Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bạn Là Người Có Tài Ăn Nói Nhất (Tạ Ngọc Ái)

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1 NÓI NHƯ VẬY LÀ KHÉO LÉO NHẤT

ĂN NÓI CẦN CÓ CHỪNG MỰC

1. Trước đám đông không được nhắc đến bí mật và sai lầm của người khác

2. Cố ý thổi phồng hay nhấn mạnh vào khuyết điểm của người khác Tìm mua: Bạn Là Người Có Tài Ăn Nói Nhất TiKi Lazada Shopee

3. Dồn người khác vào thế bí

4. Nhanh nói lời thâm giao

5. Ép người thì gặp hoạ

6. Nói không đúng lúc

ĂN NÓI CẦN NGẮN GỌN, NÓI ÍT NHƯNG ĐƯỢC VIỆC, THOÁNG NHÌN ĐỦ HIỂU NHAU

Ý DÀI NÓI NGẮN, KHÔNG CÓ ĐỪNG NÓI

ĂN NÓI DỄ DÀNG, LƯU LOÁT

KHI NÓI VỚI ĐỒNG NGHIỆP CẦN CÓ CHỪNG MỰC

KHÔNG NÊN BỘC LỘ NHIỀU VỀ BẢN THÂN Ở CƠ QUAN

KHÔNG NÊN TRANH CÃI Ở CƠ QUAN

KHÔNG NÊN ĐEM CHUYỆN RIÊNG CỦA NGƯỜI KHÁC RA ĐỂ BÌNH LUẬN

KHÔNG NÊN THỂ HIỆN SỰ VƯỢT TRỘI CỦA BẢN THÂN Ở CƠ QUAN

KHÔNG NÊN TUỲ Ý ĐÙA VỚI CẤP TRÊN

NHỮNG ĐIỀU KIÊNG KỊ KHI GIAO TIẾP VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

KHÔNG NÊN VƯỢT QUÁ GIỚI HẠN KHI NÓI VỀ GIỚI TÍNH

NÊN ĂN NÓI UYỂN CHUYỂN, KHÔNG CẦN QUÁ HẲNG THẮN. HỌC CÁCH UYỂN CHUYỂN

1. Cách nói tránh né

2. Mượn lời nói uyển chuyển

3. Cách nói quanh co

CẦN HỌC CÁCH NÓI MƠ HỒ, TƯƠNG ĐỐI

1. Hình thức mở rộng cách nói mơ hồ

2. Cách nói né tránh

3. Câu hỏi hóc búa

CHỊU LỖI THAY CHO NGƯỜI KHÁC

NÓI TRÁNH, KHÔNG TRỰC TIẾP NÓI ĐẾN NHỮNG VẤN ĐỀ NHẠY CẢM

DÙNG TRÍ TUỆ VÀ TÀI ĂN NÓI HOÁ GIẢI NHỮNG CÂU HỎI KHÓ TRẢ LỜI

NÓI RA SỰ THỰC CÒN HƠN NÓI LỜI SÁO RỖNG

KHI NÓI CHUYỆN CẦN THÀNH THỰC ĐÚNG LÚC

LUÔN HÀI HƯỚC LÀ NGHỆ THUẬT ĂN NÓI KHÉO LÉO

CHƯƠNG 2 NÓI NHƯ VẬY DỄ TRÁNH ĐƯỢC RẮC RỐI

CÁCH BỔ SUNG, CÁCH THÊM BỚT KHI NÓI SAI

1. Cách gán ghép

2. Cách nói rộng ra

THẲNG THẮN XIN LỖI

DÙNG SỰ HÀI HƯỚC ĐỂ ĐƠN GIẢN NHỮNG ĐIỀU KHÔNG VUI TRONG CUỘC SỐNG

HÀI HƯỚC LÀ SỰ CHỈ TRÍCH CỦA NGƯỜI KHÁC

HÀI HƯỚC HOÁ MÂU THUẪN

HÀI HƯỚC HOÁ GIẢI ĐƯỢC TÌNH HUỐNG “NHAI PHẢI DA BÒ”

TỰ CHẾ GIỄU BẢN THÂN ĐỂ TRÁNH ĐIỀU KHÓ XỬ

BỎ QUA CHO NGƯỜI KHÁC SAU KHI ĐÃ LỠ MIỆNG

NỖ LỰC CẢI THIỆN HOÀN CẢNH BẤT LỢI ĐỐI VỚI BẠN

THUẬN CHIỀU NƯỚC ĐẨY THUYỀN

CHỈ RA ĐƯỜNG ĐI ĐÚNG

CHƯƠNG 3 NÓI NHƯ VẬY DỄ ĐƯỢC NGƯỜI KHÁC THÔNG CẢM

SAU KHI SAI PHẠM HÃY THẲNG THẮN THỪA NHẬN

CHÂN THÀNH XIN LỖI - CHỦ ĐỘNG CHỊU TRÁCH NHIỆM

1. Thái độ phải chân thành

2. Đường hoàng nhận lỗi

3. Xin lỗi kịp thời

4. Khi không tiện nói ra thì phải biểu đạt khéo léo

5. Phải kiên trì nhận lỗi

CHƯƠNG 4 LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ LỢI CHO GIAO TIẾP?

QUAN TÂM ĐỂ CÓ MỘT CUỘC GIAO TIẾP CÓ HIỆU QUẢ

* Mục đích rõ ràng và có sự chuẩn bị

* Trước khi vào vấn đề chính cần phải có sự mở đầu

* Lời nói phải thành khẩn, tình cảm phải chân thành

* Chú ý ngữ khí, thanh điệu và nhịp điệu

TRONG LÚC NÓI CHUYỆN CỐ GẮNG KHÔNG ĐỂ NGƯỜI KHÁC HIỂU LẦM

*Hãy tìm ra nguyên nhân của việc hiểu lầm

* Mạnh dạn đối mặt với tình trạng bị mọi người xung quanh hiểu lầm và nghi ngờ

* Khi nói chuyện cố gắng đừng để người khác nghi ngờ.

* Cố gắng biện hộ

LÃNH ĐẠO CẦN PHẢI BIỂU ĐẠT MỆNH LỆNH MỘT CÁCH RÕ RÀNG

* Nghiên cứu kỹ nội dung bản chỉ thị.

* Chú ý cách nói chuyện và thái độ nói chuyện.

* Hãy chọn địa điểm nói chuyện cho phù hợp

HÃY NẮM VỮNG MỨC GIAO TIẾP THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI

CHƯƠNG 5 TRẢ LỜI PHỎNG VẤN NHƯ THẾ NÀO LÀ KHÉO LÉO NHẤT?

ĐÂY CHÍNH LÀ ÁP LỰC

* Trước khi phỏng vấn.

1. Thu thập đầy đủ các tài liệu

2. Tìm bạn để tập luyện

3. Ăn mặc phù hợp

* Trong phỏng vấn.

* Sau khi phỏng vấn

TRONG PHỎNG VẤN NÊN HỎI VẤN ĐỀ TIỀN LƯƠNG NHƯ THẾ NÀO

TRẢ LỜI TỐT “BẪY PHỎNG VẤN”

CHƯƠNG 6 ĐÀM PHÁN NHƯ VẬY SẼ CÓ LỢI NHẤT

TRÌNH ĐỘ ĐÀM PHÁN NÓ QUYẾT ĐỊNH THÀNH BẠI Ở MỘT GÓC ĐỘ RẤT LỚN

LÚC NÀO CŨNG CHUẨN BỊ NÓI“KHÔNG” THÌ DỄ NẮM ĐƯỢC QUYỀN CHỦ ĐỘNG.

GIÂY PHÚT QUYẾT ĐỊNH GIỌNG NÓI SẮC MẶT KHÔNG HỀ THAY ĐỔI

KHIẾN CHO ĐỐI PHƯƠNG DÙNG CÁCH SUY NGHĨ CỦA BẠN ĐỂ NHÌN NHẬN VẤN ĐỀ

SỰ IM LẶNG KHÔNG THỂ KHIẾN NGƯỜI TA HỐI HẬN

CHƯƠNG 7 YÊU CẦU NGƯỜI KHÁC NHƯ THẾ NÀO ĐỂ ĐƯỢC VIỆC NHẤT?

DÙNG NHỮNG LỜI NÓI GIÀU TÌNH CẢM ĐỂ LÀM MỀM LÒNG NGƯỜI KHÁC

TỪNG BƯỚC THUYẾT PHỤC NGƯỜI KHÁC

LÀM THẾ NÀO ĐỂ NGƯỜI KHÁC CÓ THỂ GIÚP ĐỠ MÌNH

KHI CẦN NHỜ NGƯỜI KHÁC PHẢI CHÚ Ý VỀ MẶT NGÔN NGỮ

* Không nên nói những lời không trúng đích

* Không nên nói những lời nói tang tóc

* Đừng nói những lời trách móc bản thân

* Không nên lo lắng, nghi ngờ câu nói của người khác.

* Đừng nói những lời lấp lửng.

* Khi nhờ người khác cần chú ý ngữ khí và cách sắp xếp từ ngữ

* Dùng cách nói phỏng đoán để nói thật

* Mượn những lời nói đùa nhẹ nhàng, hài hước để nói những lời nói thật

* Vòng vo để đối phương nói chuyện

* Nói bóng nói gió để đạt được mục đích

* Dùng giọng điệu mang tính bàn bạc

* Năn nỉ không bằng cầu xin khéo léo, khuyên bảo không bằng dẫn dắt

* Nhân lúc vui vẻ hãy đề cập đến vấn đề mình cần làm

PHỤ LỤC

TỰ MÌNH TRẮC NGHIỆM

Liệu bạn có phải là người biết ăn nói không?

HƯỚNG DẪN LẤY ĐIỂM

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1 NÓI NHƯ VẬY LÀ KHÉO LÉO NHẤT

CHƯƠNG 2 NÓI NHƯ VẬY DỄ TRÁNH ĐƯỢC RẮC RỐI

CHƯƠNG 3 NÓI NHƯ VẬY DỄ ĐƯỢC NGƯỜI KHÁC THÔNG CẢM

CHƯƠNG 4 LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ LỢI CHO GIAO TIẾP?

CHƯƠNG 5 TRẢ LỜI PHỎNG VẤN NHƯ THẾ NÀO LÀ KHÉO LÉO NHẤT?

CHƯƠNG 6 ĐÀM PHÁN NHƯ VẬY SẼ CÓ LỢI NHẤT

CHƯƠNG 7 YÊU CẦU NGƯỜI KHÁC NHƯ THẾ NÀO ĐỂ ĐƯỢC VIỆC NHẤT?

PHỤ LỤCDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Tạ Ngọc Ái":Biết Người - Dùng Người - Quản NgườiBạn Là Người Có Tài Ăn Nói NhấtBí Quyết Dùng NgườiBí Quyết Kinh Doanh

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bạn Là Người Có Tài Ăn Nói Nhất PDF của tác giả Tạ Ngọc Ái nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người (George Berkeley)
Lời người dịch George Berkeley (1685-1753) là triết gia duy nghiệm kiệt xuất người Ireland, một trong những gương mặt quan trọng nhất của nền triết học Tây phương hiện đại thời kì đầu. Lập trường triết học của Berkeley là duy tâm thường nghiệm (empirical idealism), được thể hiện trong câu cách ngôn nổi tiếng “esse est percipi” (tồn tại là được tri giác). Đối với ông, không có gì hiện hữu ngoại trừ các ý niệm và các tinh thần; các ý niệm là cái được tri giác, còn tinh thần (mind hay spirit)1 là cái tri giác những cái được tri giác. Các công trình của Berkeley trải rộng trên các lĩnh vực khoa học, triết học và thần học; riêng trong lĩnh vực triết học thì Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người (1710) và Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous (1713) là hai công trình được biết đến nhiều nhất. Vài nét tiểu sử và sự nghiệp của Berkeley Berkeley chào đời vào ngày 12 tháng Ba năm 1685 ở Hạt Kilkenny, Ireland. Năm 11 tuổi, ông vào học trường Kilkenny ở Dublin. Năm 15 tuổi, ông bước chân vào Học viện Ba ngôi (Trinity College), cũng ở Dubin. Berkeley lấy bằng cử nhân tại đây vào năm 1704, đến năm 1707 lấy bằng Thạc sĩ và được tuyển làm giảng viên (Junior Fellow) của học viện này. Tìm mua: Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người TiKi Lazada Shopee Năm 1709, Berkeley được thụ phong chức chấp sự (deacon) trong giáo phái Anh và xuất bản công trình chính đầu tiên của mình Thử hướng đến một lí thuyết mới về cái nhìn. Trong công trình này, Berkeley bàn về những giới hạn của cái nhìn của con người và đưa ra quan niệm rằng đối tượng thực sự của thị giác không phải là các đối tượng vật chất mà là ánh sáng và màu sắc. Những luận điểm được nêu ra trong công trình này báo hiệu sự ra đời của các công trình triết học quan trọng nhất của ông. Vào năm 1710, khi chỉ mới 25 tuổi, Berkeley xuất bản công trình triết học Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người - Phần I, từ đây chúng tôi sẽ nói gọn là Các nguyên tắc. Công trình này là những nỗ lực của Berkeley gắng tìm cách bác bỏ những yêu sách của John Locke, một triết gia duy nghiệm thuộc thế hệ trước ông, về bản chất của tri giác con người. Nhưng vì công trình này thuộc dạng kén độc giả, chỉ dành riêng cho giới trí thức ở thủ đô London, nên ông bắt tay viết những bài dễ đọc hơn, trong hình thức đối thoại, và cho xuất bản ở London vào năm 1713 dưới nhan đề Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous. Trong thời gian ở London, để xúc tiến việc xuất bản các công trình triết học của mình, ông kết giao bằng hữu với một số nhà trí thức nổi danh thời bấy giờ như nhà thơ Jonathan Swift (1667-1745), nhà thơ, nhà tiểu luận Joseph Addison (1672-1719), nhà soạn kịch Richard Steele (1709-1729), và nhà thơ Alexander Pope (1688-1744). Ông tham gia viết bài cho tờ Guardian của Steele để chống lại tư tưởng tự do của thuyết bất khả tri lúc bấy giờ, nhưng do ông không kí tên vào các bài báo này nên cho đến nay các ý kiến về việc ông có phải là tác giả của chúng hay không vẫn còn bất đồng. Năm 1721, ông xuất bản cuốn Bàn về sự vận động, một luận văn ngắn bàn về những nền tảng triết học của cơ học. Ngoài ra, ông còn có một tập các bản ghi chép những nhận xét triết học trong suốt quá trình phát triển học thuyết duy tâm và thuyết phi vật chất của mình; và tập ghi chép này, thường được gọi là Những nhận xét triết học, ông chỉ viết cho riêng mình nên không có ý định công bố. Năm 1724, Berkeley được bổ nhiệm làm Trưởng Tu viện Derry. Lúc này, ông bắt tay khai triển dự án xây dựng một trường học ở Bermuda với ý nghĩ châu Âu đã trở nên già cỗi sau cuộc khủng hoảng “Bong bóng Biển Nam’’ (South Sea Bubble) và Thế giới Mới sẽ là niềm hi vọng cho tương lai con người. Được Nghị viện Anh hứa tài trợ kinh phí, ông dong buồm sang châu Mỹ vào năm 1728. Sau ba năm hoài công ngồi chờ kinh phí được hứa hẹn, ông trở về Anh. Trong thời gian ở châu Mỹ, ông đã soạn thảo Alciphron, cũng là một công trình triết học và là một suối nguồn quan trọng cho các quan niệm của ông về ngôn ngữ. Sau khi về Anh, Berkeley tập trung viết và cho xuất bản một loạt các công trình: Bài giảng trước Hội Truyền giáo Phúc âm ở nước ngoài (1732), Lí thuyết về cái nhìn (chứng minh và giải thích) (1733), Nhà giải tích hay bài luận gửi cho một nhà toán học vô tín ngưỡng (1734), Bảo vệ tự do tư tưởng trong toán học (1735), Các lí do không đáp lại câu trả lời đầy đủ của ngài Walton (1735), cũng như xem xét lại để tái bản Các nguyên tắc và Ba cuộc đối thoại (1734). Năm 1734, Berkeley được phong Giám mục xứ Cloyne, vì thế ông trở lại Ireland và sống tại đó, tập trung chăm lo cho giáo phận của mình. Năm 1752, ông rời xứ cloyne đi Oxford để giám sát việc học hành của con trai, và không lâu sau đó, ông tạ thế vào ngày 14 tháng Giêng, được chôn cất trong Thánh đường Giáo hội Kitô thuộc địa phận OxfordĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người PDF của tác giả George Berkeley nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Luận Về Yêu (Alainde Botton)
Alain de Botton Sinh năm 1969 tại Zurich, Thụy Sĩ, hiện nay sống ở London. Ông là tác giả của nhiều tiểu luận và được gọi là tác giả của một “triết học về cuộc sống thường ngày”. Các chủ đề của ông có thể là: tình yêu, du lịch, kiến trúc hay văn chương. Các tác phẩm của ông từng trở thành bestseller tại hơn 30 nước. Một số tác phẩm tiêu biểu của Alain de Botton: Luận về yêu, The News: A User’s Manual, How to Think More about Sex, Status Anxiety, The Art of Travel, How Proust Can Change Your Life. Sơ lược về tác phẩm Cuốn sách này chứa đựng chính xác những gì lâu nay ta vẫn muốn biết về tình yêu: Không thiếu ảo tưởng nhưng cũng đầy sáng suốt, mê đắm nhưng biết giữ khoảng cách, nồng nhiệt và rất hài hước nhưng cùng lúc ngập tràn phân tích lạnh lùng. Chính khía cạnh “phân tích” này làm nên sự hấp dẫn nhất của Luận về yêu, vì tác giả đã sử dụng những triết thuyết tưởng chừng khô cứng để tiếp cận tình yêu một cách thấu đáo, từ rất nhiều phương diện, kể cả những phương diện mà những người đang yêu thường muốn giấu kín. Tìm mua: Luận Về Yêu TiKi Lazada Shopee Luận về yêu, tác phẩm thời trẻ của Alain de Botton, hiện nay là một nhà văn, triết gia và diễn giả nổi tiếng thế giới, còn đặc biệt hấp dẫn vì tùy theo tạng riêng của mình, độc giả có thể đọc nó như một tập tiểu luận sâu sắc, hoặc như một cuốn tiểu thuyết vô cùng hấp dẫn và không hề thiếu kịch tínhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Luận Về Yêu PDF của tác giả Alainde Botton nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Luận Về Yêu (Alainde Botton)
Alain de Botton Sinh năm 1969 tại Zurich, Thụy Sĩ, hiện nay sống ở London. Ông là tác giả của nhiều tiểu luận và được gọi là tác giả của một “triết học về cuộc sống thường ngày”. Các chủ đề của ông có thể là: tình yêu, du lịch, kiến trúc hay văn chương. Các tác phẩm của ông từng trở thành bestseller tại hơn 30 nước. Một số tác phẩm tiêu biểu của Alain de Botton: Luận về yêu, The News: A User’s Manual, How to Think More about Sex, Status Anxiety, The Art of Travel, How Proust Can Change Your Life. Sơ lược về tác phẩm Cuốn sách này chứa đựng chính xác những gì lâu nay ta vẫn muốn biết về tình yêu: Không thiếu ảo tưởng nhưng cũng đầy sáng suốt, mê đắm nhưng biết giữ khoảng cách, nồng nhiệt và rất hài hước nhưng cùng lúc ngập tràn phân tích lạnh lùng. Chính khía cạnh “phân tích” này làm nên sự hấp dẫn nhất của Luận về yêu, vì tác giả đã sử dụng những triết thuyết tưởng chừng khô cứng để tiếp cận tình yêu một cách thấu đáo, từ rất nhiều phương diện, kể cả những phương diện mà những người đang yêu thường muốn giấu kín. Tìm mua: Luận Về Yêu TiKi Lazada Shopee Luận về yêu, tác phẩm thời trẻ của Alain de Botton, hiện nay là một nhà văn, triết gia và diễn giả nổi tiếng thế giới, còn đặc biệt hấp dẫn vì tùy theo tạng riêng của mình, độc giả có thể đọc nó như một tập tiểu luận sâu sắc, hoặc như một cuốn tiểu thuyết vô cùng hấp dẫn và không hề thiếu kịch tínhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Luận Về Yêu PDF của tác giả Alainde Botton nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Freud Đã Thực Sự Nói Gì (David Stafford-Clark)
Một người sáng đi ra định bắt tay vào một công việc quan trọng. Ra ngõ gặp gái liền quay về, hôm ấy không đi nữa. Đúng là mê tín. Một người thứ hai cũng ra đi, lỡ chân bước hụt tam cấp suýt ngã. Cho là điềm gở cũng không chịu đi nữa. Một nhà “khoa học” cười là mê tín. Nhưng nếu hỏi Freud ông sẽ bảo người này làm đúng. Vì lỡ chân suýt ngã không phải là điềm gở mà biểu hiện một vướng mắc trong tâm tư, cho biết là người kia chưa thực sự sẵn sàng hào hứng bắt tay vào công việc định làm. Sự kiện “lỡ chân” ấy là biểu hiện của vô thức. Freud không phải người đầu tiên nêu lên khái niệm vô thức nhưng là người đầu tiên bày ra cái “thuật” để thăm dò tìm hiểu vô thức và từ đó để chữa những bệnh rối nhiễu tâm lý. Thuật phân tâmSigmund Freud (1856 - 1939) xuất thân là một bác sĩ sinh ra và lớn lên ở Viên, thủ đô nước Áo vào cuối thế kỷ XIX là một nước lớn ở Tây Âu. Là một bác sĩ xuất sắc, Freud đã tiếp nhận sâu sắc những phương pháp cơ bản của y học Âu châu vào cuối thế kỷ XIX với 2 bộ phận chủ yếu: một bên là lâm sàng kỹ lưỡng rồi vận dụng những phương tiện vật lý học nghiên cứu thể chất con người, tạo nên một nền y khoa sinh học, phát hiện những thực tổn và căn nguyên của các bệnh tật. Mỗi một giả thuyết đều phải được chứng minh thông qua thực nghiệm. Tốt nghiệp y khoa, Freud vào công tác ở một phòng thí nghiệm sinh lý thần kinh và đã có những công trình đáng kể về mặt này. Nhưng theo Freud ghi lại trong hồi ức thì cần phải tìm một nghề có thù lao khá hơn là làm phòng thí nghiệm, nên phải chuyển sang nghề chữa bệnh và ông đã đi vào chuyên khoa các bệnh gọi là thần kinh. Vào thời ấy, mặc dù giải phẫu sinh lý thần kinh và bộ não đã có những thành tựu đáng kể, ngành y vẫn vấp phải một loại hiện tượng tâm lý, dù hết sức tìm tòi cũng không thể nào phát hiện được tổn thương thực thể, bệnh không để lại một dấu tích thể chất nào cả, thật là những bệnh “vô tích sự”.Đặc biệt là một chứng bệnh khá phổ biến, với một loại triệu chứng xuất hiện từng cơn, hiện ra, biến mất, đột xuất không hiểu vì đâu. Cứ như là bệnh nhân đóng kịch vậy, bỗng nhiên liệt chân không đi được, mù không thấy, câm tịt không nói nữa, rồi một lúc nào đó bệnh lại biến mất. Y học gọi đó là hystêri. Các bác sĩ thời ấy, người thì nhún vai bĩu môi bảo là bệnh tưởng tượng, chẳng cần quan tâm đến, người thì cho rằng thế nào rồi vật lý học tiến lên sẽ tìm ra tổn thương ở hệ thần kinh, nhất là ở não, người thì cho rằng phải tìm nguyên nhân không phải trong thể chất mà trong cái “tâm”. Nhưng lý luận thế nào thì chưa rõ, bệnh nhân và gia đình vẫn đòi hỏi được chăm chữa. Bắt đầu, Freud dùng phương pháp thôi miên được thông dụng thời ấy. Kết quả nhiều khi ngoạn mục, có những bệnh nhân bại liệt hàng tháng, mù câm, đau bụng, đau đầu, nhức xương kinh niên, sau thôi miên “thầy” chỉ cần bảo: đứng dậy mà đi, nói đi, bệnh của anh hết rồi, là lành bệnh. Freud và ông bạn chí thân là Bruer vận dụng thôi miên bắt đầu nổi tiếng. Nhưng dần thấy rõ kết quả thôi miên không được lâu dài và sau một thời gian, hết chứng này lại xuất hiện những hiện tượng khó hiểu. Trong bệnh hystêri có những ca bệnh nhân tưởng tượng là mình có thai, bụng phình lên và tâm tư thay đổi đúng như một người thai nghén. Một hôm, một phụ nữ xinh đẹp xông vào phòng khám của bác sĩ Breuer bảo: tôi sắp sinh con của ông đấy. Breuer hoảng hốt vì đã có có vợ con, phải bỏ trốn khỏi thành phố Viên mấy tuần sau đó, bỏ luôn cả nghề chữa bệnh thần kinh. Freud vẫn tiếp tục, rồi phát hiện ra là những người hystêri như vậy có những nét tâm lý đặc biệt và khác với người bình thường, có những hành vi, những lời nói hình như bị ai xui khiến không làm chủ được. Bình thường trong cuộc sống hàng ngày, phải đối phó với thế giới vật chất và phản ứng của những người khác trong một nền văn hóa xã hội nhất định, cho nên mọi hành vi đều phải có ý thức để thích nghi với thực tế. Làm việc gì thường có ý định, có ý nghĩa, tức là phù hợp với hoàn cảnh thực tế, có lý lẽ phù hợp với lý lẽ thông thường của xã hội. Nhưng cũng có biết bao hành vi vô lý, vô nghĩa, làm như con người bị “ma quỷ” nào thúc ép hay cấm đoán. Điển hình nhất là những giấc mộng diễn ra bất kể thời gian, không gian nào với những câu chuyện vô lý nhất. Freud dần dần nhận ra những triệu chứng của nhiều bệnh nhân, cùng với giấc mộng, những hành vi lỡ tay, lỡ lời đều là những hiện tượng rất gần gũi nhau và phỏng đoán từ những hiện tượng này đều có đường dẫn đến những cấu trúc và cơ chế của vô thức. Tìm mua: Freud Đã Thực Sự Nói Gì TiKi Lazada Shopee Muốn hiểu phân tâm học, bước đầu tiên là phải hiểu cái thuật phân tâm là phương pháp cơ bản để nhìn vào vô thức và chữa trị bệnh nhân. Và muốn phê phán phân tâm học không thể bắt nguồn từ triết lý, từ hệ tư tưởng mà từ sự đối chiếu kết quả chẩn đoán và chữa trị các rối nhiễu tâm lý. Luận thuyết phân tâm họcVới cái vốn học vấn đồ sộ của bản thân, Freud không thể bằng lòng với kinh nghiệm chữa bệnh thuần túy. Từ những kinh nghiệm cụ thể, Freud đã kiến tạo ra một hệ thống những khái niệm cơ bản để lý giải những phức tạp của tâm lý học. Hệ thống ấy gọi là métapsychologie, có người dịch là siêu tâm lý học. Thực chất đây không có gì là siêu nhiên cả, đây là một luận thuyết trong nhiều luận thuyết khác của tâm lý học. Bài tựa này không đi sâu vào những khái niệm sẽ được trình bày trong sách, chỉ nêu lên ý nghĩa của một vài từ. Luận thuyết Freud mang tính thứ nhất là topique. Topos là vị trí, khu trú, có ý xem cái tâm của con người được chia ra thành những khu riêng biệt với nhân cách con người có những ngôi riêng biệt với những vị trí riêng biệt. Luận điểm cơ bản thứ hai mang tên là dynamique, có ý nói là mọi hành vi hiện tượng tâm lý đều phải có một nguồn năng lượng mới thể hiện ra được và cái tâm thường xuyên ở vào tình trạng động với một xu thế chuyển động nhất định. Luận điểm thứ ba ông gọi là économique tức kinh tế, ở đây phải hiểu theo nghĩa là nguồn năng lượng nói trên được phân phối như thế nào, đầu tư vào đâu. Cái lực thúc đẩy tâm lý học thường gọi là bản năng (instinct) và nhận ra hai bản năng cơ bản: bản năng bảo vệ sự tồn tại của cá thể và bản năng bảo đảm sự tái sinh sản nòi giống. Lúc đầu Freud cũng chấp nhận hai bản năng này, nhưng sau nhiều năm tiếp xúc với thực tiễn và nghiền ngẫm, ông đã đi đến kết luận là có hai bản năng (ông gọi là xung năng - tiếng Pháp: pulsion - tiếng Anh: drive - tiếng Đức: Triebe): một là Eros vừa là tính dục vừa là xung năng sống, hai là Thanatos tức là xung năng chết. Ông cho rằng sinh ra là ngay từ đầu con người đã mang trong mình bản chất cái chết, chứ không phải trong con người chỉ có bản năng tự bảo tồn để sống mãi. Luận thuyết này đã gây ra những tranh cãi hết sức sôi nổi, đến nay vẫn chưa ngã ngũ. Một điều đáng chú ý là Freud từ những hiện tượng bệnh lý của người lớn đã vạch ra cả một quá trình phát triển tâm lý suốt thời bé và nhấn mạnh những gì đã xảy ra vào thời tấm bé có ảnh hưởng quyết định đến cả cuộc đời của một con người. Freud chỉ quan sát con của ông một vài lần và chỉ nghiên cứu một ca bệnh trẻ em, thế mà những khái niệm và luận điểm ông nêu lên về sự phát triển tâm lý ở tuổi bé phần lớn sau này được những học giả chuyên về trẻ em công nhận là đúng. Ngày nay, giở bất kỳ một quyển sách khoa tâm lý nào, của bất kỳ nước nào (quyển Tâm lý học Trung Quốc chúng tôi mới nhận được năm 1996) cũng thấy trình bày những khái niệm Freud đã đưa ra. Học tập nghiên cứu tâm lý, nhất là tâm lý trẻ em không thể không biết đến phân tâm học.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Freud Đã Thực Sự Nói Gì PDF của tác giả David Stafford-Clark nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.