Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chết ở Venice - Thomas Mann

Chết ở Venice là một cuốn sách quyến rũ đến bệnh hoạn. Ánh mắt của kẻ si tình, đã trở thành cái gương soi chiếu tuyệt đối của cái đẹp. Chàng thiếu niên trẻ tuổi hiện lên qua đôi mắt mê mẩn của Aschenbach thì trở nên tuyệt mỹ, không gì có thể cưỡng lại được. Đó không phải là thứ ái tình đơn thuần, và Mann ngay từ đầu cũng không chỉ viết về một câu chuyện tình yêu đơn phương tuyệt vọng. Mann đeo đuổi cậu bé niên thiếu xinh đẹp kia qua hết các đường phố ổ Venice, cũng để ngắm vẻ xinh đẹp như thiên thần của cậu. Từng chi tiết, đường nét trên khuôn mặt, thân thể cậu đều được nhìn ra bằng ánh mắt mê mụ kỳ lạ. Chỉ có cái tình của một nghệ sĩ đắm đuối cái đẹp mới có thể nhìn thấy và nâng niu từng chút từng chút đẹp đẽ đến như thế. Và đoạn cuối của cuộc hành trình, với cái chết lặng lẽ của Aschenbach, Chết ở Venice đã đạt đến sự tuyệt hảo của câu chuyện, lúc người nghệ sĩ hoàn toàn quy phục cái đẹp, bước vào của sự dấn thân vào mê đắm, con người không thể nào thoát ra được, chỉ có cái chết mới là tận cùng. Cái kết đỉnh cao này, dễ khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của người đàn ông trong Tiếng cười trong bóng tối của Nabokov, khi đã đi đến tận cùng của si mê và cám dỗ. Ở cuốn sách mỏng này, người đọc có thể dễ dàng nhận ra cái chất đặc biệt của Mann, ấy là sự suy nghiệm đậm chất triết lý, với những quan điểm rõ ràng về nghệ thuật bằng lòng tôn sùng cái đẹp. Mann coi cái đẹp là nguồn cơn của sáng tạo, và vì thế cả đời mải miết đi tìm cái cùng sâu bản nguyên của cái đẹp. Ở kiệt tác đầu tay, Gia đình Buddenbrooks, là cái đẹp của sự những hào quang tàn lụi. Tới Núi thần lại là cái đẹp tuyệt đỉnh cô quạnh của thiên nhiên xa vắng, và lòng người mênh mang. Còn với Chết ở Venice, bên cạnh thành phố Venice xinh đẹp như hư ảo, chính Mann đã tìm ra cái con đường để phá hủy của những vòng vây triết lý khô cứng, nguyên tắc, để khai phá tận cùng bản năng thấm nhuần cái đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ. Chết ở Venice được xuất bản lần đầu vào năm 1912, cùng thời gian đó, ông bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Núi thần. Hai cuốn sách này có nhiều điểm khá tương đồng, dù xét về mặt ngôn ngữ, Núi thần đưa lại cảm giác tươi sáng dễ chịu hơn, và những suy niệm về tình yêu, lòng ham muốn nhục dục cũng như cái chết đều được miêu tả rõ ràng, chi tiết hơn, khác với sự dồn nén, ngột ngạt cực độ mà tác phẩm mang lại. Nếu nhà văn Aschenbach vì cuồng si cậu bé Tadzio mà ở lại Venice, thì chàng trai Hans Castorp cũng vì ham muốn một thiếu phụ người Nga mà ở lại núi thần. Đặc biệt, trong cả hai cuốn sách, Mann đều chọn những nơi có bối cảnh tuyệt đẹp để kể câu chuyện của mình, ấy cũng được xem là cái duy mỹ vô cùng của nhà văn. Núi thần hoàn thành sau Chết ở Venice hơn chục năm với nhiều lần sửa chữa, bỏ dở. Thomas Mann được trao giải Nobel năm 1929. *** Paul Thomas Mann là nhà văn Đức đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1929 và Giải Goethe năm 1949. Ông được coi là nhà văn lớn nhất của Đức thế kỷ 20. Thomas Mann sinh ở Lübeck, Đức, là con trai thứ hai của Thomas Johann Heinrich Mann (thương gia và thành viên Hội đồng thành phố), và Júlia da Silva Bruhns (một người Brasil sang Đức năm lên 7 tuổi). Thomas có anh trai tên là Heinrich, cũng là một nhà văn nổi tiếng, một em trai và hai em gái. Thời nhỏ gia đình Mann sống sung túc, các con được học hành đến nới đến chốn. Năm 1891, cha Thomas Mann mất vì bệnh ung thư. Theo di chúc của cha ông, gia đình bán công ty và nhà ở Lübeck, mẹ ông và các con chỉ sống bằng tiền gửi tiết kiệm. Từ đây cả gia đình chuyển đến sống ở München - một trung tâm văn hóa và tri thức của nước Đức. Năm 19 tuổi Thomas Mann đã bắt đầu viết báo nhưng luôn mơ ước trở thành nhà văn như anh trai mình. Những truyện ngắn đầu tiên của ông in trong tập Der kleine Herr Friedemann (Ngài Friedemann bé nhỏ) xuất bản năm 1898. Năm 1901, Mann xuất bản tiểu thuyết đầu tiên Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrooks) - kể về sự suy sụp của một gia đình ba đời buôn bán ở Lübeck trong bối cảnh cạnh tranh của chủ nghĩa đế quốc. Bộ tiểu thuyết đặc sắc này đã mang lại cho ông giải Nobel năm 1929. Thomas Mann là nhà văn có tư tưởng nhân đạo dân chủ tư sản, chống phát xít, đại diện cho truyền thống tốt đẹp của dân tộc Đức. Ông tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý, đi sâu vào các khía cạnh bệnh hoạn, cái phù du và cái chết. Văn của Mann chính xác, từ ngữ gọt giũa kĩ lưỡng, đòi hỏi người đọc phải tập trung suy nghĩ, ông dùng nhiều từ ngữ nước ngoài, sử dụng nhiều kiến thức về triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học. *** T   HOMAS MANN (1875 - 1955) là văn hào Đức nổi tiếng đầu thế kỷ XX với bút pháp hiện thực sinh động, ẩn giấu nụ cười mỉa mai thâm thúy. Mùa hè năm 1911 Thomas Mann đến nghỉ mát ít ngày trên hòn đảo Lido thuộc Venice, và một loạt sự kiện cùng ấn tượng ở đó đã tạo cảm hứng cho nhà văn sáng tác truyện dài này. Đầu tiên chỉ là một ý tưởng hoàn toàn ngẫu húng, nhưng rồi câu chuyện tự nó có sức sống riêng, tự nó phát triển theo Logich của riêng mình để dẫn đến một kết cục tất yếu. Cũng như đa số các tác phẩm của Thomas Mann, Chết ở Venice không phải là một cốt truyện hoàn toàn hư cấu: gã lái đò gondola kỳ quái, cậu bé Tadzio và cả gia đình, chuyến đi không thành vì hành lý bị thất lạc, trận dịch tả, anh nhân viên văn phòng du lịch thật thà, tay nghệ sĩ hát rong hung ác -tất cả đều có thật ngoài đời, nhà văn chỉ cần đặt vào trong tác phẩm. Cả nhân vật chính Aschenbach cũng có hình mẫu thực, trong bài nói chuyện On Myself đọc trước sinh viên trường đại học Princeton ở Mỹ năm 1940 tác giả đã thú nhận, ban đầu ông dự định viết khác hẳn. Ông muốn viết về mối tình muộn màng Goethe (1749 -1832) dành cho cô Ulrike von Levetzow, khai thác đề tài một vĩ nhân khi về già sa ngã vì tình yêu với một cô gái trẻ. Nhưng rồi ông chưa dám đụng đến thần tượng Goethe vì sợ mình không đủ sức. Vậy nên ông đã dựng lên nhân vật chính là một nhà văn hiện đại, một nghệ sĩ nhạy cảm, tiêu biểu cho đạo đức và đạt đến vinh quang nhờ lao động. Tướng mạo bề ngoài của Gustav von Aschenbach ông mượn của Gustav Mahler (1860 -1911), một nhạc sĩ lớn người Áo khi ấy vừa từ chuyến lưu diễn Mỹ trở về và đang lâm bệnh nặng. Chủ đề chính của ông vẫn là sức công phá mãnh liệt của tình yêu, khi mù quáng lao theo dục vọng đã hủy diệt cả một cuộc đời nền nếp, một sự nghiệp tưởng chừng vững như bàn thạch. Câu chuyện được kể với nhiều ẩn dụ, giàu hình ảnh và tính nhạc, kết cấu rành mạch với năm chương sách như năm màn của một vở bi kịch cổ điển: chương một dẫn dắt vào đề, chương hai giới thiệu nhân vật chính; chương ba giới thiệu bối cảnh xảy ra sự việc, chương bốn diễn biến sự việc và chương năm đạt đến cao trào với kết cục bi thương. Tác giả cho ta làm quen với một Aschenbach đạo cao đức trọng, đã đạt tới tột đỉnh vinh quang, có những sáng tác "chính thống" và "mô phạm" được đưa vào sách giáo khoa để giáo dục thanh thiếu niên. Ngôn ngữ trang trọng với "phong cách bậc thầy" được nhấn mạnh một cách cố ý, để sau đó dần dần càng làm nổi bật từng bước sa ngã của Aschenbach, đánh mất phẩm giá, trở nên lố bịch và vô liêm sỉ. Chắc chắn tác giả có nhiều mối tương đồng với nhân vật chính, tiểu sử Thomas Mann có rất nhiều điểm trùng hợp với cuộc đời Aschenbach, nội dung tác phẩm cũng là mối ưu tư của tác giả, diễn giải nội tâm Aschenbach cũng là cách ông giải quyết xung đột giữa tư tưởng thị dân tiểu tư sản và nhân sinh quan nghệ thuật của chính mình. Nhưng Thomas mann không phải là Aschenbach. Có một điều khác biệt căn bản, mấu chốt của vấn đề, đó là sau mấy ngày nghỉ ngơi trên đảo Lido. Thomas Mannđã trở về với công việc sáng tác, với "cuộc vật lộn hằng ngày". Ông chỉ để trí tưởng tượng tiếp tục bay bổng tìm cách trả lời câu hỏi, nếu nhà văn buông thả theo cảm xúc, lơ là nghĩa vụ và trách nhiệm, thì kết cục sẽ ra sao? Ông nhìn thấy kết cục thảm hại của Aschenbach, ông biết cách giữ mình không để rơi vào kết cục như thế, nhưng lòng ông vẫn day dứt không yên vì ông biết mình đã phải đánhnh đổi những gì. Như vậy Chết ở Venice là sự tiếp nối những tác phẩm trước của Thomas Mann, cũng như Hanno trong Gia đình Buddenbrook (1901), Spinell trong Tristan (1903) và Tonio Kröger trong tác phẩm cùng tên (1903), nhân vật Aschenbach bị giằng xé trong mối xung đột nội tâm giữa nghệ thuật và cuộc sống. Bằng những hình tượng này, Thomas Mann đã đưa cuộc đời nghệ sĩ của mình ra mổ xẻ, cuộc đời "một thường dân lạc lối vào nghệ thuật, một lãng tử giang hồ luôn hoài vọng mái ấm gia đình, một nghệ sĩ không ngừng bị lương tâm cắn rức", như nhân vật Tonio Kröger của ông tự nhận. Bây giờ xin mời độc giả lần tìm vào những ngõ ngách nội tâm của nhà văn Aschenbach, ở nhiều khá cạnh cũng là của chính Thomas Mann... Hannover, tháng Giêng 2012 Nguyễn Hồng Vân Mời các bạn đón đọc Chết ở Venice của tác giả Thomas Mann.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nơi Em Thuộc Về - Johanna Lindsey
Ophelia Reid, một tiểu thư xinh đẹp không ai sánh bằng nhưng cũng là người phụ nữ đáng ghét nhất trên khắp Anh quốc. Cố tình chống đối cuộc đính hôn mà người cha của cô đã sắp đặt với Duncan MacTavish - một hầu tước tương lai, Ophelia đã tham dự Mùa vũ hội ở London và muốn tự mình lựa chọn một người chồng giàu có. Nhưng trên đường về nhà, vài chuyện bất ngờ đã xảy ra... Người thừa kế tước vị công tước - Raphael Locke - là quý tộc trẻ tuổi được săn lùng nhiều nhất Anh quốc, nhưng anh lại không hề hứng thú với hôn nhân. Với mục đích muốn biến Ophelia thành một người phụ nữ hoàn hảo đáng mơ ước, Raphael đã lên kế hoạch “bắt cóc” cô và đưa đến trang viên xa xôi của anh ở thôn quê. Những bài học hằng ngày của anh dành cho Ophelia đã sớm phát huy hiệu quả và anh thấy chính mình không thể cưỡng lại việc bị cô thu hút. Khi đã thành công và đưa Ophelia trở lại xã hội thượng lưu London, Rafe mới tự hỏi: Sẽ thế nào nếu anh không ra đi và để mình bị cuốn vào cạm bẫy tình yêu với vị tiểu thư xinh đẹp ấy...  “Anh sẽ đưa em về nhà, nơi lẽ ra anh nên đưa em về ngay từ đầu. Nhà của anh, nơi em thuộc về.” *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), Ngôi Sao Lạc Loài Chỉ Một Lần Yêu Nơi Em Thuộc Về The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Thật đặc biệt khi trở thành tiểu thư xinh đẹp và đáng mơ ước nhất trong lần đầu tiên tham dự buổi ra mắt của thế kỷ, đồng thời cũng là người phụ nữ đáng ghét nhất trên khắp Anh quốc. Lạ lùng thay, Ophelia Reid lại nỗ lực để giành cho bằng được sự khác biệt đó. Cô nàng tai ương ấy xinh đẹp đến nỗi mọi người xung quanh cô đều cư xử như những kẻ vô cùng ngốc nghếch. Những người đang tụ tập tại Summers Glade, trang viên của Hầu tước Birmingdale, đều có chung một mục đích. Ophelia dừng chân tại đầu cầu thang lớn. Cô đã hy vọng tiền sảnh sẽ trống không, nhưng lại chẳng hề may mắn đến thế. Xem ra có rất nhiều người đang tụ tập bên dưới để chứng kiến đám cưới của cô với người thừa kế của hầu tước; một số người rõ ràng đã sớm nhận ra rằng đám cưới đã bị hủy bỏ và đang chuẩn bị rời đi. Những người khác hiển nhiên đang bối rối và bàn tán sôi nổi. Nhưng vào khoảnh khắc cô xuất hiện, mọi con mắt đều đổ dồn vào cô, và như thường lệ, những tiếng thì thầm bắt đầu vang lên. Xem chừng, có thể với những con người dưới kia, cô sẽ bước vào sảnh trong tư thế vô cùng kiêu hãnh. Cô vốn rất thích làm việc này và khá có kinh nghiệm với nó. Nhưng không phải lúc này. Cô nên rút lui thì hợp lý hơn, mặc dù cô chẳng có quyền lựa chọn nữa. Cô đã hy vọng mình có thể rời đi mà không thu hút sự chú ý. “Khi nào thì tiểu thư sẽ cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra thêm,” Sadie O’Donald, người hầu đang đứng bên cạnh cô lên tiếng. “Tôi không có gì để nói hết”, Ophelia đáp một cách cứng nhắc. “Nhưng tiểu thư có nghĩa vụ phải kết hôn vào ngày hôm nay.” Cứ như Ophelia có thể bỏ qua được cái thực tế kinh khủng đó vậy. Nhưng bây giờ chẳng phải là lúc để bàn về nó. “Suỵt, nếu bà không nhận thấy thì chúng ta đang có một thính giả đấy.” Sadie không nói gì thêm khi đi theo Ophelia xuống cầu thang. Những tiếng thì thầm đang trở nên ồn ào hơn. Ophelia thậm chí có thể loang thoáng nghe được nội dung các cuộc đối thoại đó. Ban đầu họ đính hôn, sau đó thì hủy bỏ, rồi lại đính hôn, và bây giờ, họ đổi ý một lần nữa. Nếu cậu hỏi thì mình sẽ nói là cô ta thay đổi như chong chóng vậy.” ... Mời các bạn đón đọc Nơi Em Thuộc Về của tác giả Johanna Lindsey.
Feynman Chuyện Thật Như Đùa! - Richard P. Feynman
Bằng một giọng quá tài tình ông tường thuật lại trong cuốn sách những trải nghiệm của mình khi trao đổi các ý tưởng về Vật lý nguyên tử với Einstein và Bohr cũng như các mưu mẹo về cờ bạc với Nick the Greek; khi mở những cái két khủng lưu giữ những bí mật hạt nhân được bảo quản cẩn trọng nhất; khi đệm trống bongo cho một vở ba-lê; khi vẽ một nữ đấu sĩ bò tót ở trần - và nhiều trải nghiệm khác của một bản năng rất đỗi ngạc nhiên. Nói gọn lại, đây là cuộc sống của Feynman trong tất cả niềm tự hào khác thường của nó - một pha trộn tinh tế của trí thông minh đỉnh cao, tính ham hiểu biết không có giới hạn, và sự tự tin tuyệt đỉnh. Người đọc nhận ra con người chân thực của ông, một nhà khoa học nghiêm túc bên cạnh một người phàm ham thích phiêu lưu, một tâm hồn đầy chất thi sĩ.   *** "Một trong những cuốn sách khoa học nổi tiếng nhất, bán chạy nhất cấp quốc gia với một dấu ấn đặc biệt, cuốn sách tràn đầy sinh lực, hài hước và sinh động. Nó gần như làm cho bạn muốn trở thành một nhà Vật lý." - Science Digest "Một người kể chuyện dí dỏm theo truyền thống Mark Twain. Ông một lần nữa chứng tỏ rằng có thể đồng thời cười hết cỡ và suy nghĩ nát óc." - New York Times Book Review  *** Những câu chuyện trong cuốn sách này đã được thu thập không chính thức và không có hệ thống trong suốt bảy năm chơi trống rất thú vị với Feynman. Tôi tìm thấy sự hài hước trong mỗi câu chuyện, và sự kinh ngạc trong toàn bộ sưu tập: Đôi khi khó tin là từng ấy trò điên điên tuyệt vời lại có thể xảy ra trong cuộc đời của một con người. Việc một người có thể sáng tác ra nhiều trò tinh nghịch vô hại như vậy trong cuộc đời chắc hẳn phải là một nguồn cảm hứng. • Ralph Leighton *** Richard Phillips Feynman ( 11 tháng 5, 1918 – 15 tháng 2, 1988) là một nhà vật lý lý thuyết người Mỹ được biết đến với công trình về phương pháp tích phân đường trong cơ học lượng tử, lý thuyết điện động lực học lượng tử, và vật lý của tính siêu lỏng của heli lỏng siêu lạnh, cũng như trong vật lý hạt với đề xuất của ông về mô hình parton. Cho những đóng góp của ông đối với sự phát triển của điện động lực học lượng tử, Feynman, cùng với Julian Schwinger và Shin'ichirō Tomonaga, nhận giải Nobel Vật lý năm 1965. Feynman phát triển cách biểu diễn bằng hình ảnh được sử dụng rộng rãi cho các biểu thức toán học miêu tả hành xử của các hạt hạ nguyên tử, mà sau này được biết đến với tên gọi biểu đồ Feynman. Trong cuộc đời của ông, Feynman đã trở thành một trong những nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới. Trong cuộc bầu chọn năm 1999 của tạp chí Anh quốc Physics World về 130 nhà vật lý xuất sắc trên thế giới, ông đã được xếp hạng vào một trong mười nhà vật lý vĩ đại của mọi thời đại. Ông từng hỗ trợ phát triển bom nguyên tử trong chiến tranh thế giới thứ hai và được công chúng biết đến trong thập niên 1980 như là thành viên của Ủy ban Rogers, ủy ban khảo sát thảm họa tàu con thoi Challenger. Cùng với các nghiên cứu vật lý lý thuyết, Feynman còn được coi là người tiên phong trong lĩnh vực tính toán lượng tử và có tầm nhìn dự đoán sự phát triển của công nghệ nano. Ông giữ chức danh giáo sư Richard C. Tolman về vật lý lý thuyết tại Học viện Công nghệ California. Feynman còn là một nhà diễn giải tài ba trong phổ biến kiến thức vật lý thông qua các cuốn sách và bài giảng, bao gồm các bài giảng năm 1959 về công nghệ nano từ trên xuống dưới There's Plenty of Room at the Bottom và bộ sách ba tập về vật lý lý thuyết, The Feynman Lectures on Physics. Feynman cũng được biết đến thông qua cuốn sách tự thuật do chính ông viết Surely You're Joking, Mr. Feynman! và What Do You Care What Other People Think? và các cuốn viết về ông như Tuva or Bust! bởi Ralph Leighton và Genius: The Life and Science of Richard Feynman bởi James Gleick. Mời các bạn đón đọc Feynman Chuyện Thật Như Đùa! của tác giả Richard P. Feynman.
Chung Vô Diệm - Tô Chẩn
Sách Nói Chung Vô Diệm Chung Vô Diệm là Vương hậu của Tề Tuyên vương, quân chủ nước Tề thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Bà nổi tiếng là người đàn bà có tài, trí tuệ vô song, giúp chồng là Tề Tuyên vương quản lý rất tốt nước Tề. Tuy nhiên dung mạo của bà tương truyền là cực kì xấu xí, được mệnh danh là một trong Ngũ xú Trung Hoa. *** Một hôm, Tuyên Vương đang uống rượu giữa bầy cung nga xinh đẹp, vui chơi ở Tiệm Đài. Chung vô Diệm xin vào yết kiến, tự xưng là người con gái không lấy được chồng của nước Tề, nghe nói Tề Vương là người hiền minh, xin vào hậu cung lo việc quét tước cho vua. Các cung nữ nghe xong bụm miệng cười, Tuyên Vương nghe tâu cũng tức cười nhưng vì lòng hiếu kỳ, ra lệnh cho vào yết kiến. Tuyên Vương hỏi: "Xú phụ! Ngươi sao không chịu ở yên nơi quê hương mà tự tiến tới vua phải chăng ngươi có tài nghệ cao kì?". Vô Diệm đáp: "Không dám nói kì tài cao nghệ, chỉ học được thuật ẩn hình, xin vì đại vương hiến chút nghề mọn để giúp vui". Nói xong liền ẩn mình, không ai thấy nữa. Hôm sau Triệu Vương lại triệu đến làm trò. Vô Diệm không nói, chỉ trừng mắt, cắn răng, giơ tay, vỗ gối... làm 4 động tác và kêu liên tiếp 4 tiếng "hiểm". Tuyên Vương hỏi ý nghĩa ra sao? Vô Diệm nói rằng: "Nay nước Tề có sự uy hiếp của Tần ở phía Tây, Sở phía Nam, đó là nguy hiểm thứ nhất. Đại vương làm nhọc sức dân, hao tốn tiền của, lập Tiệm đài hoa lệ, đó là điều nguy hiểm thứ hai. Trong triều thì biếm người hiền, dùng kẻ nịnh, đó là điều nguy hiểm thứ ba. Đấng quân vương đam mê tửu sắc, không sửa sang chính trị trong nước, đó là điều nguy hiểm thứ tư. Thiếp trừng mắt vì đại vương xét cái biến phong hoả, cắn răng là thay đại vương trừng trị cái miệng chống can gián, giơ tay là vì đại vương đuổi kẻ bề tôi xàm nịnh, vỗ gối là xin đại vương dẹp bỏ cái đài ăn chơi." Tề Tuyên Vương nhận lời can gián, từ đó bỏ yến nhạc, phá Tiệm đài, trừ tôi nịnh, làm cho binh mã mạnh, kho lẫm đầy... lập Chung Vô Diệm làm Vương hậu, và với sự phụ tá của bà, nước Tề trở nên cường thịnh. *** Khi Chung hậu đã lên tới trên núi rồi, thấy binh nước Ngô, nước Hàn trùng trùng điệp điệp, thế chẳng khác như cọp như beo, còn binh mình thì ít ắt khó bề chống đương, bèn sanh ra một kế, lấy giấy cắt ra năm tấm hình nhân, thảy đều cưỡi ngựa cầm đao thương, chẳng khác như thiên thần ác sát. Làm xong tức thì niệm tiên chú, rồi thổi lên trên không, thấy nổi lên một trận cuồng phong, hoá ra nhân mã thiên thiên vạn vạn, thảy đều đi theo Chung hậu, đặng thỉnh lịnh giao phong. Đây nói về Trương Xa và Thần Lôi nguyên soái, bị Xuân vương trá bại, dẫn lên trên núi Lai Vô, theo đuổi đã cùng đường mà không thấy tăm thấy dạng, hai người còn đang bàn soạn, kế thấy quân kỳ bài báo rằng: - Phía nam có một toán quân, có hai cây cờ long phụng. Đạo Tông nói: - Bữa hôm qua Điền Nguyên đã bại trận, nay còn có binh nào ở đây? Hay cùng nó giao phong trừ cho xong mối hoạ. Trương Xa vâng lời, đốc quân hiệu tập đi thẳng tới phía Nam. Lúc ấy đạo binh Tề vừa đi đến, Chung hậu ngồi trên lưng ngựa ngó thấy tướng Ngô, mặt xanh tợ chàm, hai chòm lông mày đỏ lói, đầu đội mão con rái, mình mặc áo hồng bào, thời đã biết Thần Lôi nguyên soái bên nước Ngô, liền chỉ mặt nói rằng: - Đạo Tông! Như ngươi muốn sống thì phải trở về núi cho mau, kẻo uổng công tu luyện bấy chầy, nay xuống hồng trần mà bỏ hết. ... Mời các bạn đón đọc Chung Vô Diệm của tác giả Tô Chẩn.
Chỉ Còn Lại Tình Yêu - George Sand
Chỉ còn lại tình yêu là tác phẩm hay nhất của George sand, cùng thời Chỉ còn lại tình yêu là tác phẩm hay nhất của George Sand, cũng đồng thời là một trong những cuốn truyện hay nhất của văn học Pháp George Sand trước hết là một con người nổi loạn. Xuất thân quý tộc, học trường dòng, lấy chồng cũng thuộc tầng lớp quý tộc. Nhưng bà đã dứt khoát chối bỏ cái thế giới nhỏ hẹp, tù đọng của mình để dấn thân vào dòng đời ào ạt của tình yêu và sáng tạo. Bà đẹp. Một sắc đẹp "chết người". Đó cũng là một trong những lý do dẫn đến việc bà có rất nhiều người yêu. Năm 1822, cô gái Amantine - Aurore - Lucile Dupin - tên thật của George Sand, kết hôn với bá tước Casimir Dudevent, một địa chủ quý tộc vùng Nohant. Năm đó bà 18 tuổi. Năm sau sinh con đầu lòng. Và năm sau nữa, "cô gái một con" đã làm xiêu lòng viên quan tòa trẻ tuổi hòa hoa phong nhã Aurélien de Sèze trong một chuyến đi chơi vùng núi Pyrénées. Từ đó cho đến năm 1866, bà lên Paris, sống ly thân với chồng, và trải qua hơn hai chục mối tình khác. Người tình của bà, hầu hết là những nhân vật lừng danh trong giới tri thức: Prosper Mérimée, Alfred de Musset, cả hai đều là nhà văn lớn của nước Pháp; Dranz Lisze, nhà soạn nhạc nổi tiếng Hungary; Frédérich Chopin, nhạc sĩ thiên tài người Pháp gốc Ba Lan v.v... Theo nhiều nhà nghiên cứu, không phải tình yêu, tình bạn và sự giúp đỡ hào hiệp của bà không có một ảnh hưởng nhất định đối với tài năng sáng tạo của những người đó. Và ngược lại, họ cũng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp của bà. Bà viết nhiều, từ năm 1827 đến 1876 là năm bà mất, tính ra đã có tới 54 tác phẩm ra đời. Không giống với phần lớn các tác giả đương thời, văn chương của bà giản dị, trong sáng, đầy vẻ đẹp thuần phác của con người hòa quyện trong vẻ đẹp thiên nhiên. Với những tác phẩm như Ao ma, Cô bé Fadette bà có thể được xếp vào những người đi đầu của nền văn học hiện thực mang tính chất xã hội sâu sắc của Pháp. Chỉ còn lại tình yêu là tác phẩm hay nhất của George Sand, cũng đồng thời là một trong những cuốn truyện hay nhất của văn học Pháp. Bà viết cuốn này năm 1832, lúc mới 28 tuổi, đang yêu say đắm Jules Sandeau, chủ nhiệm một tờ tạp chí lớn ở Paris. Bút hiệu George Sand chính thức ra đời từ cuốn này và là một kỷ niệm của mối tình với Jules Sandeau. Một chuyện tình. Hay nói cho thật đúng là cuốn truyện viết về chung thủy, trung hậu và sự lừa lọc, phản bội trong tình yêu. Indiana, nhận vật chính là một cô gái xinh đẹp, ngây thơ trong trắng như đóa hoa huệ mới nở buổi sớm mai. Nàng khao khát tình yêu và đã rơi vào bàn tay một tên sở khanh độc ác. Nếu cuối cùng nàng thoát khỏi sự sa đọa và lấy lại được niềm vui sống là nhờ có tình yêu chân chính của một chàng trai vốn đã yêu nàng, sẵn sàng vì nàng mà hy sinh hạnh phúc của mình. Từ khi tác phẩm ra đời cho đến nay, hơn một thế kỷ đã trôi qua. Tuy vậy, ta vẫn gặp trong Chỉ còn lại tình yêu những nhân vật, những tình huống, những trạng thái tâm lý hết sức gần gũi. Điều đó chứng tỏ sức sống bền chắc trong tư tưởng, tình cảm, và bút pháp của George Sand. Nhưng đồng thời cũng cho ta thấy rằng tình yêu, vẫn là cái gì muôn thưở, không bao giờ cũ đối với con người. NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ *** George Sand, tên thật là Amantine Aurore Lucile Dupin, sinh ngày 1/7/1804, mất ngày 8/6/1876. Bà là tiểu thuyết gia nổi tiếng người Pháp. Trong hơn bảy mươi năm cuộc đời mình, nữ văn sĩ thiên tài đã sống một cuộc sống mãnh liệt, hết sức phóng túng nhưng cũng đầy sáng tạo. Bà là một ngoại lệ của văn học Pháp thế kỉ 19, một cá tính hấp dẫn khiến ngưới ta khó lòng cưỡng nổi. Cha của George Sand, Maurice Dupin là một người thuộc dòng dõi quý tộc, còn mẹ của bà, Sophie-Victoire Delaborde xuất thân từ tầng lớp bình dân. Cha mất sớm, George Sand sống với bà, rồi sau đó vào tu viện. Năm 1821, ở tuổi 17, bà kết hôn với Nam tước Casimir Dudevant và có hai con là Maurice (1823–1889) và Solange (1828–1899). Năm 1835, cuộc hôn nhân này tan vỡ và George Sand có nhiều mối tình khác với không ít các nhân vật nổi tiếng, trong đó có Alfred de Musset, nhà thơ lớn của Pháp và Frédéric Chopin, nhạc sĩ thiên tài Ba Lan. Bà cũng là bạn thân của nhà văn Gustave Flaubert. Tác giả của Bà Bovary từng nhận xét: "Phải quen nàng như ta đã từng quen mới biết được hết thảy những gì là nữ tính trong trái tim con người vĩ đại này." George Sand mất tại Nohant ngày 8 tháng 6 năm 1876. Tưởng nhớ đến bà, Victor Hugo viết: Ta khóc thương một người phụ nữ mất đi, ta suy tôn một nữ thánh bất tử. *** Gửi J. Nero Tháng Giêng năm ngoái, vào một ngày ấm áp và nắng đẹp, tôi đi Saint Paul để lang thang trong những khu rừng hoang vắng trên đảo Bourbon và mơ mộng. Ở đây, tôi nghĩ đến bạn, bạn của tôi ạ. Những khu rừng nguyên thủy ấy vẫn giữ cho tôi kỷ niệm về những chuyến đi và những công trình nghiên cứu của bạn; đất vẫn lưu giữ dấu chân bạn. Tôi lại tìm thấy ở khắp nơi những kỳ quan mà tôi đã đọc trong những chuyện kể thần diệu của bạn và xưa kia đã làm tôi say mê, và để cùng nhau chiêm ngưỡng những kỳ quan đó, tôi lại kêu gọi bạn ở châu Âu già lão, nơi bạn sống mai danh ẩn tích một cách nhũn nhặn và êm đềm. Một con người hạnh phúc, không một người bạn quỷ quyệt nào sẽ phơi bày trước thế giới trí tuệ và tài năng củ bạn. Tôi đến một chỗ hoang vắng ở khu vực cao nhất đảo, được gọi là Mũi Khét của Saint Paul. ... Mời các bạn đón đọc Chỉ Còn Lại Tình Yêu của tác giả George Sand.