Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Điểm Đạo Trong Nhân Loại Và Thái Dương Hệ (Trân Châu)

ĐỊNH NGHĨA ĐIỂM ĐẠO - INITIATION DEFINED

Đây là chương thứ hai trong quyển Điểm đạo trong Nhân

Loại và Thái dương hệ, trong đó Đức DK viết về những khái niệm tổng quát của Điểm đạo. Ngài cũng đính chính một số điểm sai lầm thường gặp trong đề tài này. Sau đây là các điểm mà bạn cần lưu ý khi đọc:

1.Ngài định nghĩa các từ cơ bản trong sách của Ngài: điểm đạo, minh triết, kiến thức, sự thông hiểu.

2.Trong khi giải thích về điểm đạo, Ngài cũng đồng thời giải rõ các từ Phòng Vô Minh (Hall of Ignorance), Phòng Học Tập (Hall of Learning), và Phòng Minh Triết (Hall of Wisdom) mà bà Blavatsky đã dùng trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh của mình. Tìm mua: Điểm Đạo Trong Nhân Loại Và Thái Dương Hệ TiKi Lazada Shopee

Trước khi được Đức DK giải rõ trong quyển sách này (và trong quyển A Treatise on Cosmic Fire), ít ai trong hội Thông Thiên Học hiểu được chính xác những từ này khi đọc quyển sách của bà Blavatsky. Cũng xin nói thêm là quyển Tiếng Nói Vô Thinh cũng chính là tác phẩm của đức DK trong một kiếp trước của Ngài (khi Ngài là nhà sư Arya Asanga—Vô Trước của Phật Giáo). Các bạn thấy giáo lý của Thánh đoàn có sự phổ biến tuần tự nối tiếp nhau, theo kế hoạch, không có gì là ngẫu nhiên và tình cờ.

3.Trong phần nói về các khía cạnh của việc điểm đạo, Đức DK nói một cách bóng bẩy và ẩn dụ, ta cần suy gẫm và tìm hiểu thêm để có thể hiểu hết những gì Ngài nói.

4.Về phương diện nghi lễ của việc điểm đạo, Ngài nói qua nơi chốn hành lễ điểm đạo và đính chính những sai lầm mà người học đạo thường mắc phải. Ví dụ Ngài nói rằng lễ điểm đạo diễn ra trên ba phân cảnh cao của cõi trí, và trên ba cảnh giới cao hơn nữa, tùy theo mỗi cuộc điểm đạo. Ông C.W. Leadbeater có mắc sai lầm này, và trong quyển Chân sư và Thánh đạo, Ông cho rằng lễ điểm đạo diễn ra trên cõi trung giới. Ngài giải thích điều này như sau:

Người ta đã nói rằng hai cuộc điểm đạo đầu tiên xảy ra trên cảnh giới cảm dục nhưng điều này không đúng, và lời tuyên bố này đã gây ngộ nhận. Hai cuộc điểm đạo này được cảm nhận sâu đậm đối với các thể: cảm dục, thể xác và hạ trí, và ảnh hưởng đến sự chủ trị các thể này. Vì rằng hiệu quả chính yếu được cảm thấy trong các thể này, và vì lực sinh động của nó cũng như sức kích thích của hai cuộc điểm đạo đầu tiên được biểu lộ nhiều nhất là trong thể cảm dục, nên điểm đạo đồ có thể tưởng rằng chúng diễn ra trên các cảnh giới tương ứng. Nhưng chúng ta cần phải luôn luôn nhớ rằng các cuộc điểm đạo chính yếu đều được tiếp nhận trong thể nguyên nhân hoặc—tách rời khỏi thể này—trên cảnh giới bồ-đề hay niết-bàn.

Như vậy chính Chân Nhân chứ không phải phàm ngã được điểm đạo. Do đó, khi đã được điểm đạo trong một kiếp nào đó rồi thì những kiếp sau con người vẫn là một điểm đạo đồ của cấp bậc đó, tuy rằng y có thể không nhớ lại việc điểm đạo trong các kiếp trước.

5.Đức DK có nhắc đến các cuộc điểm đạo Vũ trụ (Cosmic Initiation) mà Ngài có triển khai sau này trong các quyển sách tiếp theo. Các bạn sẽ gặp lại Cosmic Initiation khi học về các Hành Tinh Thượng đế trong Cosmic Fire.

Bài viết nêu những khái niệm căn bản về Điểm đạo, tuy không phải là dễ hiểu lắm. Tuy nhiên, các bạn chỉ cần hiểu những khái niệm căn bản trước, những điều tế vi, thâm sâu sẽ được hiểu rõ sau khi ta đi sâu vào giáo lý của Đức DK.

Các bạn cũng lưu ý, dịch giả Trân Châu dùng từ ĐĐCG là viết tắt của Đại Đoàn Chưởng Giáo để dịch chữ Hierarchy,

Huyền Giai, Thánh Đoàn. Các dịch giả Thông Thiên Học trước đây dịch là Quần Tiên Hội.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Điểm Đạo Trong Nhân Loại Và Thái Dương Hệ PDF của tác giả Trân Châu nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

PDF Lịch sử giáo hội Công giáo
Hầu hết những gì xảy ra trong Kitô Giáo ở thế kỷ thứ nhất thì quen thuộc với chúng ta, nhờ kinh thánh Tân Ước. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, chúng ta biết công cuộc truyền giáo đã nới rộng giáo hội của Ðức Giêsu Kitô từ nguyên thủy ở Giêrusalem, gồm những người Do Thái tòng giáo theo Ðức Kitô, đến những người Dân Ngoại ở nhiều nơi trong Ðế Quốc La Mã và cho đến tận Rôma. Sự bình an tương đối trong thế kỷ này, cũng như hệ thống đường bộ và đường thủy của người La Mã, đã giúp Kitô Giáo có thể phát triển nhanh chóng. Nền văn hóa chung và một ngôn ngữ chung cũng giúp cho sự bành trướng. Tuy nhiên, động lực chính của sự phát triển Kitô Giáo là Chúa Thánh Thần, Ðấng đã làm nên các tông đồ vĩ đại như Thánh Phaolô và các vị tử đạo như Stêphanô, là vị tử đạo đầu tiên.Khi Phúc Âm được loan truyền cho đến tận cùng trái đất bởi những nhà thừa sai Công Giáo vào nửa đầu thế kỷ mười bảy, Âu Châu đã đắm chìm trong các cuộc chiến tôn giáo cay đắng giữa người Công Giáo và Tin Lành và giữa các quốc gia theo Tin Lành. Cuộc chiến sau cùng xảy ra ở nước Ðức. Cuộc chiến Ba Mươi Năm (1618-1648) được chấm dứt bằng Thỏa Ước Westphalia (1648), nó đã đem lại cho người Công Giáo, Luther và Calvin ở Ðức sự bình đẳng trước pháp luật. Trên thực tế, mỗi quốc gia hay mỗi vùng trong nước đều có một Giáo hội Kitô giáo riêng và tín đồ của các giáo phái khác sống tại lãnh thổ đó thường bị bách hại trực tiếp hay gián tiếp. Tuy nhiên, trong mỗi vùng của Giáo Hội phân ly, vẫn có nhiều nơi mà Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô bừng cháy một cách chói lọi. Chắc chắn rằng Giáo Hội Công Giáo vẫn mong tìm ra cách củng cố đời sống Công Giáo ở Âu Châu, cũng như để lan tràn đức tin Công Giáo trên toàn thế giới. Cho đến nay, Giáo Hội Công Giáo đã vượt qua được những thử thách lớn lao và tồn tại với một sinh lực được đổi mới.
Những lời dạy từ các Thiền sư Việt Nam xưa
Sách này để kính dâng 3 vị Thầy Thích Tịch Chiếu, Thích Thiền Tâm, và Thích Tài Quang; dâng cha mẹ vô lượng kiếp; hồi hướng tới một vị cư sĩ đang xin Đức Quan Âm cứu giúp, và vô lượng chúng sanh.Người biên soạn mang ơn chư vị tiền bối đã dịch cổ văn sang ngôn ngữ Việt hiện đại, đặc biệt mang ơn các Thiền sư Thích Thanh Từ, Trí Siêu Lê Mạnh Thát và sử gia Trần Đình Sơn đã in các sách mà tác phẩm này đã dựa vào để tham khảo.Cư Sĩ Nguyên Giác
PDF Đồ giải - Đại thủ ấn (Triết lý nhân sinh quan trong phật giáo, tâm pháp tối cao Mật Tông)
Đại thủ ấn là một trong những giáo pháp tối thượng của Kim cương thừa, được truyền dạy trong tông phái Ca Nhĩ Cư của Tây Tạng.Cuốn sách cung cấp những tinh tuý Tạng truyền Phật giáo Yết cử, mọi người đều có thể đọc và suy ngẫm. Lưu truyền 70 năm trên thế giới, được coi là Phật pháp hệ thống, khoa học, hiện đại.Sách chứa 300 hình đồ giải thích dễ hiểu về Mật pháp, sự sống và thân trung ấm, phương pháp tu hành – con đường đến giải thoát. 
PDF Chuyển họa thành phúc
Tập sách này được soạn dịch từ hai bản văn khuyến thiện bằng chữ Hán được lưu hành rộng rãi nhất. Nội dung tuy không có gì quá sâu xa khó hiểu, nhưng quả thật là những điều nhận thức vô cùng thiết thực và lợi lạc trong cuộc sống, có thể giúp người ta thay đổi cả cuộc đời, hay nói theo cách của người xưa là “chuyển đổi số mạng”.Bản văn thứ nhất là “Liễu Phàm tứ huấn” hay Bốn điều khuyên dạy của tiên sinh Viên Liễu Phàm, do ông viết ra để kể lại câu chuyện của chính cuộc đời mình cho con cháu, đồng thời cũng thông qua đó nêu rõ tính xác thực của lý nhân quả, khuyên người phải biết sợ sệt tránh xa những việc xấu ác và nỗ lực làm thiện. Bản văn thứ hai là “Du Tịnh Ý công ngộ Táo thần ký” hay Chuyện Du Tịnh Ý gặp thần Bếp, do ông Du Tịnh Ý kể lại cuộc đời nhiều sóng gió của mình cùng cuộc hội ngộ ly kỳ với một nhân vật mà ông tin chắc là thần Bếp, qua đó đã giúp ông nhìn lại được nội tâm của chính mình để nhận ra và phân biệt được những điều thiện ác thật rõ rệt, nhờ đó đã có thể hạ quyết tâm “tránh ác làm thiện”, và cuối cùng đạt kết quả là chấm dứt được những chuỗi ngày tai họa liên tục giáng xuống gia đình ông, để có thể sống một cách an vui hạnh phúc cho đến tuổi già. Nói cách khác, bằng sự thay đổi tâm ý của chính mình, ông đã chuyển họa thành phúc. Cả hai bản văn nêu rõ việc “chuyển họa thành phúc” này đều đã được Đại sư Ấn Quang chọn khắc in vào phần phụ lục của sách An Sĩ toàn thư (bản Hán văn), được xếp ngay sau phần Giảng rộng nghĩa lý bài văn Âm chất. Đại sư Ấn Quang đã có nhiều hàm ý rất sâu xa khi chọn lưu hành hai bản văn khuyến thiện này, và hiệu quả lợi lạc của việc này đối với người đọc đã được chứng minh một cách rõ ràng qua thời gian.Về bản văn thứ nhất, tiên sinh Viên Liễu Phàm không viết ra như một nghiên cứu triết lý, mà như một sự chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, bởi chính ông là người đã vận dụng thành công những điều ông viết ra đây. Ông đã thực sự chuyển đổi được số mạng, thay đổi cuộc đời từ những điều bất hạnh sang thành an vui hạnh phúc. Có thể nói, bằng vào những nỗ lực cứu người giúp đời không mệt mỏi liên tục nhiều năm, ông đã thành công trong việc tự thay đổi số phận của mình mà không cầu xin bất kỳ một sức mạnh siêu nhiên nào. Ông đã tự mình tạo lập số mạng. Và hơn thế nữa, ông đã xác quyết rằng những gì ông làm được thì mỗi người trong chúng ta cũng đều có thể làm được nếu có đủ quyết tâm, không loại trừ bất cứ ai.