Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thay Đổi Tí Hon Hiệu Quả Bất Ngờ

Wall Street Journal Bestseller, USA Today Bestseller, Publisher's Weekly Bestseller Nằm trong Top 20 tựa sách thể loại non-fiction bán chạy và được tìm đọc nhiều nhất của Amazon suốt 40 tuần tính đến tháng 9/2019. “Thành công là sản phẩm của thói quen hằng ngày – không phải của một cuộc biến hình một-lần-trong-đời” “Một thay đổi tí hon có thể biến đổi cuộc đời bạn không? Hẳn là khó đồng ý với điều đó. Nhưng nếu bạn thay đổi thêm một chút? Một chút nữa? Rồi thêm một chút nữa? Đến một lúc nào đó, bạn phải công nhận rằng cuộc sống của mình đã chuyển biến nhờ vào một thay đổi nhỏ... Và đó chính là sức mạnh của thói quen nguyên tử…”  “Quyển sách hữu ích và có giá trị ứng dụng tối đa. James Clear đã chắt lọc thông tin cơ bản nhất về sự hình thành thói quen, nhờ đó bạn có thể đạt được nhiều thành quả hơn bằng cách tập trung ít hơn”       Mark Manson, Tác giả của The Subtle Art Of Not Giving A F*CK *** Hệ thống mang tính cách mạng giúp bạn tiến bộ 1% mỗi ngày. Mọi người cho rằng nếu bạn muốn thay đổi cuộc đời mình, bạn cần phải có những suy nghĩ lớn lao. Nhưng James Clear đã khám phá ra một cách thức khác. Tác giả đã phát hiện ra rằng sự thay đổi thực sự đến từ ảnh hưởng sâu sắc của hàng trăm những quyết định nhỏ bé - thực hiện hai cú chống đẩy mỗi ngày, mỗi sáng dậy sớm hơn năm phút, hoặc đọc thêm chỉ một trang sách. Tác giả gọi đó là những thói quen nguyên tử. Trong cuốn sách đột phá này, tác giả Clear đã làm rõ cách mà những thay đổi nhỏ bé này có thể đem lại những kết quả bất ngờ khi áp dụng trong cuộc sống. Tác giả đã tiết lộ những mẹo đơn giản mà rất hữu ích (nghệ thuật xếp chồng thói quen đã bị quên lãng, sức mạnh không ngờ của Qui luật Hai phút,...) và đào sâu nghiên cứu các khía cạnh giải thích tại sao chúng lại có tác dụng như vậy theo tâm lý học và thần kinh học. Xuyên suốt quyển sách, tác giả kể những câu truyện truyền cảm hứng về những vận động viên dành huy chương vàng Olympic, những nhà lãnh đạo hàng đầu, và những nhà khoa học lỗi lạc, những người đã sử dụng bộ môn khoa học thói quen nhỏ bé để có được cuộc sống hạnh phúc, lạc quan và làm việc hiệu quả. Những thay đổi nhỏ bé này sẽ đem lại những ảnh hưởng làm thay đổi sự nghiệp, mối quan hệ và cuộc đời bạn. PHẦN GIỚI THIỆU Câu chuyện của chính tôi.   Vào đúng ngày cuối cùng của năm thứ hai cao trung, tôi bị một cây gậy bóng chày nện trúng mặt. Khi đó cậu bạn cùng lớp đang vung gậy thực hiện một cú đánh bóng, cây gậy trượt khỏi tay cậu ấy và hướng thẳng về phía tôi trước khi đập thẳng vào vùng giữa hai mắt tôi. Tôi không nhớ bất kì điều gì về cái khoảnh khắc va đập đó. Cây gậy đập vào mặt tôi với một lực mạnh tới nỗi làm mũi tôi biến dạng thành hình chữ U. Vụ va đập khiến cho phần mô mềm của não xoắn tụt vào sâu xương sọ. Ngay lập tức một cơn chấn động chạy xuyên đầu tôi. Chỉ trong tíc tắc tôi bị gãy mũi, rạn xương sọ, và hoa cả mắt. Khi tôi mở mắt, tôi thấy mọi con mắt đổ dồn vào tôi và mọi người đang chạy về phía tôi để giúp đỡ. Tôi cúi xuống và thấy những đốm đỏ nổi bật trên quần áo mình. Một trong những cậu bạn cùng lớp cởi chiếc áo của cậu ấy và đưa cho tôi để cầm máu đang chảy như suối từ cái mũi gẫy của tôi. Sốc và hỗn loạn, tôi đã không nhận thức được tình trạng chấn thương nghiêm trọng của mình khi đó. Thầy giáo khoác vai tôi và chúng tôi bắt đầu đi bộ dài lê thê tới phòng y tế: băng qua cánh đồng, đi xuống đồi, và quay trở lại trường. Một vài cánh tay đỡ hai bên người tôi, giữ cho tôi đứng vững. Chúng tôi di chuyển rất chậm. Cũng không ai để ý tới thời gian nhanh hay chậm nữa. Khi chúng tôi tới phòng y tế, cô y tá trường hỏi tôi một loạt các câu hỏi. "Bây giờ là năm nào?""1998," tôi trả lời. Mà thật ra lúc đó là năm 2002. "Tổng thống Mỹ đương nhiệm là ai?" "Bill Clinton," tôi đáp. Câu trả lời đúng phải là George W. Bush. "Mẹ em tên là gì?" "Ừ. Uhm." Tôi ngắc ngứ. Mười giây trôi qua. "Patti," tôi đáp một cách thản nhiên, cố lờ đi sự thật rằng tôi mất đến mười giây để nhớ ra tên của chính mẹ mình. Đấy cũng là câu hỏi cuối cùng mà tôi nhớ được. Cơ thể tôi không thể nào chịu đựng được những cơn choáng dồn dập trong đầu và tôi đã bất tỉnh trước khi xe cứu thương đến nơi. Vài phút sau, tôi được cáng rời khỏi trường tới thẳng bệnh viện địa phương. Tới bệnh viện được một lúc thì cơ thể tôi có dấu hiệu ngừng trệ. Tôi gặp khó khăn ngay cả trong những việc thực hiện các chức năng cơ bản như nuốt và thở. Tôi lên cơn co giật đầu tiên. Sau đó thì tôi ngừng thở hoàn toàn. Các bác sĩ khẩn trương cho tôi thở oxy, họ cũng đưa ra quyết định rằng bệnh viện địa phương không đủ trang thiết bị để điều trị ca bệnh của tôi và gọi một chiếc trực thăng chuyển tôi tới một bệnh viện lớn hơn tại Cincinnati. Tôi được đẩy ra khỏi cánh cửa phòng cấp cứu và băng qua phố để tới chiếc trực thăng. Một y tá đẩy tôi trên chiếc xe cáng cứu thương, nó rung từng nhịp trên lối đi mấp mô, trong khi một người khác đang bơm khí giúp tôi thở bằng tay từng nhịp một. Mẹ tôi vừa mới tới bệnh viện kịp lúc cũng leo lên trực thăng với tôi. Mẹ nắm tay tôi trong suốt chuyến bay, lúc đó tôi vẫn hôn mê và không tự thở được. Trong khi mẹ tôi đi cùng với tôi trên chuyến bay, bố tôi về nhà xem tình hình các em tôi và báo tin cho chúng biết. Ông rưng rưng khi giãi bày với em gái tôi rằng ông sẽ không thể tham dự buổi bế giảng lớp 8 của con bé vào tối hôm đó được. Sau khi gửi hai đứa cho họ hàng, ông đã lái xe tới Cincinnati để gặp mẹ tôi. Khi trực thăng đáp xuống sân bay trên nóc bệnh viện, một đội ngũ gần hai mươi bác sĩ và y tá lao tới và nhanh chóng đưa tôi tới phòng điều trị. Đến lúc này sự phù nề trong não tôi trở nên rất nghiêm trọng và tôi bắt đầu các cơn co giật. Cần phải xử lý các chỗ xương gãy nhưng tình trạng tôi không cho phép thực hiện phẫu thuật. Sau cơn động kinh lần thứ ba trong ngày, tôi được gây mê và đặt trên một cái quạt thông gió. Bố mẹ tôi không lạ lẫm gì với bệnh viện này. Mười năm trước, cũng toà nhà này nhưng ở tầng trệt bố mẹ tôi đã mang em gái tôi đến khám, con bé khi đó 3 tuổi và được chuẩn đoán bệnh bạch cầu. Tôi lúc đó 5 tuổi. Em trai tôi được sáu tháng tuổi. Sau hai năm rưỡi hoá trị, ghép tế bào tuỷ tạo máu và sinh thiết, em gái tôi cuối cùng đã được xuất viện, hạnh phúc, khoẻ mạnh và hoàn toàn khỏi ung thư. Và giờ thì sau mười năm yên bình, bố mẹ tôi lại một lần nữa quay trở lại bệnh viện này cùng một đứa con khác. Bệnh viện đã gửi đến một mục sư và một nhà hoạt động xã hội để giúp bố mẹ tôi khuây khoả trong khi tôi đang được gây mê sâu. Đây cũng chính là mục sư người đã gặp bố mẹ tôi mười năm trước vào cái buổi tối em gái tôi được chuẩn đoán mắc ung thư. Trời dần tối và hàng tá các máy móc đã cứu sống tôi. Bố mẹ tôi nằm tạm trên một tấm thảm của bệnh viện. Lúc thì họ thiếp đi vì mệt mỏi, lúc sau họ lại choàng tỉnh dậy đầy lo lắng. Sau này mẹ tôi kể lại với tôi, "Đó là một trong những đêm kinh khủng nhất trong đời mẹ."   Phục hồi May mắn thay sáng ngày hôm sau cơ chế thở của tôi đã hồi phục về ngưỡng mà bác sĩ đánh giá là an toàn và cho tôi tỉnh lại. Rốt cuộc khi tôi có ý thức trở lại, tôi phát hiện ra rằng mình mất khả năng ngửi. Để kiểm tra thì cô y tá yêu cầu tôi thở hắt ra bằng mũi và ngửi một hộp nước táo. Khả năng ngửi của tôi đã phục hồi, nhưng mọi người ai cũng bất ngờ bởi khi tôi thở bằng mũi đã tạo ra một luồng khí xuyên qua vết nứt ở hốc mắt và đẩy mắt trái của tôi lồi ra ngoài. Con ngươi của tôi lồi ra khỏi hốc mắt và như được giữ cố định một cách lỏng lẻo bởi mí mắt và lủng lẳng móc nối với não bộ nhờ các dây thần kinh thị giác. Bác sĩ nhãn khoa cho biết mắt tôi sẽ dần dần về lại đúng vị trí khi không khí thoát hết ra ngoài, nhưng thật khó để chuẩn đoán thời gian bao lâu. Tôi được xếp lịch phẫu thuật một tuần sau đó, từ giờ cho tới đó tôi có thời gian để hồi phục. Trông tôi như thể vừa thua thảm hại sau một trận thi đấu đấm bốc vậy, nhưng tôi đã được phép xuất viện. Tôi trở về nhà với cái mũi gãy, gần một nửa khuôn mặt dập nát, và một bên mắt trái lồi ra. Những tháng sau đó là những tháng ngày khó khăn. Tôi có cảm giác mọi thứ trong đời tôi đều tạm dừng lại. Trong nhiều tuần tôi còn bị nhìn hai phía; tôi không thể nhìn thẳng. Phải mất hơn một tháng mắt tôi mới dần trở về như bình thường. Sau 8 tháng vật lộn với những cơn đau và những vấn đề về thị lực, tôi đã có thể lái xe trở lại. Khi tiến hành vật lý trị liệu, tôi đã thực hành những mô hình lái xe cơ bản như đi thẳng theo vạch thẳng. Tôi quyết tâm không để cho thương tật đánh gục mình nhưng nhiều lúc tôi cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ. Một năm sau đó tôi đau đớn nhận ra rằng tôi sẽ phải nỗ lực nhiều đến như nào để có thể quay trở lại sân bóng. Bóng bầu dục đã từng là một phần quan trọng trong cuộc đời tôi. Bố tôi đã từng chơi cho đội bóng chày St. Louis Cardinals và tôi đã từng có mơ ước được thi đấu giải chuyên nghiệp giống như bố vậy. Sau nhiều tháng dưỡng thương, điều tôi mong muốn nhất là được quay trở lại chơi bóng. Nhưng con đường quay trở lại môn bóng chày của tôi không hề dễ dàng chút nào. Khi mùa giải bắt đầu, tôi là thành viên duy nhất bị loại khỏi đội bóng chính thức của trường. Tôi bị xếp xuống chơi cùng đội hình hai. Tôi đã theo đuổi bộ môn này từ năm lên 4, và đối với bất kì ai người đã dành rất nhiều thời gian và nỗ lực cho một bộ môn thể thao thì đó là một điều sỉ nhục. Tôi vẫn còn nhớ như in cái ngày chuyện đó xảy ra. Tôi ngồi trong xe và khóc oà, rồi tôi chụp lấy radio, điên cuồng tìm kiếm một bài hát sẽ giúp tôi thấy khá hơn. Sau một năm với những suy nghĩ tự ti, nghi ngờ khả năng của bản thân, tôi đã thành công trong vai trò chơi ở đội hạng hai, nhưng hiếm khi tôi ra sân. Tính ra tôi chỉ chơi tổng 11 hiệp trong suốt thời gian chơi bóng chày còn lại ở trường trung học, tương đương với một trận thi đấu. Bất chấp tình trạng thi đấu dở tệ tại trường trung học, tôi vẫn tin rằng mình có thể trở thành một cầu thủ cừ khôi. Và tôi biết rằng nếu muốn mọi thứ tốt lên thì tôi chính là người có trách nhiệm biến điều đó thành sự thật. Sau hai năm kể từ ngày tôi gặp tai nạn, bước ngoặt đã đến khi tôi bắt đầu theo học tại đại học Denison. Đó là một khởi đầu mới, và cũng chính tại ngôi trường này lần đầu tiên tôi đã khám phá ra sức mạnh đáng kinh ngạc của những thói quen nhỏ bé.   Cách tôi học về các thói quen Đăng ký theo học tại đại học Denison là quyết định đúng đắn nhất của tôi. Tôi có được một vị trí trong đội tuyển bóng chày và mặc dù tôi xếp hạng chót trong danh sách như một kẻ mới toanh, tôi vẫn thấy xúc động. Bất chấp mớ hỗn loạn những năm tháng trung học, tôi vẫn luôn nỗ lực để trở thành một vận động viên ở trường đại học. Tôi đã không bắt đầu tham gia đội bóng chày luôn mà tôi tập trung vào việc sắp xếp cuộc sống của mình. Trong khi mấy đứa bạn học của tôi ngủ dậy muộn, chơi điện tử thì tôi đã xây dựng những thói quen đem lại một giấc ngủ chất lượng và đi ngủ sớm mỗi tối. Trong cái thế giới lộn xộn của ký túc xá trường, tôi đề ra nguyên tắc là giữ cho phòng mình ngăn nắp và sạch sẽ. Những điều cải thiện này không to tát gì nhưng chúng đem lại cho tôi cái cảm giác mình đang kiểm soát được cuộc sống của mình. Tôi bắt đầu lấy lại được sự tự tin. Và niềm tin đang lớn dần lên trong tôi này đã lan toả tới lớp học giúp tôi cải thiện được những thói quen học tập và đạt được điểm A trong suốt năm học thứ nhất. Một thói quen là một lịch trình hay một hành vi được thực hiện thường xuyên - và trong hầu hết mọi trường hợp, được thực hiện một cách tự giác. Mỗi một học kỳ trôi qua là tôi lại tăng dần những thói quen nhỏ nhưng nhất quán, chính điều này đã giúp đem lại những kết quả không thể tưởng tượng được lúc mới bắt đầu. Ví dụ lần đầu tiên trong đời tôi quyết định tạo thói quen nâng tạ nhiều lần mỗi tuần, và trong nhiều năm sau đó, cái thân hình cao 1,93 cm này của tôi đã thành công nâng mức tạ từ nhẹ như lông hồng 170 lên mức 200 pounds. Khi mùa giải năm thứ hai đại học bắt đầu, vai trò đầu tiên của tôi là một chân giao bóng. Đến năm thứ ba tôi được bầu là đội trưởng và vào cuối mùa giải, tôi được lựa chọn vào đội chính thức. Nhưng phải đợi đến năm thứ tư mới thấy rõ thành quả từ những thói quen của tôi trong các lĩnh vực học tập, giấc ngủ và luyện tập thể lực. 6 năm sau sự kiện tôi bị cây gậy đánh bóng bay vào mặt, được đưa tới bệnh viện bằng trực thăng, và bị gây mê sâu, giờ tôi đã được bầu chọn là nam vận động viên hàng đầu của đại học Denison và có tên trong danh sách đội tuyển cấp đại học toàn nước Mỹ của ESPN, một vinh dự chỉ dành cho 33 cầu thủ trên toàn quốc. Đến khi tốt nghiệp, tôi đã có tên trong sách kỷ lục của trường trong 8 lĩnh vực khác nhau. Cũng trong năm đó, tôi được trao huy chương của Tổng thống cho thành tích học tập cao nhất tại trường đại học. Hi vọng bạn bỏ qua cho tôi nếu bạn thấy những điều ở trên nghe có vẻ khoe khoang. Nói thật chẳng có huyền thoại hay ghi danh sử sách nào trong sự nghiệp thể thao của tôi hết. Tôi chưa bao giờ ngừng chơi một cách chuyên nghiệp. Tuy nhiên, khi nhìn lại những năm tháng đó tôi tin là mình đã đạt được một điều rất quý giá: tôi đã tạo ra cơ hội tiềm năng cho chính mình. Và tôi tin những cách thức trong cuốn sách này cũng sẽ giúp bạn tạo ra cơ hội tiềm năng cho chính bạn. Tất cả chúng ta ai cũng gặp những thách thức trong cuộc sống. Tổn thương sau tai nạn là một trong những thách thức của tôi và trải nghiệm đó đã dạy tôi một bài học quan trọng: những thay đổi tưởng chừng bé nhỏ, ít quan trọng lúc ban đầu sẽ đem lại kết quả đáng kinh ngạc nếu ta kiên trì thực hiện nó trong nhiều năm. Tất cả chúng ta đều phải đối diện với những khoảng lùi nhưng trong một cuộc chạy dài, chất lượng cuộc sống của chúng ta thường phụ thuộc vào chất lượng của những thói quen chính chúng ta. Với cùng thói quen, bạn sẽ đạt được cùng kết quả. Nhưng với những thói quen tốt hơn, mọi việc đều khả thi. Có thể có những người sau một đem có thể đạt được những thành công vượt bậc. Nhưng tôi không quen ai như vậy cả, tôi thì chắc chắn không phải là một người trong số họ. Không thể chỉ trong một khoảnh khắc mà tôi từ một bệnh nhân bị gây mê sâu trở thành một người được trao huân chương xuất sắc cấp đại học toàn quốc. Đó là một hành trình. Đó là sự cải thiện dần từng chút một, một chuỗi dài của các chiến thắng và bứt phá nhỏ bé. Cách thức duy nhất mà tôi đã thực hiện - lựa chọn duy nhất mà tôi đưa ra - là bắt đầu từ những điều nhỏ bé. Và tôi đã áp dụng cùng cách thức này trong vài năm sau đó khi tôi bắt đầu tự kinh doanh và viết cuốn sách này. Lý do và cách tôi đã viết nên cuốn sách. Tôi bắt đầu đăng các bài viết trên trang jamesclear.com từ Tháng 11 năm 2012. Tôi đã ghi chép lại những kinh nghiệm cá nhân về thói quen, cuối cùng tôi đã sẵn sàng chia sẻ một vài điều trong đấy tới các bạn. Lúc bắt đầu tôi đăng bài mới vào mỗi thứ hai và thứ năm hàng tuần. Chỉ trong vài tháng, những bài viết đơn giản về thói quen đó đã đem lại cho tôi 1000 người theo dõi nhận tin qua email, và đến cuối năm 2013 con số người theo dõi đã tăng lên đến con số 30,000. Năm 2014 danh sách người theo dõi đã tăng lên hơn 100,000 người, đây là một con số tăng trưởng ấn tượng trên mạng internet. Tôi đã từng có cảm giác mình như kẻ lừa đảo khi bắt tay vào viết lách vào hai năm về trước, nhưng giờ tôi đã trở nên nổi tiếng là một chuyên gia về thói quen - cái chức danh vừa khiến tôi phấn khích vừa khiến tôi không thoải mái. Tôi chưa từng bao giờ nghĩ mình là một chuyên gia trong lĩnh vực này, và chắc chắn trong số những độc giả còn có người còn siêu hơn. Năm 2015 số lượng người theo dõi qua email đã lên đến con số 200.000 và tôi cũng ký được một hợp đồng với nhà xuất bản Penguin Random House để viết cuốn sách mà các bạn đang đọc. Số lượng độc giả tăng đem lại cho tôi những cơ hội kinh doanh. Ngày càng nhiều các công ty lớn mời tôi đến nói chuyện về việc tạo lập thói quen, thay đổi hành vi, cải thiện liên tục một cách khoa học. Tôi nhận thấy chủ yếu những lời mời nói chuyện tới từ Mỹ và Châu Âu. Năm 2016, các bài viết của tôi bắt đầu thường xuyên xuất hiện trên những tạp chí lớn như Times, Entrepreneur, và Forbes. Không thể ngờ được rằng hơn 8 triệu độc giả đã đọc những bài viết của tôi trong năm đó. Các huấn luyện viên tại các giải NFL, NBA và MLB bắt đầu đọc các bài viết của tôi và chia sẻ với các thành viên trong đội. Đầu năm 2017, tôi thành lập Habit Academy, nơi cung cấp các chương trình đào tạo nền tảng chất lượng cao dành cho những tổ chức, cá nhân có mong muốn xây dựng các thói quen tốt hơn trong cuộc sống và công việc [* Nếu muốn biết thêm thông tin xin mời truy cập website habitsacademy.com]. Các công ty trong top 500 của Fortune và các công ty start-up đang ăn nên làm ra bắt đầu cử các lãnh đạo đến học và đào tạo nhân viên của họ. Tổng đã có hơn 10,000 nhà lãnh đạo, quản lý, huấn luyện viên và giáo viên đã tốt nghiệp Habits Academy, và khi làm việc với những con người đó tôi cũng đã học được một khối lượng kiến thức đáng kinh ngạc các cách tạo lập thói quen áp dụng trong thực tiễn. Năm 2018 khi tôi hoàn thành cuốn sách này, trang web jamesclear.com đang nhận được hàng triệu lượt truy cập mỗi tháng và gần 500.000 người theo dõi qua email hàng tuần - một con số vượt xa ngoài mong đợi lúc mới bắt đầu của tôi, thậm chí tôi còn không chắc là đã nghĩ tới con số này. Cách mà quyển sách này giúp ích cho bạn Naval Ravikant, một nhà đầu tư cho biết: "Để viết ra một cuốn sách tuyệt vời, trước tiên chúng ta phải là chính cuốn sách." Lúc bắt đầu tôi học về những ý tưởng được đề cập trong cuốn sách này bởi vì tôi phải sống với chúng. Tôi đã phải nhờ vào những thói quen nhỏ để phục hồi sau chấn thương, để trở nên khoẻ mạnh hơn khi tập gym, để có phong độ cao trên sân đấu, để trở thành một nhà văn, để trở thành một nhà kinh doanh giỏi, và đơn giản là để trở thành một thanh niên sống có trách nhiệm. Những thói quen nhỏ giúp tôi tự mình tạo ra được những tiềm năng cho mình, và bởi vì bạn đã lựa chọn cuốn sách này, tôi đoán là bạn cũng muốn tự tạo ra những tiềm năng cho mình. Những trang tiếp theo tôi sẽ chia sẻ từng bước theo thứ tự để tạo dựng thói quen tốt hơn - không chỉ trong một vài ngày hay vài tuần, mà là cho cả một đời người. Dù mọi điều tôi viết trong cuốn sách đều được khoa học ủng hộ nhưng cuốn sách này lại ko phải là một bản nghiên cứu khoa học, nó là một bản hướng dẫn thao tác. Mời bạn đón đọc Atomic Habits - Thay Đổi Tí Hon, Hiệu Quả Bất Ngờ của tác giả James Clear & Lý Ngọc Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng
Khi cuộc nội chiến Hoa Kỳ gần kết thúc, những tay súng cuồng tín của Câu lạc bộ Súng ở Baltimore rất nhàn rỗi. Một ngày đẹp trời, chủ tịch Impey Barbicane đưa ra một đề xuất được chào đón một cách nhiệt tình. Đó là việc liên hệ với Mặt trăng bằng cách phóng một quả đạn khổng lồ bằng một khẩu pháo khổng lồ! Trong khi dự án đáng kinh ngạc này đang được thực hiện, một người Paris, Michel Ardan, gửi điện báo cho Barbicane: “Hãy thay thế quả đạn hình cầu bằng quả đạn hình nón. Tôi sẽ ngồi vào trong đó”... Với các nhân vật được xây dựng hoàn hảo, sự hài hước luôn hiện hữu, Từ Trái đất đến Mặt trăng là một trong những tác phẩm vĩ đại của Jules Verne, một trong những dự đoán táo bạo nhất của ông. Tác phẩm được Thanh Yên dịch từ bản dịch tiếng Anh. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. - Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, được coi là người khai sinh ra thể loại văn học Khoa học viễn tưởng. - Tác phẩm của ông được dịch nhiều thứ ba trên thế giới và được chuyển thể thành phim nhiều lần. - Danh tiếng ấy chắc hẳn đã là đẹp đẽ lắm rồi. Tuy nhiên ông còn xứng đáng được nhiều hơn thế. Và thật không công bằng khi chúng ta kể lại lịch sử văn học của thời đại này mà không đặt tiểu thuyết gia có lẽ là có tính sáng tạo bậc nhất vào một vị thế đúng đắn. - Ông đã dùng phòng thí nghiệm và kính viễn vọng để viết tiểu thuyết phiêu lưu. Ông không chỉ ghi lại quá trình các nhà bác học tạo nên những phát minh lớn, mà còn tiên đoán chúng. Đọc những tác phẩm cùa ông, ta có thể nhận thấy những mâu thuẫn vì trong số những ý tưởng khoa học còn có những kiến phát chưa thể xác minh. Và bỗng dưng năm sau, hoặc vài năm sau, những giả thuyết mà ông đặt ra mà đôi khi thậm chí ông còn không tin, đã trở thành sự thật, một cách hoàn toàn chính xác. Những nhà bác học đã hoàn toàn đồng tình với ý tưởng của ông, hay nói cách khác, ông đã đi trước họ!.. - Trước đây, người ta vẫn đặt câu hỏi liệu khoa học thực sự có đi ngược hướng với trí tưởng tượng văn chương hay không. Các nhà triết học thì đồng tình, lules Verne chứng minh điều ngược lại qua hành động. Ông dùng chất liệu khoa học để xây dựng nên những câu chuyện hấp dẫn, những cuộc phiêu lưu lôi cuốn. *** T rong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, hay còn gọi là cuộc chiến tranh giữa các tiểu bang (1861-1865), tại thành phố Baltimore, bang Maryland đã xuất hiện một câu lạc bộ mới và có sức ảnh hưởng ngoài mong đợi của những người sáng lập. Nó nổi lên cùng với nguồn năng lượng đến từ những tham vọng quân sự đang lớn dần giữa các nhóm chủ tàu, chủ hiệu và thợ cơ khí. Các nhà buôn thuần túy bỏ bàn tính để trở thành đại úy, đại tá và tướng lĩnh mà chưa hề có mặt dù chỉ một ngày ở Trường đào tạo West Point; thế mà, họ vẫn mau chóng sánh ngang với những kẻ đồng cấp nơi lục địa già và cũng như những kẻ kia, giành được thắng lợi nhờ các khoản chi vô tội vạ vào đạn dược, tiền bạc và con người. Nhưng lĩnh vực trong đó người Mỹ đặc biệt bỏ xa người châu Âu là khoa học chế tạo đại bác. Không phải vũ khí của họ có độ hoàn hảo cao hơn mà đơn giản chỉ là họ tạo ra các kích thước lớn hơn; lớn chưa từng thấy, thậm chí lớn tới mức xưa nay chưa từng thấy. Có người còn bạo mồm nói rằng kể cả mãi mãi về sau… Ở các khoản bắn quét, phóng, xiên, hay lia, hoặc bắn thẳng, người Anh, Pháp và Phổ chẳng có gì cần học hỏi; nhưng súng đại bác, bích kích pháo và súng cối của đám người này chỉ là thứ súng lục bỏ túi nếu so với những cỗ máy ghê gớm của pháo binh Mỹ. Sự thật này chẳng làm bất ngờ ai. Người Yankee, dù đây là theo cách gọi coi thường của người miền Nam trong thời kỳ nội chiến dành cho dân Bắc Mỹ, thì chính họ, những thợ cơ khí đầu tiên trên thế giới, là các kỹ sư – cũng như người Ý là nhạc công còn người Đức là các nhà siêu hình học bẩm sinh. Chẳng gì nghiễm nhiên hơn, thế đấy, việc nhìn họ ứng dụng tài hoa ấn tượng của mình vào khoa học chế tạo đại bác. Chứng kiến sự kỳ diệu của các loại súng Parrott, Dahlgren và Rodman, thì lục địa già với những súng Armstrong, Palliser và Beaulieu vang lừng tên tuổi một thời đã buộc phải cúi đầu trước những kình địch ở bên kia Đại Tây Dương. Giờ đây khi một người Mỹ có kế hoạch hành động, anh ta sẽ trực tiếp tìm một anh Mỹ thứ hai để bàn bạc và mời hợp tác. Nếu có ba, họ sẽ chọn ra một thủ lĩnh. Khi có bốn, họ sẽ chỉ định người quản lý hồ sơ và văn phòng sẵn sàng hoạt động. Nếu có năm, họ sẽ tiến hành mọi nghi lễ cần thiết để cho ra đời một câu lạc bộ. Chính là cái câu lạc bộ nói trên. Mọi thứ diễn ra tại Baltimore. Nhà sáng chế ra loại đại bác mới ủng hộ các thợ đúc và thợ khoan. Từ đó hình thành nên cốt lõi, nền tảng cho sự ra đời Câu lạc bộ Súng. Rồi, chỉ vẻn vẹn một tháng sau ngày thành lập, câu lạc bộ đã có tới 1.833 hội viên hợp thức và 30.565 hội viên thông tấn. Một điều kiện được coi như yếu tố tiên quyết đối với mỗi ứng viên khi gia nhập câu lạc bộ này, là phải đã hoặc đang thiết kế, hoặc (ít hay nhiều) từng hoàn thiện một khẩu đại bác; hoặc, nếu không đại bác, chí ít cũng là loại súng ngắn nào đó. Ấy thế mà, nghe nói, chỉ các tay sáng chế ra súng lục ổ quay, súng cạc bin khạc lửa và các vũ khí tương tự cỡ nhỏ, mới gặp ít soi xét nhất. Riêng lính pháo binh luôn được xếp hạng ưu trong điều khoản chiếu cố. Quy ước để tổ chức các quý ông này, theo một trong những diễn giải khoa học nhất và cũng mơ hồ nhất, của Câu lạc bộ Súng, là “tương ứng với số lượng súng của họ và tỷ lệ thuận với bình phương khoảng cách đạt được khi đạn bắn ra”. Khi Câu lạc bộ Súng được thành lập, tương lai về các thiên tài phát minh của người Mỹ thật quá dễ mường tượng. Vũ khí quân sự của họ đạt tới tầm vóc khổng lồ, còn đạn của họ, vượt mọi giới hạn quy chuẩn, thỉnh thoảng chẳng may cắt đôi vài khách bộ hành vô tội. Những sáng chế này, trên thực tế, bỏ xa các thiết bị nhút nhát của pháo binh châu Âu lại phía sau. Cũng là lẽ công bằng khi nói thêm rằng những người Yankee này, dũng cảm như họ từng thể hiện, đã không hạn chế chính mình trong các học thuyết và công thức, nhưng đã phải trả giá đắt, bằng chính bản thân, cho các sáng chế của họ. Trong số họ có đủ các cấp sĩ quan, từ trung úy tới cấp tướng; quân nhân thuộc mọi lứa tuổi, trong đó có người vừa mới gia nhập ngành vũ khí cho tới những người đã già đi cùng xe chở pháo. Phần còn lại của nhiều người được tìm thấy trên chiến trường và dòng tên viết in hoa trong Cuốn sách Danh vọng của Câu lạc bộ Súng, nhiều người khác tỏa ánh vinh quang mang theo những dấu tích của lòng dũng cảm không thể bàn cãi. Nạng đỡ, chân gỗ, tay giả, móc thép, hàm cao su, sọ bạc, mũi bạch kim, đều được tổng kết lại; và nhà thống kê xuất sắc Pitcairn tính toán rằng, suốt thời gian hoạt động của Câu lạc bộ Súng, cứ bốn người thì một thiếu đôi tay toàn vẹn và sáu người thì một không có đôi chân đủ đầy. Tuy nhiên, những pháo thủ can đảm này chẳng dành chút chú ý đặc biệt nào tới những thừa thiếu nhỏ nhoi này, mà chỉ cảm thấy niềm tự hào dâng tràn khi thông báo kết quả gửi về từ trận chiến: Con số tử vong gấp mười lần lượng đạn tiêu hao. Một ngày nọ, ấy vậy mà lại là ngày u buồn! Hòa bình được ký kết giữa những kẻ sống sót sau cuộc chiến; tiếng gầm rú của đạn pháo dần vơi, súng cối trở nên câm lặng, bích kích pháo bị bịt kín miệng trong thời gian không hạn định, đại bác, với những họng súng rầu rĩ, bị kéo vào kho… những hồi ức đẫm máu cũng lu mờ; cây bông mọc sum suê trên những cánh đồng được bón phân cẩn thận, tất cả đồ tang lễ được xếp sang một bên, cùng với nỗi đau thương; còn Câu lạc bộ Súng bị đẩy xuống trạng thái trì trệ vô thời hạn. Dăm ba nhà lý luận cấp cao thâm căn cố đế quay lại với việc sửa đổi các trù tính về luật súng đạn. Họ khăng khăng lật lại vấn đề về đạn pháo khổng lồ và bích kích pháo ngoại cỡ. Nhưng thiếu thực tiễn, mớ lý thuyết này có giá trị gì? Và như vậy, các phòng trong câu lạc bộ trở nên vắng ngắt, những người phục vụ ngủ gà gật nơi tiền sảnh, báo chí mốc meo trên bàn, tiếng ngáy vọng ra từ góc tối, còn hội viên của Câu lạc bộ Súng, khi xưa ầm ĩ trong cả phiên họp lẫn giờ giải lao, nay tụt xuống im ắng vì thứ hòa bình tai họa này và buông bỏ toàn bộ bản thân vào những giấc mơ về một nền pháo binh thuần khiết. “Thật là tệ hại!” Tom Hunter nói khi chiều tối, trong lúc đang mau chóng tôi cacbon cặp chân giả trong lò sưởi phòng hút thuốc. “Chẳng có gì để làm!” anh nói, giọng hằn học. “Chẳng có gì để trông mong! Cái loại tồn tại ghê tởm này! Đến khi nào súng ống lại đánh thức chúng ta dậy buổi sáng bằng tiếng nổ dễ chịu của nó đây?” “Những ngày đó qua rồi,” Bilsby dễ mến nói, cố duỗi đôi tay đã mất. “Đã là ngày xưa vui vẻ rồi! Một người phát minh ra súng và khó khăn lắm mới đúc ra nó, một người vội vã thử dùng để đối đầu với kẻ thù! Sau đó một người quay về doanh trại cùng lời cổ vũ của Sherman hoặc cái bắt tay thân thiện với McClellan. Nhưng giờ các tướng đều quay lại với bàn tính; và thay vì súng đạn, họ gửi đi các kiện bông. Trời ơi, tương lai ngành chế tạo đại bác của nước Mỹ tiêu rồi!” “Ây! Còn chẳng có viễn cảnh chiến tranh nào!” James T. Maston nổi tiếng tiếp lời, cào cào cái sọ nhựa kết của mình bằng bàn tay móc thép. “Chẳng có nguy cơ nào trong tương lai! Mà lại còn ở cái giai đoạn then chốt trong sự phát triển của khoa học pháo binh! Đúng thế đấy, các quý ông! Tôi, người đang nói với các bạn đây, sáng nay đã hoàn thiện một mẫu, đủ cả, gồm bố trí, mặt cắt, góc nâng, vân vân và vân vân của loại súng cối sẽ thay đổi mọi tình thế chiến trận!” “Không… không! Có thể như vậy ư?” Tom Hunter kêu lên, vô tình nhớ lại sáng chế trước kia của ngài J. T. Maston, bằng cách nào đó, trong lần thử nghiệm đầu tiên, đã tiêu diệt ba trăm ba mươi bảy tên địch. Một thành công hơn cả mơ ước. “Nhưng mà,” anh nói tiếp, “tiến hành nhiều nghiên cứu, đánh bại nhiều khó khăn thì cũng có ích lợi gì đâu? Chỉ lãng phí thời giờ! Tân Thế Giới có vẻ đã quyết tâm sống trong hòa bình; còn vị lãnh đạo hiếu chiến của chúng ta dự đoán rằng một số thảm họa sắp phát sinh từ sự gia tăng dân số tồi tệ này.” “Tuy nhiên,” đại tá Blomsberry đáp lời, “ở châu Âu họ luôn phải vật lộn để duy trì nguyên tắc của các dân tộc.” “Thì sao?” “Thôi nào, có thể là vẫn có chỗ cho lòng can đảm ở bên đó và nếu họ chấp nhận sự phục vụ của chúng ta…” “Cậu mơ mộng cái gì đấy?” Bilsby hét lên, “chế tạo đại bác vì lợi ích của lũ ngoại quốc ư?” “Thế chả hơn là vô công rỗi nghề ở đây sao?” đại tá đáp trả. “Chính xác,” J. T. Matson nói, “nhưng chúng ta không cần tính đến cái kế đó.” “Tại sao không?” đại tá gặng hỏi. “Vì quan điểm về sự tiến bộ ở Cựu Thế Giới của họ trái ngược với thói quen tư duy của người Mỹ chúng ta. Những kẻ đó tin rằng không ai có thể trở thành tướng mà ban đầu không phục vụ với vai trò người cầm cờ; thế thì chẳng khác gì nói một người không thể chĩa súng nếu không tự làm ra một khẩu súng trước đó!” “Lố lăng!” Tom Hunter vừa nói vừa gọt đẽo tay ghế bành bằng một lưỡi mác, “nhưng nếu như vậy, tất cả những gì còn lại cho chúng ta chỉ là trồng thuốc lá và chưng dầu cá voi.” “Gì đây!” J. T. Maston gầm lên, “Sao chúng ta không tận dụng những năm còn lại của đời mình để hoàn thiện loại súng cầm tay? Chẳng lẽ không bao giờ có cơ hội tử tế để thử tầm đạn à? Chẳng lẽ ánh chói ngời từ súng của chúng ta sẽ không bao giờ làm bừng sáng không gian nữa à? Không có mâu thuẫn quốc tế nào nảy sinh để chúng ta tuyên bố chiến tranh chống lại các thế lực bên kia Đại Tây Dương hay sao? Chẳng lẽ không người Pháp nào đánh chìm tàu hơi nước của chúng ta, hay người Anh, bất chấp quyền lợi giữa hai dân tộc, treo cổ vài đồng hương của chúng ta hay sao?” “Không may mắn thế đâu,” đại tá Blomsberry đáp, “chẳng cái gì tương tự có khả năng xảy ra đâu, mà dù có, chúng ta cũng chả lợi dụng được gì từ nó. Tính nhạy cảm của người Mỹ đang sụt giảm mau chóng, rồi tất cả chúng ta đều sẽ lụn bại.” “Quá đúng,” J. T. Maston trả lời với giọng giận dữ chưa tan, “Có hàng ngàn chiến trường để chiến đấu, nhưng chúng ta không chiến đấu. Chúng ta hy sinh tay chân cho lợi ích của các dân tộc – những kẻ không biết phải làm gì với chúng! Nhưng khoan – khỏi tốn công tìm động cơ chiến tranh – chẳng phải Bắc Mỹ một lần nữa lại thuộc về người Anh?” “Chắc chắn thế rồi,” Tom Hunter đáp, giậm giậm nạng của mình trong cơn giận dữ. “Chà, nếu vậy,” J. T. Maston nói, “tại sao không đổi lại nước Anh thuộc về người Mỹ?” “Thế mới thích đáng và công bằng,” đại tá Blomsberry đáp lại. “Hãy kiến nghị với tổng thống Mỹ đi,” J. T. Maston ré lên, “và xem xem ông ta sẽ tiếp đón anh thế nào.” “Hừ!” Bilsby gầm gừ giữa bốn chiếc răng chiến tranh đã để lại cho mình, “Điều đó không bao xảy ra!” “Trời ơi!” J. T. Maston la lớn, “Thế thì ông ta hẳn không cần phiếu của tôi cho lần bầu cử tiếp rồi!” “Cũng không cần của chúng tôi luôn,” tất cả các thương binh hiếu chiến nhất trí đáp lời. “Trong lúc ấy,” J. T. Maston tiếp tục, “cho phép tôi nói điều này, nếu tôi không thể tóm được một cơ hội để thử nghiệm súng cối mới của mình trên chiến trường chân chính, tôi sẽ nói lời tạm biệt với tất cả thành viên của Câu lạc bộ Súng và đi chôn vùi bản thân trong các thảo nguyên ở Alaska!” “Trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ đi theo anh,” những người khác kêu lên. Chuyện là trong tình cảnh đáng tiếc ấy, câu lạc bộ bị đe dọa trước nguy cơ giải tán, thì một tình huống bất ngờ đã xảy ra và ngăn chặn một kết thúc bi đát. Vào ngày tiếp theo sau cuộc trò chuyện này, mỗi thành viên của hội đều nhận được một giấy báo có niêm phong thuật lại nội dung sau: BALTIMORE, Ngày mùng ba tháng Mười, Chủ tịch Câu lạc bộ Súng trân trọng thông báo tới các đồng sự rằng, tại buổi họp khẩn cấp lần thứ năm, ngài sẽ mang đến cho họ một tin tức vô cùng thú vị. Ngài yêu cầu, do đó, họ sẽ phải chuẩn bị sẵn sàng để tham gia theo đúng lời mời này. Rất thân ái. IMPEY BARBICANE, Chủ tịch Câu lạc bộ Súng. Mời các bạn đón đọc Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng của tác giả Jules Verne & Thanh Yên (dịch).
Từ Khung Cửa Sổ Lớp 7D - Tập 2
Vốn là học sinh của một trường chuyên cấp hai tại thành phố lớn, Anri đột ngột phải chuyển về học ở một ngôi trường vùng quê vào mùa hè. Những tưởng sẽ mất nhiều thời gian để làm quen với cuộc sống nơi đây, nhưng cô bé lập tức yêu bầu không khí khoáng đạt và dễ chịu của ngôi trường mới, khác hẳn với ngôi trường trước kia, đặc biệt là những ô cửa luôn để mở... Và cũng chính nơi đây, Anri đã có được những tình bạn thật đẹp cùng những rung động trong trẻo đầu đời… TỪ KHUNG CỬA SỔ LỚP 7D của nữ tác giả Atsuko Asano sẽ đánh thức những kí ức quý giá về thời thanh xuân hoa mộng trong mỗi chúng ta… *** Asano Atsuko sinh năm 1954 ở Okayama. Bà đạt giải Văn học Thiếu nhi Noma với “Battery” giải của Hiệp hội tác giả sáng tác văn học Nhật Bản với “Battery II” ngoài ra loạt truyện “Battery” cũng đạt giải Văn hóa Xuất bản Thiếu nhi của shogakukan. Năm 2011, bà đạt giải Văn học lãng mạn Shimase lần thứ 18 với “Tamayura” (Thoáng chốc). Bà là một tác giả đa dạng về thể loại, từ văn học thiếu nhi cho đến văn học đại chúng, tiếu thuyết lịch sử, tiểu thuyết thế thao. Trong các tác phầm tiêu biếu, ngoài các truyện dài tập như “Trăng của Di Lặc”, “Anh đào Dạ Xoa”, “Hồng chín cây”, “Con đường bình minh”, “Bày vì sao trài đông”, “Làm tổ trên đất” của loạt truyện “Di Lặc”, loạt truyện “No. 6”, loạt truyện “The MANZAI”, “Sáng chói”, còn có “Tựa như quầng lửa”, “Bầu trời của sân”, “Tỉnh mộng”… ***   Nhóm bốn người bạn thân thiết Ijima Anri, Ichii Kazuma, Satodate Miho, Maehata Hisakuni đã lên lớp 9. Một bức tường mới dựng lên phía trước, bốn cô cậu thiếu niên đang đối mặt với ngưỡng cửa chuyển cấp và sẵn sàng tiến bước về phía ước mơ của mình. Mời các bạn tiếp tục đón đọc cuốn tiểu thuyết khắc họa thời thanh xuân của Asano Atsuko, vẽ nên lứa tuổi mười lăm vừa trăn trở với nỗi lo về tương lai, về môi trường mới, vừa trưởng thành trong sự chở che của gia đình, bạn bè.     ***   Gió thổi. Những cành anh đào nở rộ rì rào đung đưa. Vô vàn cánh hoa rơi rụng. Chúng phất phơ bay lên cao như đang chơi đùa với gió trước khi biến mất ở một phương trời xa xăm nào đó. Một khung cảnh làm người ta sinh ra ảo giác rằng cả gió và hoa đều đang bị hút về phía bầu trời. - Ghét quá đi! Vừa khua khoắng chiếc chổi tre, Satodate Miho vừa trề môi. Suốt từ nãy đến giờ cô đã bĩu môi không biết bao nhiêu lần. - Quét hoài quét mãi mà chả hết. Làm vệ sinh ngoài trời mùa này đúng là kinh khủng nhất trần đời. Nói thật, tớ thấy phiền chết được ấy. - Vậy sao? Tớ lại thích quét dọn ngoài trời hơn. Anri trả lời và quét cánh hoa. Từng cánh từng cánh mỏng tang, tưởng như trắng một màu trong suốt, nhưng khi gom với nhau lại chuyển sang màu hồng nhạt. Trong trường trung học cơ sở Ashiwara số I có rất nhiều cây anh đào. Chúng được trồng cả ở hai bên cổng trường, sau bãi đỗ xe lẫn sân trong. Hàng cây anh đào cũng chạy dài như đường viền bao bọc rìa phía Tây của sân trường. Ngôi trường nằm trên một con dốc thoai thoải đầy ắp cỏ hoa này cứ như bị chôn vùi trong hoa anh đào vậy. Mùi hương thoang thoảng ngọt ngào len lỏi vào từng ngóc ngách trong phòng học, nếu vô tình mở cửa sổ thì vô số cánh hoa sẽ ùa vào cùng làn gió. Anri ngừng quét, ngước lên nhìn hoa anh đào. Những đóa anh đào nở rộ lấp lánh trên nền trời xanh trong quang đãng. Thật đẹp làm sao. Cô suýt buông ra một tiếng thở dài. Nếu là Ichii, cậu ấy có muốn vẽ những đóa anh đào này không nhỉ? Không biết từ lúc nào, Anri bắt đầu nghĩ về Ichii Kazuma. Cô tự thấy ngượng ngùng với suy nghĩ ấy. Không muốn bị Miho trông thấy gương mặt đỏ dừ như cà chua chín của mình, Anri càng ngửa mặt lên. - Từ năm ngoái tớ đã thấy hoa anh đào ở đây nở đẹp tuyệt rồi. Với cả, chẳng phải ngắm hoa cũng là sự kiện trong tháng Tư của trường sao? Năm ngoái tớ thấy bất ngờ cực kì luôn. - Hả, thế á? Các trường khác không tổ chức ngắm hoa à? - Ừ. Chắc là không đâu. Tớ chẳng thấy ai nói gì về chuyện này cả. Lòng đen trong mắt Miho đảo qua đảo lại. - Ra thế. Tớ sinh ra ở Ashiwara, lớn lên ở Ashiwara. Bố và mẹ tớ cũng đều học ở trường trung học cơ sở Ashiwara số I, nên tớ không biết gì về những trường khác. Tớ cứ tưởng việc đó rất đỗi bình thường cơ. Nhưng nếu biết về thế giới bên ngoài như Anri thì sẽ thấy khác nhỉ. - Ôi trời. Thế giới bên ngoài nào chứ? Miho lại nói quá rồi. - Tớ nghĩ vậy thật mà. Khi nói chuyện với Anri, tớ nhận ra, a, hóa ra có thể nghĩ như vậy, thì ra có cách nhìn như thế… Ừm, còn có câu thành ngữ cái gì rơi khỏi mắt í. - Vảy cá rơi khỏi mắt?* • Thành ngữ Nhật, ý là nhờ có việc gì đó mà bỗng nhiên hiểu ra điều trước nay không thể hiểu nổi. — end note — - Phải phải, cảm giác như vảy cá rơi khỏi mắt vậy. Cảm tưởng như những thứ đã đông cứng trong đầu bỗng dưng tan chảy. Cho nên… Miho im lặng trong chốc lát, môi vẫn mím, cô bé dùng lòng bàn tay đỡ một cánh hoa đang rơi xuống, nắm lấy nó rồi quay về phía Anri. - Cho nên, Anri chuyển trường về đây là một niềm hạnh phúc lớn lao đối với tớ. Thực sự hạnh phúc vô cùng. - Miho… - À há! Nghe như tớ lại vừa bày tỏ ấy nhỉ. Không rõ có phải vì xấu hổ hay không, Miho bắt đầu hăm hở quét và gom cánh hoa lại. Anri nắm chặt lấy cán chổi. Cô rất vui trước lời bày tỏ của Miho. Dù đồng giới hay khác giới, lời bày tỏ “Tớ thích cậu” vẫn luôn là thứ làm trái tim con người xao xuyến. Ý nghĩ mình làm ai đó hạnh phúc cũng mang lại hạnh phúc cho chính bản thân Anri. - Miho, cảm ơn cậu. - Hử? Cậu nói gì cơ? Chẳng biết Miho không nghe thấy thật hay giả bộ, cô vẫn tiếp tục khua chổi thật lực. Thế rồi, cô vờ than thở. - Ai đó phải làm gì với cây anh đào này đi chứ. Mùa xuân là cánh hoa, mùa hè đến sâu bướm, mùa thu thì lá rụng. Chỉ khổ người phụ trách dọn vệ sinh thôi. - Nhưng hoa anh đào đẹp đấy chứ. Trường học ngập tràn hoa anh đào cũng khá tuyệt mà. Từ xưa trường mình đã nhiều hoa anh đào như thế này rồi à? Anri chuyển trường tới Ashiwara vào học kì hai năm lớp bảy. Trường cấp hai dân lập mà cô theo học trước đó tọa lạc ở vị trí gần như là trung tâm thành phố nên chẳng có lấy một cây hoa nào ấy chứ đừng nói tới anh đào. Và dĩ nhiên sự kiện ngắm hoa cũng không có luôn. Miho dừng tay, lắc đầu hai lần. - Không phải từ xưa đâu… Ừm, theo những gì tớ nghe được thì hiệu trưởng đời thứ năm hay thứ sáu gì đó cực kì thích hoa anh đào, nên vừa nhậm chức một cái là thầy lập tức hăm hở đi trồng cây anh đào khắp trường luôn. - Ồ, thầy hiệu trưởng thích hoa anh đào à? Nghe cũng hay đấy. Chắc hẳn đó là một thầy giáo rất tốt bụng nhỉ. Thấy Anri gật đầu nói vậy, Miho bèn cười ranh mãnh. Khóe môi nhếch lên hết cỡ, nhìn gian không chịu được. - Chuyện đó thì… cậu nhầm rồi. - Ớ? Nhầm là sao? - Phải nói là nhầm to ấy chứ. Nghe đồn thầy hiệu trưởng đó ác như ma, thầy sẽ dùng hình phạt hết sức hết sức tàn khốc với những học sinh chống đối giáo viên hay không tuân thủ nội quy trường. - Hình phạt tàn khốc? - Đúng vậy. Nào là quật kẻ phạm lỗi bằng roi đến mức rách cả da, bắt chạy trên sân với độc bộ đồ lót cho đến khi gục ngã, dội hàng chục gáo nước lên đầu dù đang mùa đông. Thậm chí trong số học sinh chịu hình phạt có người đã chết bởi những hình phạt hà khắc ấy đấy. - Chết á? Như vậy chẳng phải thành to chuyện rồi? - Bây giờ thì đúng. Nhưng ngày xưa quản lí lỏng lẻo lắm. Có điều sau đó thầy hiệu trưởng bị vong hồn đứa trẻ đã chết ám, rồi một ngày nọ, thầy ấy biến thành cái xác lạnh ngắt dưới gốc cây anh đào. Chấm hết. - Miho, cậu đừng dựng chuyện thế chứ. - Hì hì, nhưng thú vị phải không? - Hừm… cũng không đến mức đó. Đến giữa chừng là đọc vị được đoạn tiếp theo rồi. Cảm giác hơi bị thiếu bước ngoặt một chút. - Oa, Anri, cậu có cần nói toạc ra như thế không? Miho cất tiếng cười. Anri cũng cười theo. - Mà nè, lên lớp chín mà chúng mình vẫn được chung lớp, may thật. Khi nhìn bảng xếp lớp hôm khai giảng, tớ còn vô tình giơ nắm đấm lên cơ. Như thế này này. Bắt đầu tái hiện lại cảnh! Nói xong, Miho vung nắm đấm lên cao. - Phải đấy. Chủ nhiệm cũng vẫn là cô Funaki. Lớp 9B chắc sẽ ổn ra trò. 9B. Đó là lớp mới của Anri và Miho. Ichii Kazuma và Maehata Hisakuni học lớp C kế bên. Miho, Kazuma, Hisakuni. Nếu mượn lời của Miho thì việc gặp gỡ ba người bạn này là “hạnh phúc lớn lao” đối với Anri. Ở cùng ba người họ, lúc nào cô cũng vui vẻ, không hề mệt mỏi. Cô hoàn toàn chẳng cần để tâm lựa chủ đề nói chuyện cho khớp, đọc vị không khí xung quanh, hay chú ý để không buột miệng nói ra những điều mình nghĩ. Cô có thể nói thẳng nói thật, ghét thì bảo là ghét, khổ sở thì kêu khổ sở, vui thì nói là vui. Đương nhiên cũng có lúc vô tình làm tổn thương đối phương hay xảy ra trục trặc, nhưng mỗi lần như thế, Anri đều vượt qua được. Đó là bởi đối với Anri, ba người họ là những người bạn không gì có thể thay thế, là những người mà cô chẳng muốn đánh mất từ sâu thẳm trong tim. Anri muốn giữ gìn điều đó. Cô muốn giữ gìn quãng thời gian được ở bên ba người bạn này. Không phải quan sát sắc mặt của nhau hay vì giữ ý mà giấu giếm những điều mình muốn nói, mà là nói ra suy nghĩ của bản thân trong khi vẫn dành cho nhau sự quan tâm chân thành. Truyền đạt suy nghĩ của bản thân và lắng nghe suy nghĩ của đối phương, đó mới chính là giữ gìn. Có phải không nhỉ? Biết đâu như thế lại là nhầm lẫn. Có thể đó chỉ là do cô cả nghĩ thì sao. Trước đây Anri sợ điều đó vô cùng. Suy nghĩ khác biệt hay có cảm xúc lệch lạc so với bạn bè đều làm cô sợ hãi vô cùng. Cô có cảm giác mình toàn bị bạn bè nói: “Anri nghĩ ngợi nhiều quá rồi.”, “Phải phải, cậu nên thoải mái, cởi mở hơn một chút.”, và toàn thân cô như căng cứng lại. Bây giờ cô đã có thể nghĩ rằng dù nhầm lẫn cũng không sao cả. Miễn đó là điều bản thân cảm nhận, suy nghĩ, tâm niệm, dù có khác người thì vẫn nên gạt bỏ nỗi sợ hãi để nói ra. Nghĩ được như vậy, Anri có thể hít thở dễ dàng hơn. Tựa như lồng ngực cô được mở rộng ra và căng tràn không khí trong lành, tươi mới. - Anri này! - Ừ? - Tranh của Kazu thì sao? - Ừm, tớ không biết nữa. Anri trả lời một cách mơ hồ. Kazuma tham gia câu lạc bộ mĩ thuật. Ước mơ của cậu ấy là tương lai tiếp tục tiến bước trên con đường hội họa. Cậu ấy nói rằng muốn vẽ tranh suốt đời, dù dưới hình thức nào đi chăng nữa. Cậu ấy cừ quá, Anri thầm thán phục. Một người còn chưa tròn mười lăm tuổi đã nhìn ra con đường để đánh cược cả cuộc đời thì thật đáng nể. Bề ngoài Kazuma có vẻ hiền lành, nhưng bên trong lại có ý chí mạnh mẽ và kiên định. Đối với Anri, ý chí đó vô cùng rực rỡ. Tuy nhiên, dạo này Kazuma đang rơi vào giai đoạn trì trệ. Bức tranh chân dung vẽ Anri hình như mãi vẫn không tiến triển theo đúng ý cậu. Anri đã hứa rằng sau giờ học, nếu nhận được lời nhờ vả của Kazuma và không bận việc gì, cô sẽ làm người mẫu cho cậu. Trước đây cô cũng đã làm mẫu mấy lần tại phòng học lớp 7D - phòng học bỏ trống nay đã thành kho chứa đồ, đồng thời là nơi Anri và Kazuma lần đầu gặp mặt. Nhưng gần đây, Kazuma không nói gì hết. Hôm trước, cậu ấy đã lẩm bẩm xen lẫn những tiếng thở dài. - Có vẻ như tác phẩm tớ vẽ ra và thứ bản thân muốn vẽ là hai thứ hoàn toàn khác biệt. Vậy nên tớ chẳng hiểu bản thân muốn vẽ bức tranh như thế nào nữa. Cứ đà này thì không vẽ được gì là điều đương nhiên chăng? Tuy giọng điệu có phần hơi tự mỉa mai của Kazuma làm Anri lo lắng, nhưng cô không thể nói được gì. Kazuma muốn vẽ tranh một cách nghiêm túc, không phải như một môn học hay một thú vui. Mà nghiêm túc vẽ là như thế nào thì Anri lại chẳng hiểu được. Chính vì thế, cô không thể tùy tiện thốt ra lời an ủi hay động viên. Miho nói như bông đùa. - Kazu cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ thế nào ấy. Nói khác đi thì là đau khổ, ủ dột, tựu chung lại là đang gặp rắc rối. Tuy tỏ vẻ như đang đùa, nhưng cô thực sự lo lắng. - Kiểu tính cách nghệ sĩ như thế, hễ chán nản là kéo dài dai dẳng lắm. A, ha-ha-ha-hắt xì! Miho phát ra một tiếng hắt hơi rất đáng yêu. Hình như có cánh hoa chui vào mũi cô. Những cánh hoa trắng rơi trên tóc, trên vai, tựa như những hình họa tiết. Anri vỗ bộp hai tay vào nhau. - Nè, hay mình tổ chức ngắm hoa đi? - Ngắm hoa á? - Bốn đứa tụi mình cùng đi ngắm hoa nhé? Vào Chủ Nhật tới. - A, ý hay đấy. Dù cưỡng ép cũng phải lôi Kazu đi bằng được. Miho lại cười ranh mãnh. Gió thổi, hoa anh đào rơi rụng, cơn bão hoa anh đào ôm lấy hai cô gái.   Mời các bạn đón đọc Từ Khung Cửa Sổ Lớp 7D - Tập 2 của tác giả Atsuko Asano & Phương Anh (dịch).
Từ Khung Cửa Sổ Lớp 7D - Tập 1
Vốn là học sinh của một trường chuyên cấp hai tại thành phố lớn, Anri đột ngột phải chuyển về học ở một ngôi trường vùng quê vào mùa hè. Những tưởng sẽ mất nhiều thời gian để làm quen với cuộc sống nơi đây, nhưng cô bé lập tức yêu bầu không khí khoáng đạt và dễ chịu của ngôi trường mới, khác hẳn với ngôi trường trước kia, đặc biệt là những ô cửa luôn để mở... Và cũng chính nơi đây, Anri đã có được những tình bạn thật đẹp cùng những rung động trong trẻo đầu đời… TỪ KHUNG CỬA SỔ LỚP 7D của nữ tác giả Atsuko Asano sẽ đánh thức những kí ức quý giá về thời thanh xuân hoa mộng trong mỗi chúng ta… *** Asano Atsuko sinh năm 1954 ở Okayama. Bà đạt giải Văn học Thiếu nhi Noma với “Battery” giải của Hiệp hội tác giả sáng tác văn học Nhật Bản với “Battery II” ngoài ra loạt truyện “Battery” cũng đạt giải Văn hóa Xuất bản Thiếu nhi của shogakukan. Năm 2011, bà đạt giải Văn học lãng mạn Shimase lần thứ 18 với “Tamayura” (Thoáng chốc). Bà là một tác giả đa dạng về thể loại, từ văn học thiếu nhi cho đến văn học đại chúng, tiếu thuyết lịch sử, tiểu thuyết thế thao. Trong các tác phầm tiêu biếu, ngoài các truyện dài tập như “Trăng của Di Lặc”, “Anh đào Dạ Xoa”, “Hồng chín cây”, “Con đường bình minh”, “Bày vì sao trài đông”, “Làm tổ trên đất” của loạt truyện “Di Lặc”, loạt truyện “No. 6”, loạt truyện “The MANZAI”, “Sáng chói”, còn có “Tựa như quầng lửa”, “Bầu trời của sân”, “Tỉnh mộng”… *** Ijima Anri phải chuyển nhà vào mùa hè năm lớp 7. Cô đã đặt chân vào phòng học lớp 7D, một phòng học không còn được sử dụng nằm trong khuôn viên ngôi trường cấp hai lạ lẫm mà cô mới chuyển đến. Ở đây, cô gặp Ichii Kazuma. Kazuma sau khi gặp gỡ Anri đã nhờ Anri làm người mẫu cho tranh của mình. Rồi câu chuyện khởi đầu từ đó… Anri, Kazuma, và cả những người bạn không thể thay thế cùng gia đình. Cuốn tiểu thuyết khắc họa thời thanh xuân của Asano Atsuko, vẽ nên lứa tuổi mười bốn, vừa trăn trở vừa trưởng thành. *** Phòng học đó nằm ở cuối hành lang tầng ba, bên cạnh lớp 7C. Từ lớp 7A, 7B, 7C, luồng sinh khí, tiếng cười đùa, tiếng hò hét và giọng hát của các học sinh vang tới ồn ào đẩy sức sống. Thế nhưng, phía trước căn phòng đó lúc nào cũng lặng ngắt như tờ. Cái vẻ yên tĩnh ấy cứ như đang thủ thỉ “Chỉ có nơi này là khác biệt, chỉ có ở đây…” Vừa mở cửa, cô đã hắt xì hơi. Trong mũi cũng có cảm giác ngưa ngứa. Lấy tay phải bịt mũi, cô thử thở ra từng hơi ngắn. Phù, phù, phù, đúng ba lần. Ai đã chỉ cho mình cái mẹo chữa chứng hắt hơi này nhỉ? Vẫn bịt mũi, cô ngó quanh một lượt. Có thứ gì đó đang phát sáng lung linh. Là bụi. Trong luồng sáng xuyên vào từ khung cửa sổ, mỗi hạt bụi hóa thành từng hạt sáng nhỏ li ti, ánh lên lấp lánh. Phải chăng đây chính là nguyên nhân làm minh hắt hơi? Nhưng mà đẹp thật đó. Khung cửa sổ treo rèm màu kem, nhưng tấm rèm ấy mới chỉ được kéo hai phần ba. Cái kiểu dở dang như thể ai đó vội vàng không kịp kéo hết hoặc chỉ kéo qua loa cho xong. Cô lại đưa mắt quan sát khắp phòng một lượt. Ánh sáng xuyên qua lớp kính cửa sổ tràn vào trong phòng. Nó làm những hạt bụi sáng lấp lánh. Nắng chiếu sáng trắng cả sàn nhà. Bàn ghế được xếp chổng lên nhau ở trong góc, cạnh đó là chiếc xô, cây chổi (có vẻ) chưa sử dụng và một chiếc bàn giáo viên cũ kĩ. Thứ nào thứ nấy đều phủ lên mình một lớp bụi mỏng. Nhìn kĩ sẽ thấy, bụi cũng phủ lên cả sàn nhà. Chẳng biết nơi này trở thành phòng học bỏ không bao lâu rồi. Nghển cổ lên, tầm mắt Anri chạm tới tấm bảng đen. Tim cô bỗng đập dồn. Ở góc bảng ghi tên những người tới phiên trực nhật có hai cái họ “Otani” và “Ijima” nằm cạnh nhau. ”Ijima” là họ của Anri. Thị trấn này là quê hương của bố cô, có rất nhiều người mang họ Ijima. Ijima nằm rải rác khắp mọi nơi, nào là bệnh viện Ijima, hiệu sách Ijima, cả nhà hàng IJIMA nữa chứ. Khi căn phòng này vẫn còn là một lớp học, khi hai mươi tới ba mươi học sinh tập trung lại cùng học, cùng sinh hoạt, cùng cười đùa hay làm tổn thương lẫn nhau, chắc hẳn đã có một nam sinh hay một nữ sinh mang họ Ijima. Có điều, chuyện cỏn con đó sao lại làm tim cô đập nhanh đến vậy nhỉ? Phải chăng là vì cái tên “Otani” được ghi bên cạnh thật giống với “Kitani”? Dường như gương mặt rám nắng nhìn nghiêng của Kitani Shuya vừa lướt qua trước mắt Anri. Đó là gương mặt nhìn nghiêng cô luôn ngắm nghía từ cửa sổ lớp học. vẫn chưa đầy hai tháng mà cô cảm thấy chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi. Từ cửa sổ phòng học, ánh mắt của cô từng đuổi theo bóng hình một thiếu niên ở trên sân. Cô đã chầm chú ngắm cậu mãi mà không biết chán. Chỉ nhìn thôi cũng làm cô thấy hạnh phúc. Quãng thời gian ấy, những ngày hạnh phúc tột bậc ấy, đã thuộc về quá khứ, một quá khứ vô cùng xa xôi. Những giọt mồ hôi chảy xuống đôi gò má. Đặt tay lên trán, Anri nhận ra mình đang mướt mát mồ hôi. Cô luôn bị vã mồ hôi ở mặt trước tiên, rồi mới tới lưng và phần dưới cánh tay. Từ nhỏ đã vậy. Chạng vạng rồi mà ánh mặt trời tháng Chín vẫn gay gắt như mùa hè, khiến cho căn phòng đóng kín cửa sổ nóng như một cái nồi hấp. Anri đặt tay lên cửa, lưỡng lự hồi lâu. Làm sao đây… Anri tự hỏi. Mình có nên bước vào không gian bụi bặm và nóng nực này không nhỉ? Đến giờ này rồi mà mày còn nói gì thế? Chính mày đã hạ quyết tâm rồi còn gì! Một giọng nói có phần cộc lốc và lạnh lùng đáp lại. Đó là giọng nói của chính Anri. Khi phân vân hay trán trở chuyện gì, dù nỏ nhỏ nhặt đến mức nào, Anri vẫn thường tự hỏi bản thân. Nè, phải làm sao đây? Có lúc cô nhận được câu trả lời ngay lập tức, cũng có khi không nghe thấy bất cứ điều gì. Còn lúc này, cô có cảm giác mình bị vỗ mạnh một cái vào lưng và bảo: “Cố gắng lên.” Đây là việc tự mình đã quyết cơ mà. Hãy làm cho đến nơi đến chốn. Lạch cạch. Lạch cạch. Nghe trên đầu có tiếng động, cô ngẩng mặt lên. Tấm biển nhựa ghi “7D” đang đung đưa. Nhiều khi không rõ là do truyền thống của trường hay tính cách của thầy hiệu trưởng, nhưng nhắc tới bầu không khí bao trùm khắp nơi ở ngôi trường cấp hai tư thục mà Anri đã theo học cho đến trước kì nghỉ hè, nếu nói tốt thì là nghiêm trang chuẩn mực, mà nói không tốt thì là xét nét, chú trọng tiểu tiết. So với nơi đó thì ngôi trường cấp hai này, ngôi trường cô mới chuyển tới sau khi kết thúc kì nghỉ hè vào tuần trước, có bầu không khí dễ thở hơn nhiều. Nhìn chung vẫn có quy định về đồng phục và nội quy, nhưng các thấy cô không cứng nhắc bắt học sinh tuân theo. Hôm nay, Anri đã quyết tâm thử buông xõa mái tóc mà cô vẫn luôn buộc túm hai bên. Cô cũng thử sơn lên móng tay chút sơn bóng không màu. Cô còn nâng gấu váy lên cao trên đầu gối. Đó toàn là những việc cô đã muốn làm từ rất lâu rồi. Xõa tóc, sơn bóng móng tay, cuộn váy ngắn lại. Những việc cô rất muốn làm, nhưng lại không biết làm vậy có nên không. Suốt buổi sáng hôm nay, cô cứ để ý ánh mắt của giáo viên, trống ngực đánh thùm thụp rồi lại bất giác cúi gằm mặt. Nhưng không ai nói gì cô cả. Không có lấy một lời nhắc nhở hay giáo huấn nào làm cô thấy hơi hẫng hụt. Trường công lập ở địa phương dễ dãi đến vậy sao? Hay là ngôi trường trung học cơ sở Ashiwara số I này là nơi đặc biệt có tư tưởng phóng khoáng? Khi cô đang mải suy nghĩ chuyện này chuyện kia thì, - Tớ cho cậu mượn dấy chun nhé? Một giọng nói vang lên từ chỗ ngồi kế bên. Đó là một nữ sinh với gương mặt tròn và bầu má láng bóng (dễ làm người ta liên tưởng đến trái táo). Trong lòng bàn tay cô ấy là một chiếc chun màu đen dùng để cột tóc. Ngực áo không đính bảng tên. - A? ơ? Ừm… cậu là… Cô bạn rút chiếc bảng tên bị giấu trong túi áo ngực ra rồi giơ lên trước mặt Anri. Ở đó có viết hai chữ Hán. - Satodate? Cặp mắt đen láy của cô bạn chợt dao động, bờ môi căng mọng hé mở. Nét mặt lộ rõ vẻ ngạc nhiên. - Bất ngờ nha! Sau khi nói vậy, cô ấy lặp lại thêm một lần nữa với giọng rất nhỏ “Bất ngờ thật đấy”. - Chỉ mình Ijima là đọc được họ của tớ ngay lần đấu tiên. Bất ngờ thật, bất ngờ thật nghen. Ijima thông minh ghê. - Không phải đâu… Tớ chuyển trường tới đã được một tuần, cũng nhớ được họ của các bạn thôi ấy mà… - Ôi dào, cậu lại khiêm tốn rồi. Mà vừa rồi là nói dối đúng không? Cô bạn quay mặt về phía Anri nở nụ cười láu lỉnh. - Từ sau hôm Ijima chuyển tới tớ đã nghỉ học suốt mà. Cậu đâu rảnh để nhớ họ của tớ chứ. - Ừm, nhưng mà… cái này… Quả thực là cô đã thốt ra một lời nói dối nho nhỏ. Đến tận ban nãy cô vẫn chẳng hề biết chỗ ngồi bên cạnh mình là của nữ sinh họ Satodate. Tuy biết cô bạn ấy nghỉ học nhưng Anri chẳng hề bận tâm. Cô bạn nhổm hẳn người lên. Từ cô ấy tỏa ra một mùi hương ngọt ngào. Có lẽ là mùi của son môi. - Tớ là Satodate Miho. Chữ Hán của “Miho” gồm có chữ “mi” (mĩ, xinh đẹp) và “ho” trong “inaho” (bông lúa). Bình thường, sau khi giới thiệu bản thân, người ta vẫn hay nói kèm thêm mấy câu chào hỏi xã giao kiều như “Mong sau này được bạn giúp đỡ” hay là “Từ từ làm quen với nhau nhé”, nhưng Miho không hề nói lời nào như vậy. Cô chỉ chìa lòng bàn tay đặt dây chun về phía Anri mà thôi. - Cậu có dùng cái này không? - Hả? - Cậu có thể dùng nó buộc tóc. Chắc thấy nóng lắm hả? - À… Ý cậu là vậy à? - Là vậy đó. Cậu dùng không? - Tớ không cần. Anri lắc đầu. Cô buộc tóc hai bên mãi rồi. Hôm nay là lần đầu tiên cô thả tóc ở nơi được gọi là trường học mà. Kể ra thì cô cũng thấy phần gáy và vai bị tóc phủ lên quả thực rất nóng, nhưng không hề có ý định buộc chúng lại. Sau khi từ chối thẳng thừng, Anri mới nhận ra Miho đã mở lời với cô bởi lòng tốt chứ không phải kiểu lăng xăng nhiều chuyện. Cô bắt đầu bối rối. - Xin lỗi cậu. Tớ để nguyên thế này là được rồi. Miho gật đầu. Cô nắm lấy sợi dây chun và nhét vào túi. Sau đó, cô mở vở và bắt đầu ghi chép gì đó, không có ý định nhìn về phía Anri thêm lần nào nữa. Anri băn khoăn tự hỏi chẳng biết có phải mình đã làm Miho cụt hứng không.   Mình đã chiếu cố bắt chuyện tử tế rồi, thế mà cậu ta lại cự tuyệt. Đồ khó ưa! Cứ thấy chảnh chảnh thế nào ấy nhỉ. Có phải cậu ta nghĩ mình là dân thành phố nên xem thường chúng mình không? Khó ưa quá, khó ưa quá! Đúng là kiểu người không thể mê nổi. Anri cảm giác như nghe thấy tiếng các nữ sinh xì xầm sau lưng. Cô chợt rầu rĩ. Nhưng cũng chẳng sao. Cô thì thầm trong lòng, bàn tay thu thành nắm đấm và đặt trên đầu gối. Vậy cũng được. Dù bị xì xầm sau lưng thế nào, bị ghét bỏ ra sao, bị đối xử tệ cỡ nào, mình vẫn sẽ sống đúng theo cảm xúc của mình. Cô đã quyết định như vậy rồi. Khi việc chuyển trường trở thành hiện thực, cô đã hạ quyết tâm. Mình sẽ sống đúng theo cảm xúc của mình. Không phải vì ai khác, mà sẽ thành thật với chính bản thân. Từ nay về sau mình sẽ làm như thế. Nếu không sẽ bị cuốn trôi, tình cảm của chính mình củng sẽ bị nhấn chìm. Thế cho nên… Miho bỗng ngẩng mặt lên. - Tớ có cả trắng và hồng đấy. - Hả? - Chun buộc tóc ấy. Chắc chả phải do Ijima ghét màu đen đâu nhỉ? Cậu không muốn buộc tóc thôi đúng không? - Ừ, đúng thế. Không liên quan đến màu chun đâu. - Thế thôi vậy. Cậu hợp với tóc dài lắm. Mỉm cười thêm một lần nữa, Miho lại cắm cúi nhìn vào vở. Hoàn toàn không thầy thái độ khó chịu gì hết. Dường như cô chẳng hề bận tâm tới sự cự tuyệt của Anri. Có thể cô cũng chẳng nghĩ là mình vừa bị cự tuyệt. Đối với Miho, chuyện có thể chỉ đơn thuần là “Tóc xõa trông có vẻ nóng → Tính cho mượn chun → Người ta đáp lại là không cần”. Chỉ vậy thôi. Tất cả mọi thứ thật khác với trước kia. Trước đây, bất kể là việc gì cũng đều cần chuẩn bị tinh thần để từ chối, cự tuyệt đề nghị của đối phương. Bởi hành động ấy đi kèm theo nguy cơ phá hủy tận gốc mối quan hệ bạn bè, quan hệ giữa người và người mà ta đã dày công xây dựng cho đến thời điểm đó. Cả Anri lẫn những người xung quanh cô đã phải mài giũa thần kinh thật nhạy bén, sao cho không bước chân vào phạm vi nguy hiểm. Họ phải luôn đề cao cảnh giác. Cảm giác thật nhẹ nhõm. Mọi thứ ở ngôi trường này đều được nới lỏng. Lạch cạch, lạch cạch. Tầm biển “7D” đang đung đưa. Ừm, đúng là lỏng thật. Nếu là trường cũ của mình thì nhất định không có chuyện để nguyên tấm biển của một lớp đã trở thành phòng học trống như vậy. Chắc hẳn người ta sẽ nhanh chóng tháo biển xuống, khóa cửa phòng lại và cấm học sinh ra vào. Rèm chắc chắn cũng sẽ được kéo nghiêm chỉnh, không để lộ một khe hở nào. Quan trọng nhất là, gần đây, vì mức độ ưa chuộng của dân tình dành cho khối cấp hai trực thuộc trường đại học dân lập nổi tiếng mà Anri theo học trước khi chuyển trường đột ngột tăng cao nên chẳng dám nghĩ đến cảnh số lượng học sinh thuyên giảm. Kể cả có mở rộng thì chắc cũng chẳng còn lấy 1 một phòng học trống nào. Anri từng là học sinh lớp 7D của ngôi trường cấp hai đó. Mời các bạn đón đọc Từ Khung Cửa Sổ Lớp 7D - Tập 1 của tác giả Atsuko Asano & Phương Anh (dịch).
Nội Tôi
“Nhiều nhà văn trẻ bắt đầu nghiệp cầm bút bằng một tác phẩm viết về chính mình. Những kỷ niệm thời thơ ấu, mối tình đầu, những ước mơ, khát vọng... Đây là điều bình thường bởi vì tuổi thơ ấu là những năm tháng đẹp nhất và thường đi theo suốt cuộc đời. Nhà văn Bùi Tự Lực đã trải qua những năm tháng tuổi thơ dữ dội, có thể nói, ít người lâm vào những cảnh ngộ éo le như anh. Nhưng cuốn sách đầu tiên của anh, cuốn “Nội tôi”, lại không phải là cuốn sách viết về mình, mà về người bà đã khuất; một người bà ba bốn năm trong một: là bà, là mẹ, là cha, là người dẫn đường, là thần tượng – bà mẹ Việt Nam anh hùng. Cho nên không có gì lạ khi người bà lại là nhân vật chính duy nhất trong suốt một trăm trang sách đầu tay của anh. Cháu yêu thương, kính trọng bà là chuyện bình thường, nhưng nhớ ơn bà, tìm cách đền đáo lại là chuyện khác, còn đền đáp bằng cách viết một cuốn sách về cuộc đời bà thì càng khác nữa, không phải ai cũng làm được. Hẳn Bùi Tự Lực phải xuất thân từ một gia đình có căn cốt tốt đẹp, và việc làm của anh là một việc làm của người có văn hoá... Vâng, Bùi Tự Lực là một nhà văn có căn cốt và có văn hoá. Những người vô ơn không bao giờ là người có văn hoá, dù họ là nhà văn, giáo sư hay là ai đi nữa. Trở lại với hình tượng người bà, Bùi Tự Lực đã kể về rất nhiều chuyện cảm động và đáng khâm phục về người bà anh hùng của mình, ở đây chỉ xin nhắc lại một chuyện nhỏ, rất nhỏ, nhưng có sức ám ảnh không nhỏ. Đó là chuyện làm chông tẩm thuốc độc: “Bà nội vót chông khéo lắm, đủ các loại: chông kép, chông đơn, chông ba lá, có cả loại chông có nganh như cái lưỡi câu, vót đến đâu, bà đem xếp hàng trải phơi nắng đến đó”. “Bà nội để ngay dưới gầm giường một cái ống nhổ, đựng nắm lá rừng đã được vò nát. Bà bảo tôi cứ mối sáng thức dậy, trước khi bước xuống đất, hãy nhổ nước bọt vào đó để bà làm thuốc độc tẩm chông”. Tôi không biết chuyện nước bọt biến thành thuốc độc thực sự thế nào và thứ nước bọt buổi sáng của người cháu có gì đặc biệt, nhưng khi căm thù biến thành lẽ sống, khi người ta đủ bền gan để chờ tre thành gậy “gặp đâu đánh què” chờ nước bọt biến thành thuốc độc để giết giặc thì sự thật đã biến thành huyền thoại. Đây là một chi tiết có thật hoàn toàn nhưng lại có tính biểu tượng rất cao. Hoa chi thơm lạ thơm lùng, Thơm gốc thơm rễ người trồng cũng thơm Vâng, một cuốn sách đáng quý từ chính cuộc đời, tấm lòng người viết cho đến những nhân vật, đặc biệt là người bà.” Trần Đình Nam *** Kính viến hương hồn nội - Bà mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị Đỉnh   MẸ SANG NGANG Đ ời tôi có một thua thiệt lớn trong tình cảnh gia đình, tuổi thơ lớn lên không được sống gần mẹ. Nhưng bù lại, tôi có được sự chăm ẵm và cưng chiều của bà nội từ thuở nhỏ. Đến năm mười hai tuổi, tôi cũng chỉ biết được đại khái rằng, ba tôi bị địch bắt lưu đày, mẹ tôi ở nhà vì một lý do nào đó, nên đi lấy chồng khác ở làng bên khi tôi mới tròn bốn tuổi. Lớn lên, tôi chỉ nhớ lờ mờ về những kỷ niệm tuổi thơ với mẹ. Nghe kể lại, mẹ tôi lúc ấy là một phụ nữ có nhan sắc, quanh năm buôn bán tảo tần. Hằng ngày, mẹ dậy từ mờ sáng, lo nhổ giá sắm sửa gánh xuống chợ Vinh Huy bán, chiều về quảy một gánh gồm mắm, muối, dưa cà...bán dạo quanh xóm. Chắc vì hoàn cảnh như thế, nên lúc nhỏ, trời phú cho tôi là đứa bé dễ nuôi, hay ăn chóng lớn, lúc đói thì giọt sữa bú nhờ, sắn khoai tán nhỏ đều ăn được hết; ai bế cũng theo, bế đi đâu cũng được. Ký ức tuổi thơ của tôi còn nhớ mang máng một ngày cuối năm 1959, mẹ không đi chợ, trong nhà có vài người hàng xóm đến giúp đỡ dọn dẹp, nấu nướng. Tôi đoán chắc là có đám giỗ kỵ gì đó vào ngày mai. Tối hôm ấy, mẹ dẫn tôi sang ngồi nói chuyện với bà nội rất lâu. Mẹ vừa nói vừa khóc. Đêm về, mẹ ôm tôi khóc hoài. Một câu hát ru vô thức đã nhập vào trong tôi ngay từ dạo ấy: “Có cha có mẹ thì hơn, không cha không mẹ như đờn đứt dây.” Sáng hôm sau, bà nội sang đón tôi sớm. Mẹ trao vội cho bà một cái bọc lớn (chắc là áo quần của tôi) và nói trong tiếng nức nở: - Con gửi nó cho mẹ - Mẹ ôm chầm lấy tôi - Từ nay con ở với bà nội - Vừa dứt câu nói, mẹ buông tay chạy vụt vào buồng. Bà nội dắt tôi về nhà, rồi hai bà cháu ra luôn ngoài ao rau muống ở giữa đồng. Được ra ao vừa nghịch vừa tát nước với bà là tôi thích lắm. Khoảng nửa buổi, tôi thấy có đoàn người đi qua, toàn là người quen ở xóm bên, khăn áo chỉnh tề hướng vào ngõ nhà tôi. Thấy tôi mãi nhìn theo, bà nội bảo nhỏ: - Đám cưới của mẹ con đó, mẹ con đi lấy chồng khác, từ nay con ở với bà. Một sự kiện rất quan trọng đối với đời tôi như vậy, nhưng vì còn quá thơ ngây, nên tôi nhận thức mơ hồ và đón nhận một cách vô tư như nghe tin mẹ đi chợ vắng nhà. Mẹ đi lấy chồng ở xóm bên, hay gửi quà bánh về cho tôi. Tôi lần lữa lớn lên bên bà nội, nghe mọi người nói rằng bà nội rất ghét mẹ. Mẹ sợ bà, nên chỉ dám ghé thăm tôi khi bà đi vắng. Tôi nhớ có mấy lần mẹ đang ngồi chơi với tôi, khi thoáng thấy bóng bà ngoài ngõ là mẹ trốn đi cửa sau. Với nhận thức còn non nớt của tuổi thơ, tôi chỉ nghĩ một lẽ rất giản đơn là, tại mẹ bỏ tôi lại cho bà nuôi, để đi theo người khác, nên bà không ưa. Mỗi năm tôi thêm một tuổi. Những ý nghĩ nông cạn của tuổi thơ cứ thế lớn dần lên thành nỗi xót xa như kim châm khi nghĩ cảnh tự dưng mất mẹ; khoảng trống trong lòng sẽ cứ thế nới rộng mãi, nếu không có cái đêm đáng nhớ trước khi tôi thực sự dấn bước vào đời. Đêm cuối cùng trước khi tiễn tôi đi Giao bưu, bà nội căn dặn tôi nhiều điều; trong đó có một chuyện rất hệ trọng. Hôm ấy, tôi mê man trong giọng kể sâu lắng của bà: -Còn một chuyện nầy nữa, con phải ghi nhớ để mà sống cho trọn đạo làm người. Sau nầy lớn lên con sẽ hiểu thêm, phải thương và hiếu thảo với mẹ - Bà im lặng hồi lâu như để lục tìm trong trí nhớ - Vào quảng đầu thu 1954, cái đêm mẹ con chuyển dạ, ba con chỉ dám về đến bìa rừng ngồi chờ đợi, khi nghe con cất tiếng khóc đầu tiên là đi biền biệt luôn, sau đó sa vào tay giặc, bị lưu đày đi khắp các nhà lao, có thời gian bặt tin.  m mưu “Tố Cộng” và “Diệt Cộng” của chính quyền Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ thâm hiểm lắm. Gia đình mình bị bọn chúng liệt vào loại “Gia đình Cộng sản”. Bà và mẹ con ở nhà bị chúng nó hành hạ đủ điều; con còn nhỏ phải bế đi hết trại cải huấn nầy đến trại cải huấn khác- Tôi ngồi lắng nghe như nuốt từng lờ i- Mẹ con lúc ấy còn rất trẻ, mới ngoài tuổi hai mươi, lại đẹp người. Bọn đại diện, ấp trưởng, bí thư Quốc dân đảng... la lết suốt ngày đêm trong nhà, buộc mẹ con phải “ly khai gia đình Cộng sản” để làm vợ lẽ chúng nó. Nếu không chịu “ly khai”, thì chúng nó sẽ tìm cách bóp chết giọt máu ba con để lại. Có một hôm, mới vừa sập tối, tên địa chủ chánh đại diện lẻn vào núp chờ sẵn trong buồng; mẹ vừa bế con từ bên bà về, nó xô đến trấn áp, giành giật; may mà có bà đến giải cứu kịp thời, nếu không thì những gì tồi tệ nhất đã phải đến vào đêm hôm ấy - Bà nội ngừng lời, nhìn tôi chăm chú như vẫn còn ngỡ ngàng; bà thở dài rồi kể tiếp - Nghĩ mà cơ cực cho cái cảnh cứ đêm đêm, bà, bác Cả, bác Năm phải thay nhau thức canh chừng. Tình thế gia đình ta lúc ấy éo le lắm! - Ly khai để giữ lấy sự sống cho mai sau, hay một dạ trung thành để có được chữ kiên trinh, hoặc sống chết một phen oán thù với chúng nó. Mẹ con phải định đoạt và lựa chọn. Để tránh chịu tiếng “ly khai Cộng sản” lấy Việt gian và giữ được con, không còn cách nào khác, bà và các bác đành lòng chấp nhận phải bỏ rơi một con người, để giữ lại truyền thống và dòng giống gia đình Cách mạng. Và mẹ con chỉ còn chọn con đường nhận lời lấy một người ở làng bên, để tránh sự nhòm ngó của bọn chúng - Kể đến đây, giọng bà trầm hẳn xuống - Bà coi như từ bỏ mẹ con, vì không thể chịu tiếng gả bán dâu, còn mọi tiếng thị phi thì mẹ con phải gánh chịu hết một kiếp người. Câu chuyện về mẹ mà bà nội kể đêm hôm ấy, đã giải thoát cho tôi nhiều khuất tất trong lòng bấy lâu. Tôi hiểu rõ hơn bà và mẹ, ơn nghĩa cao vời; càng thấu hiểu lời “Ru con” của ba tôi gửi lại:  “Nín đi đừng khóc con ơi! lắng tai nghe mẹ truyền lời ba ru...Con lớn lên ơn với bà, nghĩa với mẹ muôn đời nhớ ghi, ba nguyền giữ dạ tri tri, thương con nhớ mẹ ba đi một đường, vì nhân dân một tình thương, có gian lao khó nhọc mới có con đường vinh quang.” Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, bà nội tôi không còn nữa! Mẹ tôi đến bây giờ mới ngoài tuổi sáu mươi, nhưng trông bà già hơn trước tuổi rất nhiều. Chắc gì tất cả mọi người đã thông cảm và tha thứ hết cho mẹ tôi. Câu chuyện nầy lưu truyền trong dòng họ và kể suốt các đời con cháu của tôi. Mời các bạn đón đọc Nội Tôi của tác giả Bùi Tự Lực.