Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Vặt Ông Pickwick (Charles Dickens)

Chuyện Vặt Ông Pickwick là một tập hợp gồm nhiều truyện ngắn hài hước. Chuyện Vặt Ông Pickwick không hẳn là một tiểu thuyết nhưng lại có đầy đủ các nhân vật: ông Pickwick tốt bụng và chất phác, người đầy tớ Sam Weller…***

Ông Samuel Pickwick, chủ tịch câu lạc bộ Pickwick của thành phố Luân Đôn, đang ngồi trầm tư trong chiếc ghế bành của mình và mỉm cười. Đối với những ai xa lạ, ông Pickwick không khác gì một con người bình thường, với cái đầu hói và cặp kính tròn, lớn; chỉ những bạn bè ông mới biết được bộ óc phi thường bên trong cái đầu bự của ông, cũng như đôi mắt lúc nào cũng ánh lên vẻ cười cợt và luôn luôn sáng long lanh đằng sau cặp kính to tròn đó.

Hôm ấy ngày Mười hai tháng Năm, năm Một ngàn tám trăm hai mươi bảy - Câu lạc bộ Pickwick tổ chức một cuộc hội thảo vô cùng quan trọng. Cuộc hội thảo này chỉ chú trọng vào một mục đích duy nhất: Câu lạc bộ quyết định thành lập một Ủy ban du lịch, nhiệm vụ của ủy ban là đi thăm thú khắp nơi trong nướcđể ghi lại mọi tất cả mọi sự việc đáng chú ý mà họ được chứng kiến và tham dự, rồi thường xuyên báo cáo những điều ấy cho Câu lạc bộ. Các thành viên trong ủy ban gồm có: chính ông Pickwick và ba người bạn đặc biệt là các ông Tracy Tupman, Augustus Snodgrass và Nathaniel Winkle.

Trong lúc viên thư ký ghi chép quyết định đó, ông Pickwick đảo mắt nhìn khắp mấy ông bạn thân "Hội viên Hội Pickwick" của mình, một cách nói mà các thành viên vẫn hay dùng để tự gọi câu lạc bộ của họ. Ngồi một bên Hội trưởng Pickwick là ông Tupman, một người luôn luôn quan niệm tình yêu là thứ quan trọng nhất trên đời này. Nhân vật lúc nào cũng tôn vinh tình yêu ấy, là một người béo trục béo tròn, béo đến nội mà ông ta không bao giờ cúi xuống nhìn thấy sợi dây đồng hồ quả quít bằng vàng của mình treo lủng lẳng ở cái túi áo khoác ngắn bằng lụa. Ngồi bên kia hội trưởng là ông Snodgrass, có vẻ rất thi sĩ trong cái áo khoác màu xanh và cái khăn quàng cổ màu lông chó; kế tiếp ông này là ông Winkle, có vẻ bề ngoài rất giống một nhà thể thao, bận một cái áo khoác ngắn của những người thợ săn màu xanh rêu, với cái cổ cồn rất hoa lá cành.

Ủy ban mới mẻ này hoàn toàn nghiêm chỉnh chấp hành nhiệm vụ được giao phó cho họ. Trước lúc hội thảo chấm dứt, cả bốn người đã sẵn sàng mọi thứ để bắt đầu cho chuyến đi, sẽ khởi sự ngày hôm sau. Tìm mua: Chuyện Vặt Ông Pickwick TiKi Lazada Shopee

Ngay khi mặt trời vừa thức giấc sánh hôm sau, ông Pickwick thức dậy cùng mặt trời và mở của sổ phòng ngủ của mình ra để nhìn thế giới bên ngoài. Rồi ông nhanh chóng cạo râu, mặc quần áo, uống cà phê sáng và vội vàng tống vài thứ quần áo vào túi xách du lịch. Sau đó với cái túi xách du lịch trên tay và cuốn sổ ghi chép trong túi áo, ông đã có mặt ngoài đường phố; và chẳng mấy chốc, ông đón được một xe ngựa chở khách thuê. Ông Pickwick bước lên, ra lệnh cho người xà ích đưa ông tới lữ quán "Cây Thánh Giá Vàng".

- Con ngựa này già quá rồi phải không, anh bạn? - Ông Pickwick hỏi người xà ích, vừa cọ cọ mũi vào đồng xu Shilling mà ông cầm sẵn để trả tiền cuốc xe.

- Bốn mươi hai tuổi đấy. - Người đánh xe trả lời, liếc nhìn ông khách với đôi mắt ngờ vực.

- Cái gì? - Ông Pickwick ngạc nhiên kêu lên, bàn tay cũng vừa chạm vào cuốn sổ ghi chép.

Người xà ích lặp lại câu nói. Ông Pickwick nhìn chăm chú lên gương mặt anh ta để đánh giá xem anh chàng này nói năng có nghiêm chỉnh không. Rồi ông ghi điều vừa mới nghe thấy vào cuốn sổ của mình.

- Và anh định bắt nó làm việc bao lâu nữa mà chưa chịu cho nó nghỉ ngơi? - Ông Pickwick hỏi tiếp.

- Hai hoặc ba tuần lễ nữa. - Người xà ích đáp.

- Những mấy tuần lễ nữa cơ à! - Giọng ông Pickwick không giấu được ngạc nhiên, trong lúc ông ta ghi thêm một chi tiết mới.

- Nó sống bên kia sông - Người xà ích tiếp tục - nhưng chúng tôi cũng ít khi đưa nó về nhà lắm, chẳng qua vì nó cũng có chỗ yếu.

- Vì nó có chỗ yếu là thế nào? - Ông Pickwick lại hỏi, bây giờ thì ông cảm thấy bối rối thật sự.

- Vâng, nó cứ té lên té xuống mỗi khi người ta tháo nó ra khỏi cái xe - Người xà ích giải thích tiếp - Nhưng một khi đóng vào xe, chúng tôi buộc thật chặt vào hai càng xe, thế là cu cậu hết té. Ngoài ra chúng tôi còn lắp hai bánh xe thật bự, nên mỗi khi con ngựa chạy, hai bánh xe cứ bám sát đít và cu cậu đó dám dừng lại.

Ông Pickwick ghi không sót một chữ những điều người xà ích nói vào cuốn sổ ghi chép của mình, với mục đích sau này ông có thể tường thuật đầy đủ cho Câu lạc bộ về cuộc sống day dẳng và nhọc nhằn của một con ngựa kéo xe là như thế nào. Ông vừa ghi chép xong thì họ cũng vừa tới quán trọ "Cây Thánh Giá Vàng" và ông Pickwick xuống xe. Các ông bạn Tupman, Snodgrass và Winkle bu lại quanh ông hội trưởng, chào mừng rối rít.

- Tiền xe của anh đây. - Ông Pickwick nói và chìa ra đồng Shilling trị giá mười hai xu cho người đánh xe.

Các bạn thử tưởng tượng xem sự ngạc nhiên của ông Pickwick như thế nào, khi người đánh xe, thay vì nhận đồng shilling, lại ném đồng tiền xuống đất và bằng một thứ ngôn ngữ thật thô lỗ, hắn khiêu khích ông khách của mình hãy đánh nhau với hắn để giành lấy đồng xu.

- Anh điên mất rồi. - Ông Snodgrass nói.

- Hoặc anh xỉn. - Ông Winkle thêm.

- Hoặc cả hai thứ đó. - Ông Tupman kết luận.

- Nhào vô! - Người đánh xe quát lớn, vừa nhảy choi choi với vẻ khích động - Nhào vô!... Chấp cả bốn người luôn!

- Có trò nhộn để xem rồi, ê! - Độ nửa tá tên xà ích khác cùng hét lên - Làm cha nó một mách đi, Jim! - Rồi họ bu quanh người bạn đồng nghiệp, reo hò inh ỏi.

- Có chuyện rắc rối gì vậy, Jim? - Một người trong đám này hỏi.

- Rắc rối à? - Jim vặn hỏi lại - Tại sao lão ta lại ghi số xe của tôi chứ?

- Tôi có ghi số xe số xiếc gì của anh đâu? - Ông Pickwick nói với giọng giận dữ.

- Chẳng những lão đã ghi số xe của tôi - Người đánh xe nói tiếp, mặt quay về phía đám đông, chẳng cần đếm xỉa gì tới ông Pickwick - mà lão còn ghi ghi chép chép lia lịa không sót một chữ những gì tôi nói nữa!

Sau cùng, cho tới lúc này thì ông Pickwick cũng hiểu rõ đầu đuôi, nhưng đã quá trễ để tìm lời phân trần.

- Tôi phải trừng trị lão mới được - Người đánh xe lại quát - Tôi phải trừng trị lão ta, dù cho tôi phải đi tù sáu tháng vì chuyện này. Nào, nhào vô!

Vừa nói anh ta vừa giật cái nón trên đầu rồi ném xuống đất, đấm một quả đích đáng vào mũi ông Pickwick là văng mất cặp mắt kính. Quả đám thứ hai tống thẳng vào ngực ông hội trưởng, quả thứ ba bay tuốt tới cặp mắt ông Snodgrass, quả thứ tư làm văng cái áo khoác ngắn của ông Tupman, quả thứ năm làm ông Winkle hoàn toàn nín thở. Tất cả những hành động đó chỉ mất đúng mười hai giây. Rồi mọi người bắt đầu tranh nhau nói ỏm tỏi.

- Có ông cảnh sát nào gần đây không? - Ông Snodgrass hỏi.

- Đem nhét bọn chúng xuống dưới cái máy bơm nước. - Gã bán bánh nướng đề nghị.

- Rồi các người sẽ khốn khổ vì chuyện này! - Ông Pickwich hăm dọa.

- Chỉ nói phét! - Đám đông hét rần rần.

- Nhào vô nữa đi! - Người đánh xe lại quát, có vẻ anh ta còn khoái đánh nhau.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Charles Dickens":Bài Ca Mừng Giáng SinhChuyện Vặt Ông PickwickHai Kinh ThànhNhững Kỳ Vọng Lớn Lao

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chuyện Vặt Ông Pickwick PDF của tác giả Charles Dickens nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Ghi Đơ Môpatxăng (Isaac Babel)
Isaac Babel (1894 - 1941) được đánh giá là nhà văn Do Thái đầu tiên bước vào văn đàn Nga với tư cách là một tác giả văn xuôi Nga. “Babel đã trải qua thời thơ ấu và thời thanh niên ở Odessa, chịu đựng cảnh đau khổ trong ghetto (khu vực cư trú dành riêng cho người Do Thái). Babel học giỏi, từ nhỏ cho đến khi 16 tuổi ông đã học tiếng Do Thái, tiếng Pháp, Kinh Thánh, Kinh Talmut. Babel đến với văn chương từ rất sớm. 15 tuổi ông đã viết những truyện ngắn đầu tiên bằng tiếng Pháp. Giống Gogol, 1915 ông đến Peterburg ôm ấp mộng văn chương. 1916 đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời Babel khi nhà văn gặp được Gorky. Gorky đồng ý in truyện ngắn của Babel. Nhà văn lão thành khuyên Babel đi thực tế để có vốn sống và viết. Thế là từ một chàng công tử Do Thái Babel đã trở thành một người lính của Quân đoàn Kỵ binh số Một, tham gia vào các công tác cách mạng (làm việc trong các ủy ban quân sự cách mạng, làm phóng viên, làm ở nhà in…).Tập đoàn quân Kỵ binh ra đời năm 1926 - là tập hợp những truyện ngắn Babel viết về cuộc sống, chiến đấu của Quân đoàn Kỵ binh số Một trên mặt trận truy quét quân Ba Lan và Bạch vệ thời kỳ những năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Ngay từ khi mới ra đời tác phẩm đã tạo ra hai luồng dư luận trái chiều: một ủng hộ Babel, ca ngợi Tập đoàn quân Kỵ binh; còn một phê phán, lên án kịch liệt tác phẩm này, thậm chí còn buộc tội tác giả của nó. Tương phản trở thành một thủ pháp được sử dụng hữu hiệu trong các tác phẩm của Babel, nhất là Tập đoàn quân Kỵ binh nhằm tạo ra muôn vàn khuôn mặt cách mạng, chiến tranh và những suy ngẫm về sự sống, cái chết…Trong 25 năm cầm bút Babel để lại không nhiều tác phẩm: hai vở kịch (Hoàng hôn, Maria), ba tập truyện ngắn (Tập đoàn quân Kỵ binh, Truyện ngắn Odessa, Truyện ngắn); nhưng những tác phẩm của ông đều được đánh giá rất cao, đặc biệt là truyện ngắn. Nhưng 13 năm sau thời điểm Tập đoàn quân Kỵ binh ra đời (1939) Babel cùng nhiều nhà văn khác bị bắt một cách bí mật, bị ép buộc phải nhận những tội danh vô lí trong đó có tội “phản bội Tổ quốc”. Ông bị đưa ra xét xử trước tòa án quân sự vào ngày 26/ 1/ 1940 và bị hành quyết ngày 17/ 3/ 1941, khi ông 47 tuổi. Suốt 15 năm sau đó, tên ông bị xoá hẳn trong sách vở văn chương của Liên Xô. Từ năm 1954, các tác phẩm của ông mới được công nhận.Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt- Babel I.E: Tuyển tập (Nguyễn Thụy Ứng dịch từ tiếng Nga, I. Erenburg và Nguyễn Thụy Ứng giới thiệu). Nxb. Văn hóa thông tin, H, 2000.*** Tìm mua: Ghi Đơ Môpatxăng TiKi Lazada Shopee Mùa đông năm mười sáu tôi nương náu ở Petecburg với tấm căn cước giả và không một xu dính túi. Người cho tôi ở nhờ là một anh giáo dạy văn học Nga tên là Alecxây Kazansev.Anh sống ở Peski, một khu phố lạnh lẽo, vàng xỉn, hôi hám. Anh kiếm tiền để phụ vào số tiền lương còm bằng cách dịch tiếng Tây Ban Nha; thời ấy Blasko Ibanes đang nổi như cồn.Kazansev chưa từng đặt chân đến Tây Ban Nha, dù chỉ là đi ngang qua, nhưng tình yêu xứ ấy xâm chiếm toàn bộ con người anh. Anh biết hết mọi lâu đài, công viên, sông ngòi ở Tây Ban Nha. Ngoài tôi ra, chỗ Kazansev còn cả một lô nhưng kẻ bị bật ra khỏi cuộc sống ngay lành. Chúng tôi sống rất đói rách. Thảng hoặc, mấy tờ báo lá cải mới dành vài dòng chữ nhỏ đăng những mẩu tin vặt của chúng tôi.Sáng sáng tôi la cà ở những khu nhà xác và đồn cảnh sát.Người hạnh phúc hơn trong bọn vẫn là Kazansev. Anh còn có Tây Ban Nha là Tổ quốc.Tháng mười một, tôi được giới thiệu một chân thư lại ở nhà máy Ôbukhôv, một chỗ làm không đến nỗi tồi tránh cho tôi khỏi phải vào lính.Tôi đã từ chối không làm một gã thầy ký.Ngay từ lúc ấy - mới hai chục tuổi đầu - tôi đã tự nhủ: thà đói khát, tù đày, lang bạt còn hơn ngồi lỳ ở phòng giấy suốt mười giờ đồng hồ mỗi ngày. Chẳng phải có gì táo tợn lắm trong lời nguyền ấy, nhưng tôi đã và sẽ không đời nào vi phạm nó. Tôi vẫn giữ được cái phong tục của ông cha: Chúng ta sinh ra trên đời là để tận hưởng thú vui làm lụng, đánh nhau, yêu đương, chúng ta sinh ra là cho những việc ấy chứ không phải vì cái gì khác.Nghe tôi lý sự, Kazansev cứ xoắn mãi cái chỏm tóc vàng hoe ngắn ngủn trên đầu. Nỗi sợ hãi trong ánh mắt anh pha lẫn vẻ thích thú.Đến hôm lễ Giáng sinh thì chúng tôi gặp may. Luật sư Benderski, chủ sở hữu nhà xuất bản “Ansiona” có ý định xuất bản một tác phẩm mới của Môpatxăng. Việc dịch do Raisa, vợ ông, đảm nhiệm. Cái trò chơi quý tộc chẳng đi đến đâu.Người ta hỏi Kazansev, người dịch tiếng Tây Ban Nha xem anh có biết ai giúp việc được cho Raisa không. Kazansev ra lệnh cho tôi.Hôm sau, khoác một cái áo vét đi mượn, tôi đến nhà Benderski. Họ sống ở góc đường Nevski và Môika, trong một ngôi nhà xây bằng đá hoa cương Phần Lan, bên ngoài có ốp những hàng cột giả màu hồng, lỗ châu mai và gia huy chạm đá. Những tay chủ nhà băng mất gốc, mới cải đạo và phất lên nhờ nghề chạy hàng đã cho xây lên ở Pêterburg trước ngày có chiến tranh hàng lô thứ lâu đài chướng mắt, ngạo nghễ đến lố bịch ấy.Cầu thang trải một tấm thảm đỏ. Ở chiếu nghỉ cầu thang có đặt những con gấu nhung đứng chồm hai chân lên.Trong những cái mõm há hốc của chúng các núm thủy tinh lóe sáng.Vợ chồng nhà Benderski sống trên tầng ba. Ra mở cửa là một cô hầu gái đội mũ mào, ngực cao. Cô ta đưa tôi vào gian tiếp khách bày biện theo lối Slavơ cổ. Trên tường treo những bức tranh gam xanh lơ của Rerikhơ - những tảng đá và quái vật thời tiền sử. Khắp các góc nhà - đặt trên bệ, bày la liệt các tượng thánh kiểu cổ. Cô hầu gái có bộ ngực cao diễu khắp phòng một cách trịnh trọng. Cô ta người cân đối, mắt cận thị, vẻ kiêu kỳ. Trong cặp mắt xám mở to của cô lộ rõ vẻ phóng đáng trơ trẽn. Cô đi lại chậm chạp. Tôi thoáng nghĩ rằng khi yêu chắc hẳn cô ả vần vũ cuồng nhiệt và sành sỏi lắm. Tấm rèm gấm treo nơi cửa ra vào chợt lay động. Bước vào phòng, mang một bộ ngực đồ sộ là một phụ nữ tóc đen có cặp mắt màu hồng. Chẳng cần nhiều thời gian cũng nhận ra là bà Benderski là thuộc loại phụ nữ Do Thái làm cho người ta say mê, đến đây từ Kiev và Pôntava, từ những miền thảo nguyên, những thành phố sung túc trồng đầy dẻ và keo. Tiền của do các đức ông chồng khéo xoay xở được những người đàn bà này chuyển hóa thành lớp mỡ hồng hào nơi bụng, gáy, trên đôi vai tròn lẳn. Cái khóe cười mỉm ngái ngủ, mướt mịn của họ khiến các chàng sĩ quan đồn trú mê mẩn như bị hớp hồn.- Môpatxăng là niềm say mê duy nhất của đời tôi, - Raisa nói với tôi.Cố giữ cho cặp đùi đồ sộ đừng đong đưa quá, chị ta ra khỏi phòng rồi trở lại với bản dịch “Cô Garriet”. Trong bản dịch ấy của chị ta không còn để lại chút dấu vết nào câu chữ của Môpatxăng, cái giọng văn khoáng đạt, mượt mà, nghe như có tiếng thở dài say đắm. Những câu văn của bà Benderski đúng văn phạm đến mức khó chịu, tẻ ngắt và thô kệch - hệt lối viết tiếng Nga ngày trước của dân Do Thái.Tôi đem tập bản thảo về nhà và trong gian gác áp mái của Kazansev - giữa đám người đang ngủ say - suốt đêm cặm cụi gọt đẽo bản dịch của người. Kể ra thì công việc ấy cũng không đến nỗi buồn tẻ như tôi nghĩ. Câu cú được sửa sang vừa hay lại vừa dở cùng một lúc. Bí quyết là ở sự xoay chuyển khó nhận thấy được. Cây đòn bẩy phải ở trong tay và ấm nóng lên. Và chỉ được xoay tay đòn một lần, chứ chớ đến hai.Sáng ra, tôi đem đến bản thảo đã sửa xong. Raisa đã thật lòng khi nói chị mê Môpatxăng. Chị ngồi bất động suốt thời gian đọc lại bản dịch, tay đan chéo vào nhau: hai cánh tay mịn màng buông thõng, vầng trán trắng nhợt, viền đăng ten giữa hai bầu vú bị dồn ép xô lệch đi, hết dâng lên lại hạ xuống.- Anh đã làm cách nào vậy?Lúc ấy tôi đã nói về văn phong, về đội quân từ ngữ, đội quân mà trong đó sử dụng đủ loại khí giới. Không có thứ sắt thép nào có sức làm tê buốt trái tim người ta bằng một dấu chấm câu đặt đúng chỗ. Chị ta lắng nghe, đầu cúi, đôi môi thoa son hé mở. Một ánh đen sáng lên trên mái tóc chải dầu bóng và để ngôi. Đôi bắp chân mang tất ôm khít, khỏe và thon duỗi trên tấm thảm trải sàn.Cô hầu gái đưa cặp mắt dâm đãng trơ trẽn nhìn sang phía khác, bưng mâm dọn bữa sáng lên.Ánh nắng Peterburg lấp lánh rọi xuống tấm thảm trải sàn mấp mô bột màu. Hai mươi chín tập sách của Môpatxăng xếp chật cái giá nhỏ phía trên bàn viết. Tia nắng lung linh nhảy nhót vuốt ve những gáy sách bọc da, nấm mộ tuyệt vời của một trái tim người.Cà phê sáng đem lên cho chúng tôi đựng trong những cái tách màu xanh lơ, và chúng tôi bắt đầu dịch “Idillia” (“Khúc đồng dao”). Ai mà chẳng nhớ truyện ngắn kể về anh chàng thợ mộc bú bầu sữa đang căng tức của cô nhũ mẫu đẫy đà. Chuyện ấy xảy ra trên một chuyến tàu chạy từ Nisơ đến Macxây, vào một buổi trưa oi ả, ở xứ hoa hồng, quê hương của hoa hồng, nơi mà những cánh đồng trồng hoa tràn xuống tận mép biển…Tôi ra khỏi nhà Benderski với hai mươi lăm rúp tạm ứng trước. Cái hội của chúng tôi ở Peski tối ấy say ngất ngư chẳng khác gì đàn ngỗng no căng nước. Chúng tôi đã dùng thìa mà xúc món trứng cá tầm và nhắm nó với món giò lòng. Khi đã chếnh choáng, tôi quay ra bỉ nhạo Tônstôi:- Cụ hãi rồi, cái cụ bá tước của các anh ấy, cụ nhát cáy… Tôn giáo của cụ là sợ hãi… Hãi đói, hãi già, thế nên ngài bá tước bèn may cho mình một cái áo bằng đức tin…- Rồi sao nữa? Lắc lắc cái đầu chim, Kazansev hỏi tôi.Chúng tôi lịm luôn bên chân giường. Tôi mơ thấy Katia, chị thợ giặt đã bốn chục tuổi, sống ở dưới nhà. Sáng sáng chúng tôi thường xuống chỗ chị ta xin nước sôi. Ngay đến mặt chị ta tôi cũng còn chưa kịp nhìn cho kỹ, ấy thế mà trong mơ có trời biết tôi và Katia đã làm những trò gì. Chúng tôi đã quần nhau hôn hít đến mệt nhoài. Sáng hôm sau, không cầm lòng được, tôi đã ghé xuống chỗ chị ta xin nước sôi.Đón tôi là một người đàn bà dáng ủ ê, vai vắt khăn choàng, mớ tóc xám màu tro rối tung và đôi tay sưng mọng vì dầm nước.Kể từ hôm ấy, sáng nào tôi cũng ăn ở đằng nhà Benderski. Trong căn gác áp mái của bọn tôi có thêm được một cái bếp lò mới, cá trích hộp, sô-cô-la. Hai lần Raisa còn đưa tôi ra đảo chơi. Không đừng được, tôi đã kể cho chị ta nghe về thời thơ ấu của mình. Câu chuyện kể nghe thảm đạm đến chính tôi cũng phải ngạc nhiên. Từ dưới viền mũ bằng lông điêu thử, đôi mắt sợ hãi long lanh nhìn tôi. Hàng mi hung khẽ chớp đượm vẻ thương xót.Tôi đã làm quen với chồng Raisa - một tay Do Thái mặt bủng, đầu hói trụi và người dẹt lét, nhìn nghiêng cứ như chực dướn lên bay. Nghe đâu ông ta là chỗ thân cận với Rasputin. Những khoản lợi tức ông ta thu được nhờ chạy hàng quân nhu khiến ông ta có vẻ như một kẻ bị ma ám. Mắt ông ta lơ láo, với ông, tấm màn che thực tại đã rách nát rồi. Raisa thường ngại ngùng khi phải giới thiệu với chồng những người quen mới của mình. Vì còn non nớt nên hàng tuần sau tôi mới nhận ra điều đó.Sau Tết, nhà Raisa có hai người em gái từ Kiev lên chơi. Đâu như tôi có mang tới tập bản thảo truyện “Lời thú nhận” và vì không gặp Raisa nên đến tối mới trở lại. Mọi người đang dùng bữa trong phòng ăn. Từ phía ấy vọng ra tiếng cười lanh lảnh như ngựa hý của đàn bà, và tiếng ồm ồm của đàn ông đang cơn hứng. Ở những nhà giàu không có nền nếp, người ta ăn uống rất ồn ào. Thứ tiếng ồn rất Do Thái, rộ lên từng đợt và về cuối trở nên du dương. Rai sa ra đón tôi trong bộ váy áo dạ hội hở lưng. Chân đi giày láng bóng, bước vụng về.- Tôi say rồi, chú bồ câu ạ - Rồi chị chìa cho tôi đôi tay đeo đầy những chuỗi bạch kim và những ngôi sao hồng ngọc.Tấm thân chị đong đưa, dướn cao như con rắn ngóc lên theo tiếng nhạc. Chị ta lắc lắc cái đầu uốn quăn làm cho mớ vòng khuyên kêu lanh canh, rồi bất thần ngã vật ra chiếc ghế bành trạm trổ kiểu Nga cổ. Trên khoảng lưng trần xoa phấn của chị hằn rõ những vết tím bầm.Phía sau tường lại vang lên tiếng phụ nữ cười. Hai cô em có ria mép từ phòng ăn đi ra, cũng vú to, người phổng phao y hệt Raisa. Ngực các cô ưỡn ra, tóc đen xõa tung. Cả hai đều lấy chồng người trong họ Benderski của mình. Căn phòng tràn ngập tiếng phụ nữ cười đùa, lối đùa cợt của những người đàn bà đã trưởng thành. Hai ông chồng ủ ấm cho các cô bằng áo bành-tô da hải sư, khăn choàng Ôđenbuốc, đi cho họ giày da cao cổ; sau lớp lông tuyết xù lên của vành khăn chỉ còn thấy đôi má đỏ lựng, chỏm mũi trắng như sứ và ánh mắt cận thị của dân Seemit. Đùa chán, họ đi đến nhà hát hôm ấy đang diễn vở “Judith” với Saliapin sắm vai chính.- Tôi muốn làm việc, - Raisa thì thầm, dang hai cánh tay trần, chúng ta đã bỏ phí mất cả tuần nay rồi…Nàng sang phòng ăn lấy một cái chai và hai cốc lớn. Bộ ngực không mang nịt núng nính qua lần áo, hai núm vú hằn rõ qua nền lớp lụa mềm.- Thứ quí, - Raisa vừa nói vừa rót rượu ra, - loại nho xạ năm 83 đấy nhé, chồng tôi mà biết thì ông ấy giết tôi…Tôi chẳng có việc gì với thứ nhục đậu khấu năm 83, và cũng không hề có ý định nốc cạn ba vại liền. Chúng lập tức lôi tuột tôi đến những hẻm phố chập chờn những đốm lửa màu da cam và vẳng nghe có tiếng nhạc.- Tôi say rồi, chú bồ câu ạ… Hôm nay ta làm gì đây?Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ghi Đơ Môpatxăng PDF của tác giả Isaac Babel nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ghét, Thân, Thương, Yêu, Cưới (Alice Munro)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ghét, Thân, Thương, Yêu, Cưới PDF của tác giả Alice Munro nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ghềnh V (Nam Dao)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ghềnh V PDF của tác giả Nam Dao nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Gatsby Vĩ Đại (F Scott Fitzgerald)
Gatsby vĩ đại (nguyên tác: The Great Gatsby) là một kiệt tác của nhà văn F. Scott Fitzgerald người Mỹ, được xuất bản lần đầu vào 10 tháng 4, 1925. Tác phẩm được đặt trong bối cảnh của vùng Long Island ở Mỹ trong mùa hè năm 1922. Tiểu thuyết này viết về thời kỳ sống của chính tác giả. Sau cú sốc và hỗn loạn của Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nước Mỹ bước vào thời kỳ thịnh vượng chưa từng thấy trong những năm 1920 do sự cất cánh của nền kinh tế. Cũng trong thời gian này, Luật cấm buôn bán và sản xuất rượu được ban hành, làm tăng lên các tội phạm có tổ chức. Mặc dù Fitzgerald, giống như Nick Carraway trong tác phẩm của mình, tôn sùng sự giầu có, nhưng ông không thấy thoải mái với xã hội coi trọng vật chất quá mức và đạo đức lại không đi cùng với nó. Gatsby vĩ đại không được ngưỡng mộ trong lần xuất bản đầu tiên, chỉ bán được ít hơn 25.000 cuốn trong suốt 15 năm khi Fitzgerald còn sống. Mặc dù nó đã được chỉnh sửa thành kịch và đưa lên phim ảnh của Hollywood trong năm 1925, nhưng nó hầu như bị lãng quên trong thời kỳ Đại suy thoái và Chiến tranh thế giới lần II. Sau đó, tác phẩm được xuất bản lại vào năm 1945 và năm 1953, lần này tác phẩm nhanh chóng có được số lượng độc giả rộng rãi. Hiện nay nó được coi là cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất của người Mỹ. Là bức chân dung của “Thời đại Jazz” (Jazz Age, cái tên do chính Fitzgerald đặt cho thời kỳ 1918 - 1929), đại gia Gatsby nắm bắt vô cùng sâu sắc tinh thần của thế hệ cùng thời ông: những ám ảnh thường trực về thành đạt, tiền bạc, sang trọng, dư dật, hào nhoáng; song đồng thời là nỗi âu lo trước thói sùng bái vật chất vô độ và sự thiếu vắng đạo đức đang ngày một lên ngôi. Phất lên nhanh chóng từ chỗ “hàn vi”, Gatsby, nhân vật chính của câu chuyện, những tưởng sẽ có tất cả - tiền bạc, quyền lực, và sau rốt là tình yêu -, nhưng rồi ảo tưởng tình yêu đó tan vỡ thật đau đớn, theo sau là cái chết tức tưởi của Gatsby, để cuối cùng lập tức bị người đời quên lãng. Là lời cảnh tỉnh để đời của Scott Fitzgerald về cái gọi là “Giấc mơ Mỹ”, Đại gia Gatsby được ví như một tượng đài văn học, một cánh cửa cần mở ra cho những ai quan tâm tới văn học và lịch sử tinh thần nước Mỹ thời hiện đai. Năm 2007, trong một cuộc bầu chọn 10 tác phẩm vĩ đại nhất của mọi thời đại do tạp chí Time tổ chức khảo sát lấy ý kiến của 125 nhà văn nổi tiếng đương thời, gồm các tên tuổi lớn như Franzen, Mailer, Wallace, Wolfe, Chabon, Lethem, King, Gastby vĩ đại được chọn vào top 10 kiệt tác văn chương vĩ đại nhất mọi thời đại. Kiệt tác này cũng được đưa vào giảng dạy trong chương trình trung học phổ thông và các khóa giảng về Văn học Mỹ tại các trường đại học ở nhiều nước trên thế giới. Tìm mua: Gatsby Vĩ Đại TiKi Lazada Shopee Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Gatsby Vĩ Đại PDF của tác giả F Scott Fitzgerald nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.