Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đất Vỡ Hoang - Mikhail Aleksandrovich Sholokhov

Mikhail Aleksandrovich Sholokhov là một nhà văn Liên Xô nổi tiếng và là người được trao Giải Nobel Văn học năm 1965. Mikhail Sholokhov được biết tới nhiều nhất qua bộ tiểu thuyết sử thi Sông Đông êm đềm, tác phẩm được Jorge Amado cho rằng có thể sánh với Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoy. Ngoài ra Sholokhov còn có nhiều sáng tác về những người Cozak vùng Sông Đông và về cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Năm 1925, Sholokhov bắt tay vào viết tập đầu tiên của một bộ tiểu thuyết đồ sộ khác, bộ Đất vỡ hoang (Podnyataya Tselina) phản ánh phong trào tập thể hóa nông nghiệp ở nông thôn Nga. Bộ tiểu thuyết đã phải mất gần 30 năm mới hoàn thành đủ hai tập khi bản thảo của tác giả bị thiêu hủy trong thời gian Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Đất vỡ hoang đã được trao Giải thưởng Lênin, giải thưởng cao nhất dành cho lĩnh vực Văn học - Nghệ thuật của Liên Xô. *** Vào đầu những năm 30 của thế kỷ trước, giữa lúc đông đảo bạn đọc của M.Sholokhov đang hồi hộp theo dõi số phận của bộ tiểu thuyết "Sông Đông êm đềm", giữa lúc tác giả đang dồn sức viết tập 3 của tác phẩm đồ sộ này để đáp lại lòng hâm mộ của bạn đọc, thì ở quê hương của nhà văn cũng như trên toàn nông thôn Liên Xô diễn ra phong trào tập thể hoá nông nghiệp. Tâm hồn nhạy cảm và tính Đảng của người nghệ sỹ lớn đã thôi thúc nhà văn phải đến ngay với những sự kiện của phong trào cách mạng to lớn ấy. Bản thảo tập 3 của "Sông Đông êm đềm" đành phải tạm để lại một bên, tác giả lao vào đề tài mới với bộ tiểu thuyết ''Đât vỡ hoang''. Ngày nay đọc hai tập "Đất vỡ hoang" liền một mạch, độc giả thấy mình tiếp xúc với một chỉnh thể hoàn hảo; nếu không được giới thiệu tiếp xúc thì khó mà biết tập 1 và tập 2 ra đời cách nhau hơn 20 năm. Bản thảo dở dang của tập 2 đã bị huỷ hoại trong chiến tranh, tác giả phải viết lại hoàn toàn; đầu năm 1954 những chương đầu của tập 2 mới ra mắt bạn đọc; năm 1960 tác phẩm mới in xong trọn bộ. Nếu như ở tập 1 dồn dập sự kiện bề bộn sôi động của những ngày đầu thành lập nông trang, nổi bật lên những biến đổi xã hội, những sự kiện chính trị; thì sang tập 2 dòng tự sự chậm lại, đi sâu vào những câu chuyện tâm tình, đi sâu vào sự khám phá những ngóc ngách của lòng người; những vấn đề xã hội hiện ra qua những lời tâm sự; âm hưởng trữ tình nổi bật lên. Cũng như ở "Sông Đông êm đềm", người đọc gặp lại ở "Đất vỡ hoang" ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt không khoan nhượng của Sholokhov. Từ những trang sách hiện lên sự thực phong phú đa dạng, đầy mâu thuẫn, rất phức tạp, những sự thật đôi lúc tàn nhẫn, thậm chí tàn khốc, trong sự trần trụi không che giấu, không chút xuê xoa. Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nói đến nghệ thuật trào phúng dí dỏm có những lúc rất táo bạo độc đáo của Sholokhov. Thật là bất ngờ khi người đọc bắt gặp hai tính cách trái ngược nhau là Nagunốp và Suka kề vai sát cánh thành đôi bạn tri âm cùng lắng nghe "dàn nhạc gà trống" giữa đêm khuya. Cũng phải thật cao tay mới có thể dàn dựng nên cả một quá khứ với bao nhiêu nỗi đời cơ cực đắng cay đằng sau những lời lẽ bông phèng ba hoa khoác lác đến chết cười của ông lão Suka. Cái trào phúng dí dỏm, cũng như cái trữ tình thiết tha sâu lắng hay cái hiện thực nghiêm ngặt của Sholokhov bao giờ cũng thấm đượm một tính triết lý thâm thuý, có sức lay động đến tận những chốn sâu thẳm của tâm hồn, buộc người ta phải suy nghĩ băn khoăn cùng với tác giả. Nhờ vậy mà "Đất vỡ hoang" tuy phản ánh một khoảnh khắc của lịch sử ở một thôn nhỏ vùng sông Đông mà đã vượt qua được thử thách của thời gian và sự sàng lọc của lịch sử để trở thành tài sản tinh thần chung của nền văn học thế giới. Đavưđốp, Nagunốp, Radơmiốtnốp, Maiđanhicốp, Varia, Suka và cả Luska nữa, cùng với bao nhiêu nhân vật khác của Sholokhov sẽ còn đi mãi giữa cuộc đời với bao nhiêu bạn đọc trên thế giới.  *** Cuối tháng Giêng, gặp buổi đầu trời trở ấm, các vườn hoa anh đào toả hương thơm ngát. Vào buổi trưa, đây đó là những quãng khuất gió, nếu như trời nắng, vỏ cây anh đào bốc lên một mùi thoang thoảng, rầu rầu, hoà với hơi ẩm nhạt nhẽo của tuyết tan, với hương vị đậm đà, cổ xưa xông lên từ dưới dải đất vừa mới ló ra khỏi lớp tuyết, và tầng lá mục. Hương vị dịu ngọt của muôn hoa cứ quyện lấy vườn tược cho đến lúc bóng đêm xanh lam buông xuống, cho đến lúc vành trăng lưỡi liềm xanh phớt ló ra qua những cành cây trụi lá, cho đến lúc những chú thỏ rừng ăn no béo mỡ nhảy nhót vứt lại trên mặt tuyết những đốm vết chân mịn màng. Thế rồi gió đưa về từ các ngọn đồi thảo nguyên mùi dịu dịu của cây ngải cứu héo khô vì băng giá; hương vị và âm thanh của ban ngày chìm lắng đi và bóng đêm, như một con sói cái lông xám, từ đằng Đông lặng lẽ đổ về, lướt qua những bụi ích mẫu, những đám cỏ dại, những thửa ruộng rạ héo hon, những cánh đồng ải mùa thu nhấp nhô như sóng lượn, để lại đằng sau nó trên thảo nguyên lê thê bóng hoàng hôn chạng vạng. ° ° ° Một tối tháng Giêng năm 1930, trên con đường hẻm rìa thảo nguyên, có một người cưỡi ngựa đi vào ấp Grêmiatsi Lốc. Tới gần ngòi, người ấy dừng con ngựa đã mệt nhoài hai bên sườn sương đóng bết từng mảng, và nhảy xuống. Vầng trăng hạ tuần đã treo lơ lửng bên trên bóng đen ngòm của các vườn cây chạy dọc hai bên con đường hẹp, bên trên những rặng cây dương um tùm như những hòn đảo. Con đường hẻm tối và lặng ngắt. Đâu đó, bên kia con ngòi, một tiếng chó sủa rống lên, một ánh lửa le lói. Người cưỡi ngựa nghếch mũi hít một hơi cái không khí lạnh giá, thong thả tháo một bên găng tay, châm thuốc hút, rồi thít căng đai ngựa lại, lùa mấy ngón tay xuống dưới đệm yên; và, sau khi đã sờ thấy cái lưng nóng hổi và nhễ nhại mồ hôi của con ngựa, y lanh lẹn tung người cao lớn của mình lên yên. Y cưỡi ngựa đi ngang qua con ngòi không bị đóng băng ngay cả mùa đông. Con ngựa, khua móng sào sạo trên lớp sỏi phủ đầy lòng sông, muốn uống nước lắm, nhưng chủ nó thúc, và nó thót bụng nhảy phốc lên bờ sông dốc thoải. Nghe có tiếng nói và tiếng cót két của càng xe trượt tuyết đang đi ngược tới, người cưỡi ngựa dừng cương. Con ngựa dỏng tai nghe ngóng, ngoái cổ lại. Cái đai ngực bạc và chiếc vành yên cao cao viền bạc theo kiểu kô- dắc bắt gặp một ánh trăng bỗng sáng lên trong bóng tối đường làng một tia trắng loé. Người cưỡi ngựa vắt dây cương trên vành yên, vội vã kéo cái mũ kô- dắc lông lạc đà cho tới lúc ấy vẫn thả trễ xuống bên vai, đội lên đầu sụp xuống mặt rồi thúc ngựa rảo nước kiệu. Qua khỏi chiếc xe trượt tuyết, y lại đi bước một như ban nãy, nhưng vẫn không hạ mũ xuống. Vào tới trong ấp, y hỏi một bà đang đi ngược lại: - Này, bác ơi, nhà ông Iakốp Ôxtơrốpnốp ở đâu, hả bác? - Iakốp Lukits ấy hả? - Phải, phải. - Đấy, nhà ông ta ở sau cây dương kia kìa, lợp ngói đấy, ông trông thấy không? - Thấy, cảm ơn bác. Tới trước ngôi nhà rộng lợp ngói, y nhảy xuống, dắt ngựa qua cổng hàng rào và lấy cán roi gõ nhẹ vào cửa sổ. - Ông chủ ơi! Iakốp Lukits, ra cho tôi hỏi tý. Chủ nhà bước ra thềm, đầu trần, áo vét- tông vắt vai, nhìn chằm chằm khách lạ rồi bước xuống bậc tam cấp, vừa mỉm cười trong bộ râu điểm bạc, vừa nói: - Ma đưa quỷ dẫn ông bà nào đến nhà tôi thế nhỉ? - Không đoán ra à, Iakốp Lukits? Cho ngủ nhờ nào. Để con ngựa vào đâu cho ấm tí nhỉ? - Không, anh đồng chí ạ, tôi không nhớ ra anh là ai. Chẳng hay có phải anh ở trên huyện không? Hay bên nông hội? Tôi hơi nhận ra rồi đấy…Tiếng anh nói nghe quen quen… Khách nhếch đôi mép nhẵn thín, mỉm cười, lật mũ trùm ra: - Pôlốptxép. Có nhớ không? Iakốp Lukits bỗng nhớn nhác nhìn quanh, tái mặt đi, thều thào: - Quan lớn! Ngài ở đâu tới thế vậy?...Bẩm ngài đại uý!..Ngựa để đấy con dắt…nhà có chuồng…Chà, thấm thoắt thế mà đã bao nhiêu năm rồi… - Ấy, ấy, khe khẽ chứ! Ừ, lâu lắm rồi đấy… Có chăn đắp ngựa không? Nhà có ai lạ không? Khách trao dây cương cho chủ. Con ngựa uể oải tuân theo những động tác của bàn tay lạ, đầu ngẩng cao, cổ vươn dài, và mệt nhọc lê đôi cẳng sau bước vào chuồng. Nó gõ móng lộp cộp vào sàn gỗ và, đánh hơi thấy cái mùi quen thuộc của một con ngựa khác, nó khịt nhặng xị lên. Bàn tay lạ đặt lên cái tảng của nó, những ngón tay thành thạo cẩn thận tháo cái hàm thiếc nhạt tanh, giải phóng cho đôi lợi ê ẩm của nó. Và con ngựa với một vẻ biết ơn sà vào đống cỏ khô. - Con đã nói đai cho nó rồi, cứ để đóng yên như thế một lát, nó lại sức, ta sẽ tháo. - Chủ nhà vừa nói vừa chăm chút đắp lên lưng ngựa tấm chăn lạnh ngắt. Và sờ nắn bộ đồ thắng ngựa, thấy đai bụng bị kéo căng, dây treo bàn đạp trùng thõng hẳn xuống, lão tự xác định được ngay rằng ông khách đã từ xa đến và trong ngày hôm ấy đã phi một đoạn đường chẳng ngắn. - Nhà có thóc không, Iakốp Lukits? - Có tí ti. Ta cho nó uống nước đã, rồi cho ăn thóc. Nào mời ngài vào nhà, bây giờ xưng hô với ngài thế nào đây, thật cũng chẳng biết nữa… Gọi như trước thì không còn quen mồm, và cũng bất tiện… - Chủ nhà lúng túng mỉm cười trong bóng tối, dù biết rằng khách cũng chẳng trông thấy mình cười. - Cứ tên cúng cơm mà gọi. Còn nhớ không? - Khách miệng hỏi chân bước đi trước ra khỏi chuồng ngựa. - Quên sao được ạ! Dọt bọn Đức mãi với nhau mà, lại cả cái cuộc nội chiến này nữa…Tôi vẫn thường nhớ đến ông đấy Alếchxanđrơ Anhiximôvits ạ. Từ cái buổi chia tay nhau ở Nôvôrôxixcơ ấy, tôi chẳng được tăm hơi gì của ông. Tôi cứ ngỡ ông vượt biển sang Thổ Nhĩ Kỳ với anh em kô- dắc rồi. Họ bước vào gian bếp có đốt lò ấm ran. Khách bỏ mũ trùm và cả chiếc mũ lông trắng đội trong ra, để lộ cái sọ chắc nịch, có góc có bướu, phủ một lớp tóc thưa bềnh bệch. Từ dưới cái trán hói đổ thẳng xuống như trán chó sói, đôi mắt đảo nhìn gian phòng. Và tươi cười nheo nheo đôi mắt màu xanh nhạt lấp lánh giận dữ trong hai ổ mắt sâu, y nghiêng đầu chào hai người đàn bà ngồi trên tấm ghế dài là mụ chủ nhà và nàng con dâu. - Chào bà con mạnh khoẻ! - Lạy Chúa, - mụ chủ nhà dè dặt đáp, đưa mắt nhìn chồng, chờ đợi, như muốn hỏi: "Ông dẫn ai về nhà thế vậy, và tiếp đãi người ta thế nào bây giờ cho phải?". Sau khi mời khách lên nhà trên ngồi vào bàn, lão chủ buông gọn một câu ra lệnh cho vợ: - Dọn gì ăn đi. Ngồi ăn xúp bắp cải thịt lợn, có mặt hai người đàn bà, khách chỉ nói chuyện thời tiết, chuyện bạn bè đồng đội. Cái hàm dưới bành bạnh của khách nom như đẽo bằng đá tảng, cử động một cách khó nhọc; khách nhai chầm chậm, uể oải, như một con bò mộng kiệt sức nằm trên ổ. Ăn xong, khách đứng dậy, ra trước tượng thánh đặt giữa những bông hoa giấy bám đầy bụi, cầu kinh, rồi phủi xong những vụn bánh mì bám trên tấm áo khoác cũ kỹ bó sát vai, nói: - Iakốp Lukits, xin đa tạ về tấm lòng thành! Bây giờ ta nói chuyện. Mụ chủ và cô con dâu líu tíu dọn bàn; và vâng theo đôi lông mày rướn lên ra hiệu của lão chủ, họ lảng xuống bếp. ... Mời các bạn đón đọc Đất Vỡ Hoang của tác giả Mikhail Aleksandrovich Sholokhov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Bay Ariel - Alexander Romanovich Belyaev
Một trong những người đặt nền móng cho truyện khoa học viễn tưởng Xô-viết là A.Beljaev, ông cũng là tác giả của hàng loạt truyện quen thuộc với bạn đọc Việt như Người bay Ariel, Người cá, Bột mì vĩnh cửu. Trong tác phẩm của ông, người đọc nhận thấy được sự sâu sắc, có tính khoa học, hấp dẫn và óc hài hước. Tác giả thậm chí đề cập đến những ý tưởng vô cùng táo bạo về khoa học, kỹ thuật trong tương lai, về ý tưởng chinh phục vũ trụ, sinh vật học, sinh lý học, y học...   Người bay Ariel kể về chàng Ariel có khả năng phi thường: có thể bay mà không cần một thiết bị nào hỗ trợ. Nhưng trong xã hội loài người bóc lột  người, tài năng ấy của anh lại biến thành tại họa, biến Ariel thành một công cụ trong tay bọn tàn độc. Bằng sức phản kháng phi thường của mình, Ariel đã thoát khỏi tay bọn xấu và thực hiện thành công ước mơ được ở bên cạnh người anh yêu thương. *** Alexander Romanovich Belyaev (1884-1942), là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng người Nga. A.Beljaev được đánh giá là một trong những người đặt nền móng cho loại truyện khoa học viễn tưởng Xô-viết. Năm 30 tuổi, Belyaev bị nhiễm bệnh lao. Trong suốt thời kỳ dưỡng bệnh, ông đọc khá nhiều tác phẩm nổi tiếng của các nhà văn như Jules Verne, H. G. Wells, và Konstantin Tsiolkovsky, chúng là nguồn cảm hứng cho những sáng tác sau này của ông. Sau khi khỏi bệnh, Belyaev trở lại Matxcơva và bắt đầu viết văn. Năm 1925 cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đầu tiên của ông - Đầu Giáo Sư Dowell được xuất bản.  Những năm cuối đời, Belyaev vẫn dành phần lớn thời gian cho công việc viết lách. Belyaev chết đói ở thị trấn Pushkin của Liên Xô vào năm 1942 khi thị trấn này bị Đức Quốc Xã chiếm đóng.  Một số tác phẩm nổi tiếng của A.Belyaev có thể kể đến: Đầu Giáo Sư Dowell (1925), Chúa Tể Thế Giới (1926), Người Cá (1928), Bột Mì Vĩnh Cữu (1928), Người Bán Không Khí (1929), Ngôi Sao KEZ (1936), Người Bay Ariel (1941),...   A.Beljaev được đánh giá là "một trong những người đặt nền móng cho loại truyện khoa học viễn tưởng", với những tác phẩm như Người bay Ariel, Người cá, Bột mì vĩnh cửu, Đầu giáo sư Dowel...Các tác phẩm đặc sắc của ông đều mang một nội dung xã hội sâu sắc, trong đó có cả tính khoa học, tính hấp dẫn và tính hài hước. Tác giả đã đề cập đến những vấn đề khoa học và kỹ thuật trong tương lai, chinh phục vũ trụ, sinh vật học, sinh lý học, y học ..v..v và có những dự kiến hết sức táo bạo. Mời các bạn đón đọc Người Bay Ariel của tác giả Alexander Romanovich Belyaev.
Siêu Giàu - Kevin Kwan
Bộ tiểu thuyết được chuyển ngữ với tên "Giới siêu giàu châu Á", gồm ba cuốn. Phần đầu vừa được phát hành dịp 8/3. Hai phần tiếp theo ra mắt lần lượt vào ngày 22 và 29/3. Tác giả loạt sách là Kevin Kwan - một tiểu thuyết gia gốc Singapore. Anh lớn lên trong tầng lớp thượng lưu Singapore. Ông cố của anh là thành viên sáng lập một trong những ngân hàng lâu đời nhất ở quốc gia này. Ông nội anh là bác sĩ nhãn khoa đầu tiên của Singapore được đào tạo ở phương Tây. Trải nghiệm từ thời thơ ấu tạo cảm hứng giúp Kevin viết nên bộ tiểu thuyết. Sau khi xuất bản ở Mỹ năm 2013, Crazy rich Asians (Siêu Giàu) nằm trong top những cuốn sách bán chạy nhất. Tác giả viết tiếp tập hai - Đại tiểu thư (China rich girlfriends,xuất bản năm 2015) và tập ba - Cuộc chiến thừa kế (Rich people problem, xuất bản 2017). Bộ tiểu thuyết đã được mua bản quyền, chuyển ngữ và phát hành ở Trung Quốc, Pháp, Italy, Nhật, Hàn, Brazil, Bỉ, Croatia, Cộng Hòa Séc, Israel, Thái Lan, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ...  *** Crazy Rich Asians kể về mối tình giữa Rachel Chu và Nick Young – hai giảng viên đại học gốc Á tại Mỹ. Theo lời mời của Nick, Rachel theo anh về ra mắt gặp gỡ gia đình anh tại Singapore. Từ đây, cô phát hiện ra thân thế của Nick là một trong những người giàu nhất Singapore. Và mọi chuyện trở nên khó khăn hơn khi cô phải đụng mặt với bà mẹ khó tính của Nick, kèm theo đó là vô vàn bí mật của giới thượng lưu. “Bảy ngày tiếp theo, Charlie dẫn Astrid rong chơi mua sắm ở tất cả mọi khu mua sắm sang trọng tại Paris. Anh mua cho cô một bộ va ly Hermès, hàng chục bộ váy từ đủ mọi nhà thiết kế hàng đầu trong mùa đó, mười sáu đôi giày và bốn đôi bốt, một chiếc đồng hồ Patek Philippe nạm kim cương (mà cô không hề đeo lấy một lần), và một cây đèn nghệ thuật của Didier Aaron. Xen giữa những lần đi mua sắm là những bữa trưa ở Mariage Frères và Davé, ăn tối ở Le Grand Véfour và Les Ambassadeurs, và khiêu vũ suốt đêm trong trang phục sang trọng mới của họ ở Le Palace và Le Queen. Tuần đó tại Paris, Astrid không chỉ phát hiện ra gu thời trang cao cấp của anh; cô còn phát hiện ra một thú vui mới. Cô đã sống mười tám năm cuộc đời bị bao bọc bởi những người có tiền nhưng lại nói không có, những người thích truyền lại mọi thứ thay vì mua mới, những người không biết cách tận hưởng sự giàu có của mình. Tiêu tiền theo kiểu Charlie Wu rất phê – thành thật mà nói thì nó còn phê hơn cả tình dục.”   Mời các bạn đón đọc Siêu Giàu của tác giả Kevin Kwan.
Ngày Cuối Cùng Của Một Tử Tù - Victor Hugo
Đại văn hào Pháp trăn trở về quyền sống con người qua suy tư của một kẻ tử tù trước khi lên đoạn đầu đài. Tác phẩm viết năm 1829 của Victor Hugo được dịch và ra mắt tại Việt Nam nhân Ngày sách Việt Nam lần thứ ba. Tại buổi tọa đàm ra mắt sách, thầy Trần Hinh - giảng viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội - cho rằng dù không tầm cỡ như Những người khốn khổ hay Nhà thờ Đức Bà Paris, tác phẩm Ngày cuối cùng của một tử tù đóng vai trò hết sức quan trọng vì nó chứa đựng gần như đầy đủ phong cách, mô típ, nhân vật và chủ đề quen thuộc trong sáng tác văn xuôi của Victor Hugo. Ngoài ra, nó chứa đựng những tâm sự nhức nhối của nhà văn suốt đời đấu tranh cho quyền được sống của con người.   Tác phẩm ghi lại 24 giờ cuối cùng của cuộc đời một tử tù qua nhật ký của nhân vật xưng tôi - nhân vật không tên tuổi, lai lịch, không nguồn gốc tội lỗi, không ai biết anh ta phạm tội gì đến nỗi trở thành tử tù. Anh ta kể về không gian sinh tồn là nhà tù, những con người va chạm với anh ta trong 24 giờ đó là bạn tù, linh mục, cai ngục… và những người phụ nữ trong tâm tưởng gồm mẹ, vợ và con gái. Tất cả những suy tư đó đan xen với dòng suy nghĩ về việc anh ta sắp bị thi hành án. Tác phẩm này gần như chứa đựng đầy đủ phong cách, mô típ nhân vật và chủ đề quen thuộc trong sáng tác văn xuôi của Victor Hugo. Đặc biệt hơn nữa, có lẽ đây là tác phẩm chứa đựng nhiều tâm sự thầm kín, những nhức nhối khôn cùng của một nhà văn suốt đời đấu tranh cho quyền “được sống” của con người: án tử hình và sự xóa bỏ vĩnh viễn nó khỏi cuộc sống nhân loại. Mời các bạn đón đọc Ngày Cuối Cùng Của Một Tử Tù của tác giả Victor Hugo.
Trên Bãi Biển Chesil - Ian McEwan
Cuốn tiểu thuyết mỏng, và tuyệt đẹp, nơi Ian Mc Ewan tái hiện bối cảnh nước Anh vào thời khắc ngay trước khi cuộc cách mạng tình dục bùng nổ, với tất cả sự ngột ngạt, bi hài của nó qua câu chuyện tình giữa Edward và Florence. Cuối cùng thì điều họ lo sợ đã xảy ra! Trên bãi biển Chesil, có hai kẻ đang giận giữ, đau đớn, và ghê tởm lẫn nhau sau đêm đầu tiên đổ vỡ. Trên bãi biển Chesil, nơi họ từng mơ tới cảm giác tự do thực sự của những người trưởng thành, cũng là nơi kết thúc cuộc hôn nhân ngắn ngủi. Nước Anh những năm sáu mươi, một thế hệ lớn lên sau Thế chiến thứ hai, đã mệt mỏi vì sự khắc khổ và dè sẻn của những năm hậu chiến, ngột ngạt với những giá trị thời Victoria, và sẵn sàng chống lại những mẫu hình và tập tục của thế hệ đi trước. Lady Chatterley’s Lovers của D.H.Lawrence giành được quyền xuất bản sau vụ kiện tụng ầm ỹ, và ngay lập tức trở thành best-seller với hai triệu bản bán ra sau 40năm cấm đoán. Trong đoạn đầu bài “Annus Mirbalilis”, Philip Larkin viết về những năm tháng này: "Chuyện ái ân đã bắt đầu / Vào năm một chín sáu ba/ (có phần hơi muộn với ta) / Giữa sự chấm dứt của lệnh cấm “Chatterley” / Và vòng quay đĩa đầu tiên của nhóm Beatles”. Cuộc cách mạng tình dục sắp bùng nổ. Nhưng chuyện của Edward và Florence lại diễn ra ngay trước thời điểm tự do ấy, năm 1962, khi báo chí còn “kín đáo gợi ý cho các cô dâu việc cần làm bằng giọng văn vui vẻ, la liệt dấu chấm câu cảm thán và hình minh họa đánh số”, và các chàng trai thì háo hức một cách tuyệt vọng về chuyện tình dục, như Ian Mac Ewan diễn tả trong cuốn sách của mình: “Thần dược tránh thai là một tin đồn trên báo chí, một lời hứa hẹn ngớ ngẩn, một câu chuyện lá cải nữa về nước Mỹ… Nhạc pop thì ngoan hiền, vẫn còn rụt rè về đề tài đó, phim ảnh cởi mở hơn một chút, nhưng trong vòng tiếp xúc của Edward, đàn ông buộc phải hài lòng với những chuyện cười tục tĩu, những câu huênh hoang về tình dục một cách gượng gạo và tình bằng hữu sóng gió trong những bữa rượu điên cuồng, khiến cơ hội gặp gỡ con gái càng giảm đi thêm nữa. Những thay đổi trong xã hội không bao giờ diễn ra với nhịp điệu trơn tru. Có tin đồn rằng ở khoa Anh văn, và dọc đường chỗ trường Đông phương học - Phi châu học, dọc đường Kingsway chỗ trường Kinh tế London, đàn ông và đàn bà mặc quần bò bó đen và áo len cổ lọ quan hệ tình dục dễ dãi và thường xuyên, không cần phải gặp cha mẹ. Thậm chí còn nghe kể về những điếu cần sa vấn chặt nữa. Thỉnh thoảng Edward làm cuộc thử nghiệm, đi dạo từ khoa Lịch sử tới khoa Anh văn, hy vọng tìm thấy bằng chứng về một chốn thiên đường trên trái đất, nhưng những hành lang, những bảng thông báo, và thậm chí cả những cô gái nữa, trông cũng chẳng khác gì”. Trên cái nền bối cảnh xã hội ngột ngạt và bi hài, khi mà “trò chuyện về những trở ngại trong tình dục là điều không thể”, Trên bãi biển Chesil được mở ra như thế này “Họ còn trẻ, có học thức, và cả hai đều còn trinh trong cái đêm đầu tiên, đêm tân hôn của họ”. Câu chuyện, sau đó được dệt nên từ những diễn biến tâm lý đa chiều (và căng thẳng!) của hai kẻ còn trinh ấy. Trong thời khắc được xã hội nhìn nhận là quyết định của cuộc đời một con người, khi cả hai chính thức trưởng thành và được phép khám phá cơ thể nhau một cách hợp pháp và phải đạo, thì mỗi người lại bị giam cầm trong những bối rối của riêng mình, với Edward là nỗi lo “sẽ gặp điều mà anh đã nghe ai đó miêu tả là “tới quá sớm”, còn Florence nghiêm trọng hơn nhiều, khi cô “phải trải qua một cơn sợ hãi mang tính bản năng, một sự kinh tởm vô vọng có thể cảm thấy rõ rệt như say sóng”. Ian Mc Ewan, thấu hiểu và kỹ lưỡng đến đáng ngạc nhiên, với khả năng đi sâu vào từng ngõ ngách tâm lý của nhân vật, và diễn tả tỉ mỉ từng biến động nhỏ nhất trong cơn kinh hãi của hai kẻ chưa-biết-gì, đã lần đầu tiên đưa người đọc bước vào căn phòng đêm tân hôn với hình ảnh chiếc giường hẹp trải ga trắng có bốn chiếc cọc màn được lặp đi lặp lại như một nỗi ám ảnh. Tâm trạng căng thẳng của cả hai nhân vật đều được cụ thể hóa thành những rung động thể chất gây ấn tượng mạnh với độc giả “Edward mỉm cười trong lúc ngả người ra sau, tay vẫn cầm ly rượu vang và gọi với ra sau lưng… nhưng cánh tay cầm ly rượu run run trong lúc anh đang gắng sức kiềm chế niềm hạnh phúc bất ngờ, sự phấn khích của anh” hay “Anh cảm thấy một áp lực kinh khủng thu hẹp những ý nghĩ của mình, ngăn cản lời của mình, và anh đang chịu đựng phiền toái lớn về thể chất - quần ngoài hay quần lót của anh có vẻ đã co lại”, riêng với Florence cảm giác về đêm đầu tiên được đồng nhất với những cơn buồn nôn thể nặng “bất cứ khi nào ý nghĩ hướng về một cái “ghì sát” - cô không thích bất cứ thuật ngữ nào khác - dạ dày cô thắt lại đau đớn và cô thấy tanh tanh nơi cuống họng”. Khốn khổ! Có điều gì đang xảy ra với hai con người này? Ian Mc Ewan đã tìm lời giải trong quá khứ, nơi người đọc gặp lại cậu bé Edward, con cả trong một gia đình nghèo có người mẹ điên sau một tai nạn và người cha một mình chèo chống mọi việc. Còn Florence lớn lên bên bà mẹ trí thức lạnh lùng xương xẩu và ông bố giàu có và dâm đãng. Trong khi Eward tôn thờ Rock & Roll thì Florence khinh rẻ bà mẹ không biết đến một nốt nhạc, cô theo học trường Cao đẳng âm nhạc Hoàng Gia để trở thành một nghệ sĩ vĩ cầm trong tương lai không xa. Cô tôn thờ những thính phòng lạnh lẽo, những thính giả am tường, nhưng già nua như những hóa thạch với đốt tay sưng vù vì viêm khớp. Edward biết về tình dục như những thìa chất lỏng tự tạo trong chốc lát để thanh thản trở lại với bài vở và công việc nghiên cứu của mình. Florence biết về tình dục qua những cuốn cẩm nang úp úp mở mở, những ký ức mù mờ về nhiều chuyến đi xa với bố năm mười hai tuổi, và cô ghê tởm nó. Hai con người khác biệt tình cờ gặp nhau trong cuộc họp của những người phản đối vũ khí hạt nhân (!), và ảo tưởng lập tức xuất hiện trong ý nghĩ của Edward “Cô mặc một chiếc váy vải bông trắng xòe ra như váy dạ hội, thắt lưng da nhỏ màu xanh da trời khít quanh eo. Trong dây lát, anh nghĩ cô là y tá; một cách trừu tượng và tiện lợi, anh thấy các cô y tá khá gợi tình, bởi họ - anh thích tưởng tượng như vậy - đã biết hết mọi điều về cơ thể anh và những nhu cầu của nó”, và sau này “Anh đã có một lịch sử khá dài đụng độ với tính thẹn thùng của Florence… nhầm lẫn mà coi đó là một kiểu e thẹn, một tấm mạng theo thói thường che đậy khả năng tình dục giàu có”. Florence, trái lại, thích ở bên người đàn ông này như một người bạn, người cha, một tình yêu không gợn chút nhục dục. Ian Mc Ewan dành hơn một nửa cuốn tiểu thuyết mỏng của mình để tái hiện lại trước mắt người đọc bối cảnh thời đại, câu chuyện gia đình riêng rẽ và nỗi ám ảnh quá khứ của mỗi người, trước khi trở lại câu chuyện đêm tân hôn. Và qua sự hồi tưởng ấy, người đọc phần nào hiểu được khác biệt về nguồn gốc xuất thân, những ràng buộc của xã hội và thời đại, bí mật thời thơ ấu, và đặc biệt là sự mải mê chạy theo mẫu hình mình ao ước của mỗi người hơn là cố công tìm hiểu bản chất thực của người kia đã dẫn họ đến đêm nghẹt thở này. Thêm một điểm nhấn cuối cùng, khi Edward không còn đủ sự kiên nhẫn của một chú rể năm 1962, họ vĩnh viễn xa nhau trên bãi biển Chesil, như những viên sỏi cuội tròn trịa nhưng đơn độc, và không bao giờ được kết nối, trên dải đời dằng dặc này. Một tiểu thuyết mỏng, được viết tốt, đặc biệt ở những đoạn diễn tả tâm lý nhân vật, dù cuốn sách không thật sự hoàn hảo khi sự phân bố độ dài ngắn giữa các chương khiến người đọc khó tập trung nắm bắt được cái mạch chính của tác phẩm, đồng thời tính logic giữa các chi tiết không đủ chặt chẽ để dẫn đến cái kết về một tình yêu tuy đổ vỡ, nhưng sâu nặng và chân thành. Có lẽ, sự hoàn hảo của Trên bãi biển Chesil nằm ở khía cạnh khác, đó là những đoạn tả cảnh như thế này “Một cơn gió đổi chiều hoặc mạnh lên đem lại tiếng sóng vỗ, giống như âm thanh thủy tinh vỡ xa xa. Màn sương đang dâng lên làm lộ ra một phần đường viền những ngọn đồi thấp, lượn phía trên bờ biển càng ngày càng xa về phía Đông. Họ nhìn thấy khoảng mượt mà màu xanh dạ quang - có thể là mặt nước ánh như lụa của chính biển, hoặc của khu phá, hoặc bầu trời - thật khó phân biệt. Ngọn gió nhẹ đổi chiều mang qua cánh cửa chớp khép hờ một sự cám dỗ, mùi hương mằn mặn của oxy và khoảng không rộng mở…”. Không rõ, từ khi Trên bãi biển Chesil ra đời, đã có thêm bao nhiêu người đặt chân lên bãi biển sỏi cuội ấy, vì cuốn sách? *** Trên bãi biển Chesil chỉ miêu tả vài giờ khắc ngắn ngủi trong đêm tân hôn của hai người mới ngoài 20 tuổi, nhưng lại dồn nén trong đó nhiều suy tư và những trải nghiệm trong cuộc đời lạ lùng này. Ở đó, vào năm 1962 có một “cơn bão” đã đổ bộ vào đêm tân hôn của Edward và Florence – những con người còn rất trẻ và có học thức. Ðó là cơn bão được tích tụ từ “tính cách và quá khứ của hai người, sự thiếu hiểu biết và nỗi sợ hãi, tính nhút nhát, mẫn cảm, thiếu các quyền hoặc trải nghiệm…”. Có một câu mà những người trẻ tuổi rất hay gặp trước, trong và thậm chí là sau khi quyết định sẽ gắn bó đời mình với một người nào đó, rằng liệu mình đã sẵn sàng chưa? Những người lớn thường tự nhủ sẽ bằng một cách nào đó giúp con cái không vấp lại những lỗi lầm mình đã từng vấp, khóc lại những giọt nước mắt mà mình đã từng khóc. Nhưng điều tự nhủ đó cũng giống như những quyển sách được xếp vào ngăn “Làm thế nào”, tỉ như Làm thế nào để trở thành một người chồng hoàn hảo? hoặc Bảy bước đi tới một gia đình hạnh phúc – tức là một kiểu chìa khóa không thể mở được hết tất cả các cánh cửa của ti tỉ ngôi nhà trên mặt đất này. Bởi rất đơn giản là có những điều không trường lớp nào, không thầy cô nào, không sách vở nào, không cha mẹ nào, không bạn bè nào, hoặc thậm chí là không kinh nghiệm đau thương trước đó nào có thể dạy dỗ ta được. Trong một số chủ đề nhất định, mỗi người trẻ – mỗi viên sỏi trong bãi biển rộng lớn của cuộc đời này – sẽ phải đơn độc trong hành trình tìm kiếm và tìm thấy những bài học nào đó bằng việc tự mình trải nghiệm nó. Và trong hành trình đơn độc đó có một thái độ mà người trẻ rất cần phải chuẩn bị cho mình, chính là sự cởi mở. Cởi mở trước hết là với chính bản thân mình, sau đó đến những người mình thương yêu, và sau nữa là với phần còn lại của thế giới này. Như Haruki Murakami từng đề cập trong Rừng Na Uy – cũng là một câu chuyện về những người trẻ tuổi khác: “Chuyện gì sẽ xảy ra khi người ta cởi mở cõi lòng mình? Người ta sẽ tốt lành hơn”. Tất nhiên đó không chỉ là điều mà ta có thể cảm nhận được từ cuốn tiểu thuyết mới nhất của Ian McEwan – cuốn sách được vào danh sách đề cử Giải Booker 2007.   Mời các bạn đón đọc Trên Bãi Biển Chesil của tác giả Ian McEwan.