy, mỗi công đoạn đều do nghệ nhân với chuyên môn riêng thực hiện.”   Mời các bạn mượn đọc sách Tâm Tư Lẩn Khuất Cõi Trần Ai của tác giả Mai Mochizuki & Ninh Nhân Văn (dịch).
Hồ Sơ Vụ Án Đồ Thật Đồ Giả
Tại tiệm đồ cổ “Kura” toạ lạc giữa khu phố mua sắm Teramachi Sanjo ở Kyoto, có một “chàng trai cố đô” kì lạ với mắt thẩm định và quan sát hết sức tinh tường, đến mức được người ta tặng cho biệt danh “Holmes.” “Không phải đâu Aoi. Mọi người chỉ gọi anh bằng cái tên Holmes vì họ của anh là Yagashira thôi.” Phải. Hán tự gồm chữ Gia và chữ Đầu, nên đọc thành Homes. “.. Ủa, giờ này mà anh vẫn còn đính chính chuyện đấy à?” Đây là ghi chép về những vụ án li kì mà anh Holmes, tên thật là Yagashira Kiyotaka, và tôi, một nữ sinh trung học phổ thông tên là Mashiro Aoi, đã gặp phải tại thành phố Kyoto. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** hi cái nóng ngột ngạt của Kyoto đã dịu đi một chút cũng là lúc kì nghỉ hè kết thúc và một học kì mới lại bắt đầu. Thế nhưng, đám học sinh thì vẫn chưa thoát ra khỏi tâm lí muốn xả hơi. Chúng tôi còn là học sinh lớp Mười Một, sang năm sẽ phải thi đại học rồi, chắc thế nên nhiều người có tâm lí tranh thủ năm nay chơi cho xả láng, vì vậy mà bộ dạng cháy nắng của đám bạn cùng lớp cứ liên tục hiện lên trước mắt tôi. Đến giờ nghỉ trưa, bầu không khí trong lớp càng trở nên uể oải. “Hảảả, vậy là Aoi đã chấm dứt hẳn với bạn trai cũ rùi hở?” Người vừa la lên với vẻ kinh ngạc là Miyashita Kaori, từ lớp bên cạnh sang chơi. Cậu ấy chơi thân với tôi sau “vụ lá thư đe doạ gửi đến Saiodai” và là người duy nhất trong số bạn bè ở trường này biết về anh Holmes cùng quá khứ của tôi. Tiện nói luôn, giờ tôi với cậu ấy đã chuyển sang gọi thẳng tên nhau. Chúng tôi hiện đang ngồi bên ô cửa sổ thoáng gió và cập nhật cho nhau tình hình gần đây sau một thời gian dài không gặp. “... Ừ, mặc dù dây dưa cũng hơi lâu.” Sau khi kể lại cho Kaori chuyện xảy ra vào đêm Yoiyoiyama đợt lễ hội Gion, tôi cụp mắt xuống. ... Chuyện xảy ra vào mùa hè năm ngoái. Vì hoàn cảnh gia đình mà tôi phải chuyển từ Saitama đến Kyoto sinh sống. Ở Saitama, tôi có một cậu bạn trai, là người tôi đã hẹn hò từ hồi cấp hai. Như một lẽ đương nhiên, chúng tôi phải yêu xa trong vài tháng. Không lâu sau đó, cậu ấy cuối cùng cũng nói lời chia tay. Ban đầu tôi đã chấp nhận rằng xa mặt cách lòng là chuyện không thể nào tránh khỏi. Nhưng lí do chia tay thật sự lại là vì cậu ấy đã bắt đầu hẹn hò với bạn thân của tôi... Biết được sự thật ấy, tôi vô cùng choáng váng. Tôi muốn lập tức quay về Saitama để xác minh mọi chuyện, vì thế mà định bán đi mấy bức tranh cuộn treo tường của người ông đã khuất làm chi phí đi đường. Thế là vào một ngày tháng Ba, khi tiết trời vẫn còn se lạnh, tôi đã ghé vào tiệm đồ cổ “Kura” trong khu phố mua sắm Teramachi Sanjo. Tại đó, tôi đã gặp gỡ một chàng thanh niên kì lạ mang tên Yagashira Kiyotaka với biệt danh là “Holmes”. “Aoi, nếu được, em có muốn làm việc ở đây không? Thay vì lén lút bán bảo vật của gia đình đi để lấy tiền, em nghĩ thế nào về việc lao động chân chính nhằm kiếm phí tàu xe?” Bằng khả năng quan sát tinh tường đến đáng sợ, anh Holmes đã đoán ra mọi ý định của tôi và mời tôi đến làm thêm ở tiệm đồ cổ nhà mình. Sau một thời gian tiếp xúc với chàng trai kì lạ ấy cùng những tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp, vết thương trong lòng tôi dần được chữa lành. Cả cậu bạn trai cũ lẫn cô bạn thân kia đều đã là chuyện quá khứ. Khi ấy, tôi đã định từ bỏ việc quay trở lại Saitama. Vào đêm Yoiyoiyama của lễ hội Gion... Tôi đã phải đối mặt với bạn thân và bạn trai cũ khi họ tới đây từ Saitama theo chương trình dã ngoại của trường. Đương nhiên là không hề có cách giải quyết dễ dàng cho mọi chuyện. Bạn bè trong nhóm ai cũng về phe bạn thân và bạn trai cũ của tôi, trong khi tôi một mình vật lộn với nỗi nhục nhã và đau đớn như đang ngồi trên bàn chông vậy. Người đã đến giải cứu tôi khi ấy cũng chính là anh Holmes. Anh ấy đã kéo mạnh tay tôi, dắt tôi khỏi nơi đó... khiến tôi có cảm giác như mình thật sự được cứu rỗi. “Khóc cho hết đi nha, Aoi đã gắng lắm rùi mờ.” Bàn tay to lớn nhẹ nhàng vỗ lưng tôi. Mỗi lần hồi tưởng lại cảnh mình khóc trong vòng tay anh Holmes, dưới ánh sáng của những chiếc đèn lồng... tôi lại thấy nóng râm ran trong lồng ngực. “Nè, vậy là bồ mê người ta rồi hén?” Kaori đột nhiên nhòm vào mặt tôi, khiến tim tôi nảy thót lên một cái. “H-Hả?” “Ảnh đã cứu bồ khỏi một bàn thua trông thấy còn chi? Lại điển trai như vậy, có cảm thấy ngây ngất vì ảnh cũng hổng kì đâu à. Chị hai nhà tui cũng hâm mộ anh Holmes lắm á.” “C-Còn Kaori thì sao?” Tôi ngần ngừ hỏi. Kaori liền nhăn nhó ra mặt, rồi lắc đầu. “Tui chịu chết. Ấn tượng rằng ảnh đáng sợ và khó lường trong tui quá mạnh. Chị hai suốt ngày mơ mộng kêu ảnh đẹp trai. Chứ tui thì thực lòng ớn cái kiểu nhìn thấu mọi chuyện của ảnh lắm.” Cũng phải, trong vụ Saiodai, những việc Kaori làm đều bị anh Holmes phát hiện ra, cảm thấy sợ có lẽ cũng chẳng có gì vô lí. “Thế Aoi thấy sao?” “N-Nói thật là cũng hơi xao động... Có điều, tớ đã trải qua một thời gian dài đau khổ vì bạn trai cũ, nên giờ cũng không hiểu rõ lắm về cảm xúc của mình.” “Cũng phải. Cơ mà cả mùa hè bồ ở cạnh anh Holmes thì phải rút ngắn được thêm khoảng cách chứ?” “Không, anh Holmes theo ông chủ ra nước ngoài suốt kì nghỉ hè, còn tớ thì chỉ trông cửa hàng thôi.” “Ông chủ là ông Yagashira Seiji ấy hả?” Ông nội của anh Holmes, chuyên gia giám định cấp quốc gia Yagashira Seiji có vẻ được khá nhiều người trong thành phố này biết đến. “Ừ, nghe nói ông chủ nhận rất nhiều công việc ở nước ngoài, hình như đợt nghỉ hè nào cũng dẫn anh Holmes đi đây đi đó.” “Ờ, phải rồi, anh Holmes là người kế nghiệp ông ấy mà ha” Kaori gật gù. Cụm từ “kế nghiệp” quả nhiên không lệch đi đâu được. Là người có tầm ảnh hưởng quốc tế trong giới giám định mĩ thuật hiện nay, có vẻ ông chủ đang cố gắng hết sức để đứa cháu kế nghiệp mình là anh Holmes được thật nhiều người trong ngành biết đến. Theo lời anh Holmes thì đó không phải chuyện mới bắt đầu gần đây, mà từ xưa, hễ được nghỉ dài là anh ấy lại bị ông lôi đi nước ngoài, không có thời gian học hành gì cả. Nhắc mới nhớ, hồi mới gặp anh ấy cũng kể mình “toàn đi chơi với ông nội nên không vào được hệ đại học của Đại học Kyoto”, hoá ra là ám chỉ chuyện này. “Nên là trong thời gian nghỉ hè, tớ đã cùng quản lí trong tiệm Kura.” “Chẹp, mùa hè của bồ coi bộ hổng có chút hơi thở lãng mạn nào sất. Ngồi coi tiệm với bác quản lí thì nhạt nhẽo thí mô à.” “Tớ thấy trong tiệm cùng bác quản lí cũng thoải mái lắm.” Quản lí tuy ít nói nhưng rất tốt bụng, tôi rất thích khoảng thời gian được ở cùng bác ấy. “Vậy là một mình bác quản lí phải trong cả cửa tiệm lẫn nhà riêng, coi bộ cũng cực ha... Nhắc mới nhớ, hổng biết cái anh Holmes đó sống trong căn nhà như thế nào ta?” Tôi chỉ biết chớp mắt trước câu hỏi từ trên trời rơi xuống của Kaori. “Nhà á?” “Ảnh dầu sao cũng là người trong giới mĩ nghệ cổ, nên tui có cảm giác ảnh sẽ sống trong một căn nhà kiểu Nhật có kiến trúc xưa cũ hay đại loại thế?” “Ừ, hợp lí. Anh ấy lại còn đặc sệt chất trai Kyoto, dễ là sống trong nhà kiểu Nhật[6] truyền thống lắm.” Tôi gật đầu tán thành. Kaori bỗng nhíu mày nhìn tôi với vẻ khó hiểu. “Trai Kyoto là sao? Phải là ‘nam nhân Kyoto’ chứ?” Cậu ấy đặt câu hỏi giống hệt anh Holmes. Dân Kyoto xem ra hơi bị nhạy cảm khi người khác tuỳ tiện cải biên những từ ngữ có từ xưa của họ. “Ừ, tớ biết, cơ mà tớ thấy ‘trai Kyoto’ dùng để diễn tả anh Holmes hợp hơn là ‘nam nhân Kyoto’ ấy. Cảm giác nhẹ nhàng hơn nam nhân Kyoto một chút, kiểu thế.” “... Ờ, nghe bồ biểu tui mới thấy đúng là có thể cảm nhận được sắc thái đó thiệt.” Cậu ấy gật gù, có vẻ đã thông. Xem ra người Kyoto vẫn sẽ chấp nhận sự cải biên miễn là họ hiểu được nó. “Mà vậy nghĩa là bồ hổng biết nhà anh Holmes ở đâu hử?” Kaori khơi lại chủ đề, khiến tôi sực tỉnh và ngẩng mặt lên. “Ừ. Tớ chưa từng đến hay trông thấy nhà anh ấy.” Chỉ là, tôi đã từng nghe qua “tình trạng nơi ở” của gia đình Yagashira. Nhà ông chủ ở gần chùa Ginkaku-ji, quản lí sống trong một khu chung cư ở Yasaka, còn anh Holmes vừa đi lại giữa hai căn nhà ấy vừa coi sóc chúng. Đối với anh Holmes, trạng thái đó giống như anh có hai căn nhà vậy. “Vậy sao? Ra là cả nhà họ hổng có sống chung.” Sau khi nghe tôi kể về tình trạng nơi ở của gia đình Yagashira, Kaori ồ lên, hai tay khoanh trước ngực với vẻ hứng thú. “Mà sắp tới tớ được mời đến nhà ông chủ đấy.” “Thích vậy. Về nhớ tả lại cho tui nghe xem nhà cửa thế nào nha.” Nhưng khi nghe tôi nói tiếp rằng, “Hôm ấy tớ muốn Kaori đi cùng tớ nữa cậu ấy bật ra một tiếng “Hả?” lạc điệu, rồi lắc đầu nguây nguậy như muốn cự tuyệt bằng toàn bộ cơ thể. “Tui á? Tại sao? Chịu thui, tui hổng muốn đụng mặt anh Holmes đâu.” “Ơ, tại sao?” “Cảm giác làm gì cũng sẽ bị ảnh bắt bài, sợ lắm.” Kaori phản đối với vẻ mặt hết sức nghiêm túc, khiến tôi bất giác phì cười. “Có thể anh ấy sẽ bắt bài được cậu thật, nhưng không sao đâu.” “Rõ ràng là sẽ bị bắt bài mờ, hãi chết đi được. Mà sao Aoi vẫn tỉnh queo vậy? Bị ảnh đi guốc trong bụng mà hổng thấy ớn sao?” “T-Tớ à? Ban đầu có hơi rợn gáy thật, nhưng dạo này cũng quen quen rồi. Có thể nói rằng nhanh hiểu ý nhau hơn kể ra cũng là chuyện tốt?” “Nhanh hiểu ý nhau là do bồ quen quá thành chai rùi đó. Mà sao tự dưng lại rủ tui?” Kaori thấy thắc mắc cũng dễ hiểu thôi. “Chuyện là... ngày hôm qua...” Khi tôi bắt đầu chậm rãi kể, Kaori nuốt nước bọt lắng nghe. Mời các bạn mượn đọc sách Hồ Sơ Vụ Án Đồ Thật Đồ Giả của tác giả Mai Mochizuki & Dương Dương (dịch).
Holmes ở Kyoto
Nằm lẻ loi tại một góc phố mua sắm Teramachi Sanjo ở Kyoto là cửa hàng đồ cổ “Kura”. Từ một sự việc tình cờ, nữ sinh cấp ba Mashiro Aoi đã quen biết cháu trai chủ cửa hàng ấy, tên là Yagashira Kiyotaka, rồi sau đó, cô bé bắt đầu làm thêm tại đây. Kiyotaka là một người ăn nói dịu dàng, cư xử hoà nhã, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Anh được gọi là “Holmes của phố Teramachi”. Aoi cùng Kiyotaka nhận được rất nhiều yêu cầu liên quan tới các món cổ vật mà khách hàng mang tới... Một tác phẩm kì bí nhẹ nhàng rất xuất sắc lấy bối cảnh cố đô Kyoto! *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** HOLMES VÀ THIỀN SƯ BẠCH ẨN “Quý khách có món đồ cổ nào đang ngủ quên trong nhà không? Cửa hàng chúng tôi nhận giám định và thu mua đồ cổ!” Khi đi bộ dọc con phố mua sắm mái vòm[1] đông đúc náo nhiệt ở Teramachi Sanjo thuộc Kyoto, ta sẽ thấy một tiệm đồ cổ nhỏ nằm giữa những cửa hàng kề nhau san sát. Trên biển hiệu, chỉ có một chữ Hán “Kura”[2]. Đây có vẻ là tên cửa hàng. (Nếu nói đến tiệm đồ cổ, trong đầu mình sẽ hiện lên các cái tên như, “Phòng triển lãm OO”, hay “Antique[3] OO”, hoặc cái tên nào đó có gắn chữ “Đường”[4], thế nhưng ở đây lại có mỗi một chữ “Kura”, đơn giản quá nhỉ...) Đó là ấn tượng đầu tiên của tôi với cửa hàng này Không khí cửa hàng giống như một quán cà phê retro[5]hơn là một tiệm đổ cổ. Cửa hàng được bài trí kết hợp phong cách Nhật Bản và phương Tây, làm người ta liên tưởng tới thời kì Minh Trị - Đại Chính[6]. Sát lối vào là một góc uống trà, còn phía bên trong thì bày sản phẩm. Tôi thấy bóng dáng một người phụ nữ đứng tuổi với một người đàn ông đang uống cà phê và chuyện trò vui vẻ. Thật sự là nếu không nhìn biển hiệu, có khi tôi sẽ nghĩ đây là một quán cà phê. Trong khi tôi đang đứng trước cửa hàng và lấm lét ngó vào trong, tôi nhận ra mấy người đi ngang qua cứ thi thoảng lại lén liếc nhìn tôi một cái. “...” Tôi luống cuống chỉnh lại tư thế, mặt làm ra vẻ chẳng biết gì. Chắc người ta sẽ thấy lạ lắm khi bắt gặp một nữ sinh cấp ba lảng vảng trước cửa hàng đổ cổ. “Cô bé kia muốn vào cửa hàng mà không vào được nhỉ?” Có thể họ sẽ nghĩ về tôi theo kiểu ấy cũng nên. Nếu người ta nghĩ như thế thì... vâng, chuẩn rồi. Đúng, tôi là một cô nữ sinh cấp ba chán đời, dù muốn vào hàng đồ cổ này nhưng không thể, thế nên đang lảng vảng ở bên ngoài. Cũng bởi, nếu đây là một tiệm tạp hoá mang phong cách Bắc Âu cởi mở, hay một cửa hàng đồ cổ nhẹ đô hơn thì đã chẳng nói làm gì. Nhưng không khí cửa tiệm này lại đậm chất “cửa hàng mĩ nghệ cổ”, nên tôi không thể thoải mái bước vào. “Nhận giám định và thu mua đồ cổ.” Kể từ khi tình cờ nhìn thấy dòng chữ đó, tôi đã để ý đến cửa hàng này. Bao nhiêu lần tôi đã bụng bảo dạ rằng, “Vào thôi, vào thôi,” nhưng kết quả là tôi vẫn cứ lướt qua. “Kyoto”. Không phải quá lời khi nói đây là địa điểm tham quan số một Nhật Bản. Trong vòng một năm, rất nhiều khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới đã ghé thăm nơi đây. Thế nhưng, đối với một học sinh cấp ba sống tại mảnh đất này mà nói, đây không ngờ lại là một “thành phố không có chỗ để vui chơi”. Đền chùa miếu mạo thì tuyệt vời và cũng xoa dịu lòng người đấy, nhưng không phải nơi cho bạn bè tụ tập chơi đùa. Chỗ để giải trí loanh quanh chỉ có tới quán karaoke hoặc trung tâm thương mại lớn, tạt vào rạp chiếu phim ở Sanjo rồi đi dạo lòng vòng ở khu mua sắm mái vòm mà thôi. Nhân tiện, tôi thấy con chim linh vật tên “Sanjoto~ri”, biểu tượng của khu phố mua sắm Sanjo, đáng yêu hết biết. Tôi thích nó ghê. A, ở lối vào cửa hàng này cũng dán poster “Sanjoto~ri” nữa. Quả nhiên là đáng yêu thật, nhìn mà dịu cả lòng. Mà thôi, tạm thời không nói đến chuyện đó. Vì lí do kể trên, hễ tới chơi ở phố mua sắm Sanjo, tôi lại liếc nhìn cửa hàng “Kura”, nhưng lần nào cũng chỉ lướt ngang qua nó. Đến nước này rồi, tôi không thể cứ lảng vảng bên ngoài mãi được. Tôi nắm chặt quai chiếc túi giấy trong tay. (Được rồi, vào thôi!) Ngay giây phút tôi vừa hạ quyết tâm, một người đàn ông trung niên mặc com lê từ sau lưng vượt qua tôi êm ru rồi mở cửa đánh xạch một cái. “Chào cả nhà, Holmes có đây hôn?” Ông vừa nói vậy vừa bước vào cửa tiệm. (Holmes?) Dù cảm thấy khá là kì quặc, tôi vẫn bước vào cửa hàng, như thể bị lôi kéo bởi người đàn ông nọ. Vừa mới vào bên trong, tôi trông thấy ngay một bộ sô pha cổ làm người ta liên tưởng tới phòng tiếp khách của những tòa kiến trúc phương Tây cổ kính. Một phụ nữ đứng tuổi đang vui vẻ nâng tách cà phê lên miệng. Chiếc đèn chùm nhỏ treo trên trần nhà không cao lắm. Một cái đồng hồ tủ đứng rất to dựng sát tường. Rất nhiều những món đồ cổ và vật dụng đủ loại được bày trên giá nằm sâu bên trong cửa hàng. Nhìn từ cửa ra vào thì cửa hàng trông cũng nhỏ, nhưng bên trong có vẻ khá sâu. Mời các bạn mượn đọc sách Holmes ở Kyoto của tác giả Mai Mochizuki & Thu Thủy, Nhân Văn (dịch).