Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút

Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Truyện tình báo Liên Xô Người dịch: Nguyễn Thụy Láng NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA HUẾ - 1987 Số trang: 240 Dịch từ nguyên bản tiếng Nga BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Báo Tiểu thuyết - Tháng 6-1984 àu ngầm «Van-ki-ri-a» mất tích Vào tháng sáu năm 1944, chiếc tàu ngầm của hải quân Đức mang tên Van-ki-ri-a bị mất tích. Khi thời hạn thẩm tra kết thúc, thì ở căn cứ hải quân, nơi chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a có trong danh sách, các tàu khác đã treo cờ rủ và các sĩ quan đều mang băng tang. Ban tham mưu xếp nó vào danh sách các tàu ngầm và thủy thủ bị mất tích, còn người thân của các thủy thủ thì được biết là họ đã hy sinh anh dũng trong một trận chiến đấu với kẻ thù của nước Đức vĩ đại. Ít người được biết số mệnh thật sự của chiếc tàu ngầm này. Hành trình các chuyến đi kéo dài của nó người ta lại càng biết ít hơn. *** Một người dáng vóc vạm vỡ, bắp thịt nở nang, da rám nắng, từ biển bước lên bãi tắm óng ánh cát vàng, gạt những giọt nước đọng trên mình rồi thủng thẳng đi dọc theo mép nước. Giờ này trên bãi tắm Ca-pa-ca-ban ở Ri-ôđơ Gia-nê-rô chỉ có ít người. Từ Đại Tây Dương, từng luồng gió mát thổi vào sâu trong lục địa xô bạt luồng khí nóng oi bức đang bốc lên từ những con đường rải nhựa của thành phố. Hắn ta đứng lại, lấy chân hất chiếc vỏ ốc nửa chìm nửa nổi trong cát. - Chào Ghéc-man! Người đàn ông đứng tuổi có bộ râu hung hung kiểu thủy thủ với thân hình rắn chắc cất tiếng chào. Y đang nằm ngửa cách Ghéc-man chừng dăm bước và bây giờ lật sấp, chống khuỷu tay nhỏm dậy, đưa tay che mắt cho khỏi bị chói nắng. - Chào bác sĩ Dên-khốp! Ghéc-man đáp lại rồi ngồi xuống cát bên cạnh y. - Anh đến muộn 15 phút đấy. - Có một chuyện hoàn toàn tình cờ, thưa bác sĩ. Ghéc-man nói. - Khỏi cần chi tiết. Ta hãy nói vào việc đi. Mong sao anh tránh khỏi được mọi chuyện tình cờ, chàng trai ạ. - Thuyền đã đến vào đêm qua. Đội thủy thủ đã được bố trí ngay tức khắc, và bây giờ chắc là đang vung tiền vào tiệc rượu chè. Trên thuyền chỉ còn lại thuyền trưởng và một gã Mê-hi-cô tên là Pê-rết. - Thế gã Pê-rết này làm việc ra sao? - Một chàng trai đáng tin cẩn. Có thể trông cậy vào anh ta. - Bọn họ chỉ có hai người thì không thể đưa thuyền ra khỏi cảng được! - Vâng, tất nhiên, nhưng tôi đã chuẩn bị thêm hai người nữa. Ghéc-man trả lời. - Hãy thận trọng đấy ! Đừng quên rằng chính phủ nước này, về hình thức, đang theo con đường trung lập. - Tôi hiểu ngài. Thưa bác sĩ. Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra ở đâu ạ? - Ở vuông 27-15. Các anh cần phải có mặt ở đấy từ 23 giờ đến nửa đêm. Tín hiệu - pháo lửa đỏ để mọi góc độ nhìn thấy rõ và ở phía dưới là những đốm sáng xanh. Anh sẽ bắn pháo hiệu. Họ sẽ tự tìm đến chỗ anh. Mật khẩu của họ «Chào buổi sáng». Anh sẽ trả lời: «Địa bàn bị hỏng, bây giờ đêm nào cũng lạnh». - Tất cả đã rõ. Ngay đêm nay ạ? Ghéc-man hỏi. - Chính đêm nay. Hàng chở trên tàu là bao nhiêu? - Một trăm sáu mươi tấn - Ghéc-man trả lời. - Một trăm tấn ở dạng thỏi, còn lại là tiền đúc. Bác sĩ Dên-khốp cau mày. - Phải đúc lại tất cả. Với những số tiền đúc ấy thì nguy hiểm hơn đấy. Ghéc man nhún vai. - Đấy không phải là điều quan tâm của chúng ta, thưa bác sĩ. - Ghéc-man đáp... - Phải. - Dên-khốp xác nhận. - Thôi, đi đi, Ghéc-man! Trước tiên hãy xuống nước, sau đó lên bờ, ở đâu thì tùy ý. Ban ngày hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay anh phải đứng trước một công việc khó khăn nặng nề đấy. Hãy nhớ nhé: Ô vuông 27-15. *** Con cá Ma-rơ-lin to lớn lao nhanh vào tấn công. Đàn cá chuồn vọt lên, bay trên mặt nước, giương những cặp vây dài lướt sẹt trong màn đêm dày dặc để thoát nạn... Một lúc sau chúng lại hạ xuống nước. Chỉ còn một con vì bay cao hơn cả đàn nên không trở về với biển được. Bị mắc vào kính tiềm vọng, nó rơi xuống dưới chân những người đang đứng trên cầu tàu, chút nữa làm rơi chiếc mũ lưỡi trai của viên chỉ huy tàu. - Đồ dơ dáy! - Viên chỉ huy rủa rồi lấy chân hất con cá chuồn vào một góc. - Nửa giờ nữa là đến hẹn! - Tê-ô-đo Phôn Bết-man nhận định. - Anh tin rằng chúng ta đang ở đúng địa điểm đã định chứ? - Viên chỉ huy hỏi. - Hoàn toàn tin chắc. - Tốt. Chúng ta chờ đợi vậy. Chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a đã tắt đèn, đậu đúng ô vuông 27-15 trong tư thế chiến đấu: thân tàu dài và hẹp ẩn chìm dưới nước, chỉ có buồng chỉ huy, như một mỏm đá ngầm, nổi mập mờ trên mặt nước khó mà đoán nổi trong đêm tối. Địa điểm chúng ta đậu đúng trên chí tuyến Ma-kết. Viên thuyền phó thứ nhất phá tan sự im lặng. Trong khi đó chiếc thuyền «Ô-ri-nô-cô» đang tiến đến địa điểm hẹn. Vài giờ trước, dưới sự chỉ huy của Han-xơ Đrê-vít, một người Đức sinh ra ở Ác-hen-ti-na, con thuyền rời cảng Ri-ô đơ Gia-nê-rô ra khơi. Các nhà chức trách trên cảng theo thông báo của viên thuyền trưởng đã nhận xét trong các giấy tờ: cảng đến là Xan-tô Ca-ra-vê-lốc; hàng chuyên chở là máy khâu, đoàn thủy thủ gồm năm người. Đứng bên cạnh viên thuyền trưởng trên mạn tàu là người giúp việc có vẻ mặt rầu rĩ, đó là Pê-rết, mà trước đây theo lời đồn là một tên cướp sừng sỏ, gốc Mê-hi-cô. Ở đây còn có cả Ghéc-man và hai thủy thủ bỏ trốn từ chiếc tàu thủy Ác-hen-ti-na vì bị cám dỗ bởi viễn cảnh sẽ kiếm thêm chút đỉnh trong chuyến đi này. Tên chúng là Jô và Lu-ít. Trên thuyền gắn một máy nổ công suất lớn. Giờ đây, thuyền Ô-ri-nô-cô đang đi vào ô quy định, viên thuyền trưởng và Ghéc-man nhìn về phía trước. Pê-rết đứng bên tay trái, các thủy thủ đang chơi xúc xắc trong buồng của họ. - Có lẽ ta đã đến địa điểm - Viên thuyền trưởng nói và cho thuyền chạy chậm lại. - Dừng máy và chuẩn bị lửa hiệu. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ bắt đầu. Trên bầu trời, một phát pháo hiệu đỏ bùng lên như một ngôi sao và phía dưới nó nhấp nháy một đốm lửa xanh. *** - Lẽ ra đã đến lúc họ phải xuất hiện. Viên chỉ huy tàu ngầm Van-ki-ri-a vừa càu nhàu vừa đưa chiếc đồng hồ dạ quang lên tận mắt. - Mới quá có 10 phút. Phôn Bết-man trả lời - có thể họ đến muộn. - Thế anh tin chắc rằng chúng ta đang ở đúng vị trí ta phải có mặt chứ? - Viên chỉ huy hỏi lại. Tê-ô-đo Bết-man nói với vẻ bực mình: - Tôi đã đích thân kiểm tra lại những tính toán của hoa tiêu. Chính ông cũng có thể thấy rõ được điều đó. - Tôi đã thấy các đốm lửa rồi! - Tên nhận tín hiệu kêu lên. - Không thể nói khẽ hơn được à! - Viên chỉ huy càu nhàu - các anh không phải đang đi dạo chơi ở ngoại ô đâu nhé. Đứng bên bánh lái đi. Việc chuyển các hòm nặng từ thuyền lên tàu ngầm kéo dài đến tận lúc rạng đông. Tham gia vận chuyển có đoàn thủy thủ của cả hai chiếc tàu và thuyền. Pê-rết đã hai lần xuống tàu ngầm và trở về với một chai rượu vốt-ca chính phẩm trên tay. Trong một lần đi như vậy, chớp lấy thời cơ khi trong khoang không có ai. Pê-rết đã nhanh như cắt rút từ trong áo khoác ra một hộp kim loại dẹt to như hộp thuốc lá, cúi xuống nhét dưới một ống chạy dọc theo boong tàu Van-ki-ri-a. Đến sáng, tất cả các máy khâu đã nằm gọn trong chiếc bụng thép của tàu Van-ki-ri-a. Ghéc-man lên cầu tàu nói thầm vào tai viên chỉ huy khoảng 5 phút, sau đó trở về thuyền Ô-ri-nô-cô. Các thủy thủ tàu Va-ki-ri-a tháo dây buộc, và cả tàu lẫn thuyền đều tiến theo các hướng khác nhau. - Chúng ta đi lên phía bắc chứ, thuyền trưởng? - Ghéc-man nói - đến Rê-xi-phi, Pê-rết hãy đứng lên bánh lái đi. Ta muốn ứng tiền trước cho mấy anh bạn này. Ê! Jô, Lu-ít! Các thủy thủ đang ngồi trong khoang thuyền, buông thõng những cánh tay rã rời vì khuân vác từ đêm đến giờ, nặng nề đứng dậy đi về phía Ghéc-man đang đứng bên cửa buồng điều khiển. - Các chàng trai ơi, các anh giỏi lắm - Ghéc-man nói - các bạn nghĩ sao về một hớp rượu ngon và mấy đồng tạm ứng? Jô, một lên lai lực lưỡng, cười sung sướng và nhảy cẫng lên ở trên boong. - Tốt quá, thưa ông chủ, tốt quá! - Hắn nói. Lu-ít, một tên Ấn Độ bán thuần chủng có thân hình dài ngoằng và gầy gò, mỉm cười rụt rè. - Các bạn, hãy cầm lấy rượu và tiền đây này! Và có thể nghỉ ngơi được! - Ghéc-man nói. Các thủy thủ xoay lưng lại, sánh vai nhau đi về buồng thủy thủ ở phía mui thuyền. Ghéc-man nhìn viên thuyền trưởng đang đứng bên chiếc cửa sổ mở của buồng điều khiển, hắn đưa mắt về phía tấm lưng to bè của Lu-ít và dùng tay trái lấy khẩu súng máy trong chiếc tủ con ra. Những tiếng nổ vang lên liên tiếp. Lu-ít khựng lại, ngã sấp mặt xuống boong, co giật rồi hết cựa quậy: chai rượu từ từ tuột khỏi tay hắn. Viên đạn làm cho Jô sững lại dường như có một bức tường bỗng hiện lên trước mặt hắn. Hắn đứng sững trong giây lát, không nhúc nhích và thế là Ghéc-man lại nâng khẩu súng máy lên một lần nữa. Chỉ có điều hắn chưa kịp bắn thì Jô đã đột ngột quay ngoắt lại, đôi mắt mất hết thần sắc, nhìn thẳng, tiến về phía Ghéc-man đang giương súng. Jô tiến lại gần, còn Ghéc-man thì giật lùi về buồng điều khiển. Cuối cùng, trong buổi sáng yên tĩnh của biển khơi vang lên những tiếng nổ chát chúa của loạt súng máy, những viên đạn từ nòng súng bay ra cắm ngập và xé nát tấm ngực nở nang của tên lai. Hắn bước thêm được một bước cuối cùng, rồi thở khè khè đứt đoạn: - Ông... chủ... sao... lại… *** Hành trình của chiếc tàu ngầm hải quân Đức Van-ki-ri-a trong một thời gian được thực hiện trên mặt nước. Sau đó, viên chỉ huy ra lệnh bắt đầu lặn, vì tàu đi ngang qua khu vực nhiều tàu bè và thủy thủ tàu ngầm Đức không muốn để một ai phát hiện ra mình. - Tê-ô-đo, tôi sẽ ngủ chừng hai tiếng - viên chỉ huy nói với Phôn Bết-man - hãy cho tàu chạy về phía đảo Mác-tin Vác, từ đó ta sẽ rẽ về hướng xích đạo. Hai giờ nữa tôi sẽ thay ca cho anh. Tê-ô-đo suy nghĩ về những điều ngang trái mà số phận đã ném hắn - một sĩ quan tàu ngầm xuất sắc - vào cái hộp thép nhét đầy những máy khâu để thay thế cho những quả thủy lôi khủng khiếp. Tê-ô-đo Phôn Bết-man, tất nhiên hiểu rằng món hàng này quan trọng đối với nước đại Đức biết chừng nào. Nhưng công việc của hắn là đánh chìm các tàu địch chứ không phải là lẩn tránh giữa đại dương trên chiếc tàu ngầm không có máy phóng ngư lôi. Hắn liếc nhìn đồng hồ, mắng nhiếc tên cầm lái đã làm tàu lệch hướng mất 3 độ và lom khom chui qua những chiếc cửa hình ô-van của các ngăn buồng đi đến ca-bin. Song, Tê-ô-đo Phôn Bét-man đã không kịp tới đó. Một luồng khí nén từ phía sau xô hẳn ngã chúi xuống, đập cằm vào khung cửa. Hắn thấy đau ở cằm. Sau đó, viên thuyền phó thứ nhất không còn cảm thấy được gì nữa. Tên cầm lái ở vị trí trung tâm thấy lớp vỏ bọc có một chỗ bị bung vào phía trong và một dòng nước đen ngòm cuồn cuộn chảy về phía hắn rồi cuốn lấy hắn, vò xé hắn và dìm hắn chết ngập. Viên chỉ huy cũng chết ngập trong nước không kịp dậy. Các thủy thủ trong khoang mũi của tàu thì còn sống sót được một ít vì tiếng nổ làm cho chiếc tàu đứt làm đôi, nhưng phần mũi vẫn còn đủ kín. Chiếc quan tài bằng sắt vừa nhào lộn vừa chìm sâu xuống đáy đại dương, và ở đây nó bị một lớp nước dày chừng 300 mét đè lên. Chừng nửa dặm về bên phải, chiếc tàu chở hàng đang chạy từ Ri-ô Grăng đi Môn-rô-via thấy một vòm nước nổi lên lóng lánh dưới ánh mặt trời. Cột nước chùng chình giây lát rồi sau đó vỡ tung ra, gây nên sự kinh hoàng cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu Bra-xin mang tên «Xao-pao-lô». Khoảng đen lấp lánh các màu lan rộng ra ở ngay chỗ vòm nước đã biến đi. Con tàu quay mũi đến gần nó, hạ xuồng, bắt đầu lượm lặt những mảnh vỡ và xác chết bị tung lên cùng với những bóng nước bị vỡ ra trên mặt biển. Bấy giờ là thời chiến và thuyền trưởng tàu «Xao- pao-lô» cấm không được báo tin về sự kiện đã xảy ra. Viên thuyền trưởng cố xác minh quốc tịch của những xác người đã được thủy thủ mình vớt lên, nhưng việc đó không thể được. Chẳng có giấy tờ gì, chẳng một dấu hiệu nào ngoài những dấu hiệu về chủng tộc. Ông ta không tìm được gì hết. *** Chiếc tàu ngầm «Van-ki-ri-a» bị mất trong tình trạng bí ẩn đối với các nhà chỉ huy Đức, nó chở 160 tấn ni-ken dưới dạng thỏi cùng với tiền đúc của Mỹ và Ca-na-đa. Ni-ken - một kim loại ánh bạc có giá trị bậc nhất trong bảng tuần hoàn của Men-đê-lê-ép với ký hiệu 28, là kim loại khó nóng chảy, cứng và không bị biến đổi trong không khí. Ni-ken trở thành một vấn đề nan giải đối với nước Đức cũng như nhiên liệu và còn có thể nan giải hơn. Dầu sao thì dầu lửa còn có thể thay thế được. Còn ni-ken thì không. Thiếu ni-ken không thể có vỏ thép. Thiếu vỏ thép không thể có xe tăng. Thiếu xe tăng thì không chiến thắng nổi trên những chiến trường của đại chiến thế giới lần thứ II. Thiên nhiên đã bớt xén, không cho nước Đức đủ ni-ken. Ở thung lũng sông Ranh chỉ có một trữ lượng ni-ken không đáng kể. Phần lớn ni-ken nước Đức phải mua của Ca-na-đa. Chiến tranh bắt đầu và nước Đức bị mất đi nguồn ni-ken từ Ca-na-đa. Hít-le chiếm được Hy-lạp và cùng với nó là các mỏ ni-ken. Nước chư hầu Phần Lan mở rộng cửa các mỏ ni-ken ở miền Bắc tại vùng Pết-xa-mô cho người Đức. Ở đó có các tù nhân và tù binh làm việc. Cả một quân đoàn SS đảm nhận bảo vệ các hầm mỏ và đảm bảo khai thác, liên tục loại quặng pyrit đỏ có hàm lựợng ni-ken và gửi về các nhà máy luyện kim ở Đức. Khi xe tăng T-34 của Liên Xô xuất hiện trên các chiến trường, các chuyên viên Đức kinh ngạc bởi độ bền của vỏ thép các xe tăng dó. Theo mệnh lệnh từ Béc-lin, chiếc xe tăng T-34 đầu tiên chiếm được đã được đưa về Đức. Ở đây, các nhà khoa học đã phân tích vỏ thép của nó. Họ xác định rằng vỏ thép của xe tăng Nga có một tỷ lệ ni-ken cao và do đó vỏ thép này cực kỳ bền vững. Việc thiếu ni-ken trong vỏ thép đã dẫn đến tình trạng là cho đến năm 1944, các nhà máy quốc phòng của Đức quốc xã phải sản xuất xe tăng vỏ dày hơn bình thường. Nhưng ngay vỏ như vậy vẫn dễ bị phá vỡ và các xe tăng «con hổ» «con báo» «phéc-đi-năng» rõ ràng là nặng nề hơn và yếu thế hơn các xe tăng và xe tự hành của Liên Xô. Ni-ken và ni-ken! Cần nhiều ni-ken hơn nữa! Mời các bạn đón đọc Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút của tác giả Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Địch Công Kỳ Án Tập 16: Quảng Châu Án - Robert Van Gulik
Năm 680, Địch Công đã là Đại Lý Tự Khanh ở triều đình. Ông vi hành đến Quảng Châu, vùng đất cảng, nơi giao thương của dân tứ xứ (Trung Hoa, Ả Rập, Ba Tư) để điều tra vụ mất tích bí ẩn của Ngự sử Đại phu Liễu Đạo Viễn. Địch Công nghi ngờ ông ta đến đây để tìm hiểu lời đồn về âm mưu phản loạn của người Hồ. Trong quá trình điều tra, những nhân vật có liên quan mật thiết tới vụ án lần lượt bị sát hại, khiến bí ẩn càng chất chồng bí ẩn... Thực hư vụ mất tích của Ngự sử Đại phu cùng những vụ án mạng đó là gì? Liệu chúng có thực sự liên quan đến âm mưu phản loạn của người Hồ như Địch Công đã phán đoán ban đầu hay không? *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 16: Quảng Châu Án  của tác giả Robert van Gulik.
Theo Em Vào Bóng Đêm
Trái tim Louis Durand đã khép kín suốt mười lăm năm qua, khi vị hôn thê đột ngột qua đời một ngày trước hôn lễ. Giờ đây ở tuổi 37, anh quyết định mở nó ra một lần nữa để bắt đầu cuộc đời mới, kết hôn với Julia Russell - cô gái mà anh quen biết qua những lá thư. Và rồi, ngày ấy cũng đến, cô xuất hiện trước mặt anh, trẻ trung và xinh đẹp hơn rất nhiều so với bức hình mà anh nhận được trước đó, khiến anh ngỡ đây chính là hạnh phúc bấy lâu nay mình kiếm tìm. Anh cứ lâng lâng trong hạnh phúc mà chẳng hề hay biết cô gái trước mặt là một người mà cả trái tim và quá khứ đều chìm ngập trong bóng tối. Kể từ đó Durand đã bị cuốn vào điệu waltz quay cuồng của tình yêu và định mệnh... Khi vũ điệu bắt đầu cũng là lúc tội ác được thực thi... *** Tiết tháng Năm, nắng vàng rực, trời xanh biếc. New Orleans chính là thiên đường và nếu có thiên đường thứ hai thì cũng chỉ được như thế này mà thôi, không hơn. Tại nơi ở dành cho người độc thân trên đường St. Charles, Louis Durand đang thay quần áo. Không phải để bắt đầu ngày mới, bởi mặt trời đã lên cao và anh đã dậy từ mấy tiếng trước; mà vì một sự kiện lớn trong ngày. Hôm nay không phải một ngày bình thường, hôm nay là ngày quan trọng nhất. Một ngày chỉ đến với người đàn ông một lần, và giờ nó đã đến với anh. Dù muộn nhưng nó đã đến. Chính là ngày hôm nay. Anh không còn trẻ nữa. Bản thân anh tự bảo như vậy chứ không phải người khác bảo. Đàn ông ở tuổi anh chưa già. Nhưng với chuyện này, 37 tuổi không còn quá trẻ. Trên tường treo một cuốn lịch, bốn tờ đầu đã lật qua, phô ra tờ thứ năm. Trên cùng, ở giữa, chữ Tháng Năm nằm trang trọng. Hai bên, in nghiêng, đổ bóng, là những con số cuộn xoắn nặng nề, chỉ năm - ngày hờ hững lướt qua mắt người xem: 1880. Bên dưới, trong từng ô nhỏ, 19 chữ số đầu tiên đã bị gạch bỏ bằng bút chì. Riêng số thứ 20 được khoanh tròn bằng bút sáp đỏ. Tô đi tô lại, như thể nhấn mạnh bao nhiêu cũng không đủ. Và những con số tiếp theo trống trơn; nó thuộc về tương lai. Anh mặc chiếc sơ mi có diềm đăng ten hồ bột mà bà Alphonsine đã giặt ủi vô cùng chăm chút, mỗi diềm xếp nếp là một tác phẩm nghệ thuật. Cổ tay áo đính những chiếc cúc bằng đá thạch lựu phủ bạc. Trong chiếc khăn ascot tie mượt mà trải từ cằm anh trở xuống, nhô ra cây ghim cài theo thông lệ mà bất cứ người đàn ông ăn vận trang trọng nào cũng phải có. Trong dịp này, nó là một mảnh trăng lưỡi liềm nạm kim cương điểm ở mỗi đầu một viên hồng ngọc. Một sợi dây đeo đồng hô bằng vàng nặng nề treo nơi túi áo gi-lê bên phải của anh. Nối nó với túi áo bên trái, gồ lên một mặt đồng hồ to bản, là chuỗi những sợi vàng dày dặn, nổi bật giữa bụng anh, và chủ đích như vậy. Đàn ông không có đồng hồ bỏ túi có còn đáng mặt đàn ông? Và một chiếc đồng hồ không được nằm ở đó là thứ đồng hồ vứt đi. Bên trên áo gi-lê bó sát, chiếc sơ mi đẹp đẽ, buông chùng khiến anh trông như một chú bồ câu to diều. Nhưng dù không có nó thì lúc này đây niềm kiêu hãnh cũng đủ làm căng tràn lồng ngực anh. Trên bàn làm việc mà anh đang đứng trước để chải tóc, là gói thư từ cùng một bức ảnh chụp dương bản. Đặt lược xuống, anh tạm dừng việc soạn sửa, cầm lên, xem từng bức thư. Bức thư đầu tiên có tiêu đề Cộng đồng Bạn hữu qua thư ở St. Louis, Mo. - Nhịp cầu giữa những quý cô và quý ông tài hoa, mở đầu bằng nét chữ đàn ông bay bướm. “Thưa ngài! Theo yêu cầu của ngài, chúng tôi hân hạnh chuyển tới ngài tên tuổi và địa chỉ của một thành viên trong nhóm, nếu ngài muốn liên lạc với cô ấy, chúng tôi dám chắc rằng sự trao đổi thư từ tốt đẹp có thể được thực hiện…” Bức thư kế tiếp nét chữ còn thanh thoát hơn, lần này là nét chữ phụ nữ, “Gửi ngài Durand…” Và ký tên, “Trân trọng, cô J.Russell.” Bức thư tiếp, “Gửi anh Durand… Trân trọng, cô Julia Russell.” Bức thư tiếp theo, “Gửi Louis Durand… Người bạn của anh, Julia Russell.” Sau đó, “Louis thân mến… Bạn của anh, Julia.” Sau đó, “Louis thân mến… Người bạn Julia của anh.” Sau đó, “Louis thân yêu… Julia của anh.” Và cuối cùng. “Louis yêu dấu… Julia đang vô cùng chờ mong của anh.” Bức thư này có tái bút, “Bao giờ mới đến thứ Tư đây? Em đếm từng giờ mong được bước lên tàu!” Anh đặt chúng vào chỗ cũ, vỗ nhẹ cho cân, đầy dịu dàng trìu mến. Rồi anh đút chúng vào túi áo trong, kề sát trái tim. Bây giờ anh cầm bức ảnh nhỏ lồng khung ngắm nhìn thật lâu và chăm chú. Người trong ảnh không còn trẻ. Chắc chắn cô chưa đến nỗi già, nhưng hẳn cũng không còn là thiếu nữ. Những đường nét của cô hóp vào với sự biến đổi dần rõ nét. Cái miệng đã bắt dầu sắt lại. Đôi mắt đã xuất hiện dấu hiệu của những nếp nhăn và trũng xuống, sẽ đến trong nay mai. Da mặt đang chùng. Sống mũi đã cong và sắp trở thành hình quặp, cằm nhô về phía trước và sẽ xuất hiện cục lồi. Cô không đẹp. Nhưng có thể coi là hấp dẫn, bởi anh thấy cô hấp dẫn, mà xấu đẹp là do mắt người nhìn. Mái tóc đen của cô được búi thành hình nón sau gáy, một vạt tóc mỏng được để lại, rủ lòa xòa trước trán, theo mốt thời trang thịnh hành xưa nay. Thực ra nó đã lặng lẽ hết mốt từ lâu. Do sự hạn chế của khuôn hình mà món trang sức duy nhất góp mặt là dải ruy băng nhung đen thắt ở cổ cô, vì ngay bên dưới, bức ảnh đã kết thúc trong lớp mây nâu khói của nước ảnh. Đây chính là thỏa thuận của anh với tình yêu, vơ lấy những gì có thể trong sự vội vàng bạt mạng, bởi vì anh sợ không còn gì để mà lấy, vì đã chờ đợi quá lâu, sau khi anh đã chờ 15 năm, kiên quyết quay lung với nó. Tình yêu thuở hoa niên, mối tình đầu (mà anh đã thề là tình cuối) giờ chỉ còn là hồi ức nhạt nhòa, một cái tên trong quá khứ đã gần lãng quên. Marguerite, bây giờ anh có thể gọi tên mà không thấy xốn xang. Khô và phẳng như một bông hoa ép trong sách nhiều năm trời. Cái tên trong quá khứ của một người khác, không phải anh. Người ta nói cứ sau 7 năm chúng ta lại thay đổi hoàn toàn, không còn chút gì của con người cũ. Như vậy, anh đã hai lần trở thành một người khác xưa. Anh đã hai lần giã từ cậu thanh niên 22 tuổi -Louis Durand xưa kia, và là mối liên hệ duy nhất giữa họ - người đã gõ cửa nhà cô dâu tương lai vào buổi tối trước đám cưới, mắt long lanh, tay ôm hoa. Rồi đứng đợi mãi. Và anh thấy cửa từ từ mở ra, hai người đàn ông xuất hiện, khiêng một chiếc cáng phủ kín. “Tránh ra nào, bệnh sốt vàng da đấy.” Anh trông thấy chiếc nhẫn trên ngón tay cô ấy, kéo lê trên đường. Anh không khóc òa. Anh không thốt ra lời nào. Anh cúi xuống đặt những bông hoa mang tình yêu đôi lứa lên cái cáng chở người chết đi qua. Rồi anh quay lưng rời khỏi đó. Rời khỏi tình yêu, trong 15 năm. Marguerite. Cái tên ấy là tất cả những gì anh còn lại. Anh chung thủy với cái tên ấy cho đến lúc chết. Vì anh cũng đã chết, dù chậm hơn cô. Chàng thanh niên 22 tuổi chết đi trở thành người đàn ông 29 tuổi. Đến lượt anh ta chung thủy với cái tên mà người đi trước đã chung thủy, cho đến khi chết. Rồi người đàn ông 29 tuổi trở thành người đàn ông 36 tuổi. Và bỗng một ngày, nỗi cô đơn chồng chất suốt 15 năm, bị dồn nén, đã vỡ òa và nhấn chìm anh, khiến anh hoảng loạn tìm đường thoát. Bất cứ tình yêu nào, ở bất cứ đâu, dưới bất cứ hình thức nào. Nhanh lên, trước khi quá muộn, để không phải cô đơn thêm nữa. Khi ấy, chỉ cần anh gặp một người trong tiệm ăn… Hoặc chỉ cần anh gặp một người qua đường… Nhưng anh không gặp ai cả. Thay vào đó, mắt anh cụp xuống dõi theo mục quảng cáo trên báo. Một mục quảng cáo của St. Louis trên một tờ báo ở New Orleans. Bạn không cách nào thoát khỏi tình yêu! Những suy nghĩ trong anh chấm dứt. Tiếng bánh xe ngựa dừng ngay bên ngoài khiến anh nhét bức ảnh trong ví và cho vào túi. Anh bước ra hiên tầng hai nhìn xuống. Ánh nắng rọi trắng xóa lưng anh như bột mì khi anh vươn người, đè lên nhánh hoa giấy đỏ tươi leo quanh thành lan can. Một người đàn ông da đen từ ngoài đường đi vào sân qua một hành lang. “Làm gì mà lâu thế?” Durand hỏi vọng xuống. “Có hoa cho tôi chưa?” Câu hỏi hoàn toàn tu từ, vì anh đã thấy cái gói hình nón, phía trên những lớp giấy sáp bọc ngoài lấp ló sắc hồng. “Chắc chắn rồi ạ!” “Còn xe ngựa thì sao?” “Nó đang đợi cậu đấy!” “Tôi tưởng ông chẳng bao giờ thuê xe ngoài,” anh nói tiếp. “Ông chỉ thích…” Người đầy tớ da đen lắc đầu vẻ triết lí. “Đàn ông đang yêu lúc nào cũng hối hả.” “Nhanh lên, Tom,” anh nôn nóng giục giã. “Đừng đứng dưới đó cả ngày như thế.” Vẫn giữ nụ cười trêu chọc, Tom đi tiếp, khuất dạng dưới sườn nhà. Lúc sau, cửa phòng mở ra và ông bước đến sau lưng ông chủ. Anh quay lại, đến gần ông, giành lấy bó hoa, lột hết những lớp bọc ngoài, với sự vội vàng nôn nóng hơn là cẩn thận nâng niu. “Cậu định tặng cho cô ấy, hay là phá nát nó?” Ông ta hỏi mát. “Chà, tôi phải xem trước chứ, đúng không? Ông nói xem cô ấy có thích hoa hồng và hoa đậu thơm không, Tom?” Có sự tuyệt vọng trong câu hỏi cuối, giống như khi người ta đã hết cách. “Không phải tất cả phụ nữ đều vậy ư?” “Tôi không biết. Cô gái duy nhất mà tôi…,” anh không nói hết câu. “Ôi, bọn họ,” Tom nói với vẻ bao dung. “Người bán hàng nói họ sẽ thích, anh ta bảo phụ nữ đều yêu cầu loại hoa này.” Ông cẩn thận vuốt phẳng lớp giấy bọc phía trên, trả lại sự gọn gàng cho bó hoa. Trong lúc đó Durand nháo nhào thu gom quần áo còn lại, chuẩn bị lên đường. “Tôi muốn đến nhà mới trước,” anh nói, có phần hổn hển. “Cậu mới ở đó hôm qua,” Tom chỉ ra. “Hình như cậu sợ nếu xa nó một ngày thì nó sẽ bay mất ấy.” “Tôi biết, nhưng đây là lần cuối cùng tôi phải đảm bảo mọi thứ đều… ông nói với em gái ông chưa? Tôi muốn bà ấy ở đó khi chúng ta đến.” “Bà ấy sẽ ở đó.” Durand đặt tay lên nắm đấm cửa, rồi lại dừng bước, nhìn quanh, và bộ dạng hăm hở chùng hẳn. “Đây sẽ là thời khắc cuối cùng của nơi này, Tom ạ.” “Nó thật đẹp và yên bình, cậu Lou,” người đầy tớ thừa nhận. “Trong mấy năm qua, từ lúc cậu bắt đầu già đi.” Như bị tác động trước lời cảnh báo ngấm ngầm về sự trôi qua của thời gian, không khí khởi hành lại sôi động. “Ông hãy đóng gói nốt, để ý đồ của tôi đằng kia. Nhớ trả chìa khóa cho Madame Tellier trước khi đi.” Anh lại dừng lại, quả đấm cửa đã xoay, nhưng cửa vẫn chưa mở. “Sao thế, cậu Lou?” “Tôi thấy sợ. Tôi lo cô ấy…,” anh nuốt khan qua cổ áo dựng đến tai, đưa mu bàn tay thấm những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, “… sẽ không thích tôi.” “Tôi thấy cậu rất bảnh.” “Cho đến giờ, mọi chuyện chỉ diễn ra qua thư từ. Trong thư thì dễ.” “Cậu đã gửi ảnh cho cô ấy. Cô ấy biết cậu trông như thế nào,” Tom tìm cách khích lệ. “Ảnh chỉ là ảnh. Người thật thì khác.” Tom tiến đến chỗ anh đang đứng ủ rũ chếch một bên cửa, phủi bụi sau vai áo vest cho anh. “Cậu không phải người đẹp trai nhất N’Orleans, nhưng cũng đâu phải người xấu nhất.” “Tôi không định nói đến vẻ ngoài. Tính cách của chúng tôi…” “Tuổi tác hai người hợp nhau. Cậu đã cho cô ấy biết.” “Tôi đã bớt đi một năm. Tôi đã nói mình 36 tuổi, như vậy nghe đỡ hơn.” “Cậu có thể cho cô ấy một cuộc sống thoải mái, cậu Lou.” Durand sốt sắng gật đầu, như thể đến giờ mới cảm thấy tự tin. “Cô ấy sẽ không nghèo khổ.” “Vậy thì không cần quá lo lắng nữa. Đàn ông khi yêu coi trọng ngoại hình. Còn phụ nữ khi yêu, nói vô phép cậu, họ chỉ muốn biết mình sẽ sống sung túc ra sao thôi.” Nét mặt Durand tươi tỉnh hẳn. “Cô ấy sẽ không phải chắt bóp.” Anh ngẩng cao đầu trước phát hiện mới mẻ. “Cho dù tôi không được như kỳ vọng, cô ấy cũng sẽ dần quen với tôi.” “Cậu chỉ muốn yên tâm thôi phải không?” Tom lục lọi trong người, lôi ra sợi dây cất kĩ trong ngực, treo một cái chân thỏ cũ mèm lồng trong chiếc vòng nhỏ mạ vàng. Ông đưa nó cho Durand. “Ồ, tôi không tin vào…,” Durand lúng túng từ chối. “Chúng không sai khiến được người đàn ông da trắng nói đồng ý,” Tom cười tủm tỉm. “Chúng cũng chẳng khiến cho anh ta nói điều ngược lại. Cậu cứ để nó trong túi, không hại gì đâu.” Durand áy náy cất nó đi. Anh nhìn đồng hồ, rồi đóng nắp lại. “Muộn rồi! Tôi không muốn lỡ chuyến tàu!” Lần này anh đẩy mạnh cánh cửa, bước qua ngưỡng cửa đánh dấu đời độc thân. “Cậu còn hơn nửa tiếng trước khi tàu của cô ấy hiện ra trên sông.” Nhưng Louis Durand, chú rể tương lai, chẳng chần chờ, anh chạy bổ xuống cầu thang lát đá bên ngoài ngôi nhà của Madame Tellier với dáng vẻ tất tả. Lát sau từ cửa sổ dưới sân vọng lên những tiếng rầm rập. Tom sải bước ra ngoài hiên tầng hai. “Mũ của tôi! Ném nó xuống đây.” Durand nôn nóng nhảy lên nhảy xuống. Tom ném nó xuống rồi đi vào. Một giây sau, tiếng rầm rập lại vang lên, còn bức thiết hơn. “Gậy của tôi nữa!” Nó rơi xuống, được bắt lấy khéo léo giữa không trung. Một làn bụi nhỏ nhuộm nắng vẩn lên từ những phiến đá lát không được sạch lắm của Madame Tellier. Tom quay đi, lắc đầu chịu thua. “Đàn ông đang yêu lúc nào cũng hối hả, chắc chắn rồi!” Mời bạn đón đọc Theo Em Vào Bóng Đêm của tác giả Cornell Woolrich & Nguyễn Thị Hạnh (dịch).
Địch Công Kỳ Án Tập 10: Mê Cung Án - Robert Van Gulik
Mê Cung Án là tác phẩm thứ 10 trong bộ tiểu thuyết trinh thám quan án viết về Địch Nhân Kiệt - vị thần thám danh tiếng lẫy lừng triều Đường, dưới thời Võ Tắc Thiên trị vì. Năm 670, Địch Công được điều chuyển làm huyện lệnh của Lan Phường - một trấn huyện ở biên giới Tây Bắc Đại Đường. Khi đặt chân đến nhiệm sở, ông cùng các trợ thủ vô cùng kinh ngạc khi thấy thái độ thờ ơ của dân chúng trước sự xuất hiện của tân Huyện lệnh. Ở nơi phố huyện hoang tàn, ác bá hoành hành, dân chúng mất hết niềm tin vào triều đình, quan lại, Địch Công sẽ phải làm gì để chỉnh đốn lại huyện nha, lấy lại lòng tin ở dân? Phải chăng “Phép vua” thực sự “thua lệ làng” ở nơi đây? Thế nhưng, niềm tin mất đi thì dễ lấy lại thì khó, giữa một mờ bòng bong các sự việc đồng thời xuất hiện: một lão tướng đã từ quan được phát hiện chết trong căn buồng riêng, cửa bị chặn từ bên trong; Một câu đố chưa lời giải về bức tranh Quan Âm chứa đựng đầy ẩn ý; Một mê cung hé lộ tội ác đầy kinh hoàng. Những vụ án tưởng chừng như riêng lẻ ấy có liên quan mật thiết gì đến nhau? Địch Công đã gỡ rối chúng như thế nào? Hình phạt nào dành cho kẻ thủ ác? *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 10: Mê Cung Án  của tác giả Robert van Gulik.
Hiệu Ảnh Nishiura ở Enoshima
Được chắp bút bởi tác giả triệu bản tại Nhật Bản - Mikami En. Một cuốn sách góp nhặt một chút diệu kì, hư ảo, lạnh sống lưng và cả sự xót thương đan xen giữa hai thế hệ. Nếu bạn đang tìm kiếm một câu chuyện khiến bạn tò mò đến trang cuối cùng vì không thể nào đoán được kết thúc thì xin đừng bỏ lỡ cuốn sách này. Câu chuyện xảy ra tại một vùng đất kỳ lạ mang tên đảo Enoshima. Hiệu ảnh lâu đời Nishiura kinh doanh hơn một thế kỷ nay đã bị đóng cửa do cái chết bất ngờ của chủ tiệm Fujiko Nishiura. Được mẹ giao nhiệm vụ sắp xếp lại di vật của người bà quá cố đã mất vào mùa thu năm ngoái, cô cháu gái 23 tuổi Mayu đã quay trở lại hòn đảo chứa đựng biết bao hoài niệm ấy.  Khi khám phá ngôi nhà trăm tuổi cũ kỹ ấy, cô đã tìm thấy một túi ảnh được đánh dấu là “chưa chuyển phát”, chúng thực sự kích thích trí tò mò của cô gái trẻ. Bốn bức ảnh được chụp ở bốn thời điểm khác nhau trong suốt 100 năm qua nhưng bố cục lại giống hệt nhau. Mặc dù thời đại thay đổi, trang phục khác nhau nhưng chẳng hiểu vì sao người đàn ông trẻ tuổi đang mỉm cười trong những tấm ảnh ấy trông giống nhau đến lạ. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng. việc chụp ra những bức ảnh này là hoàn toàn không có khả năng.Cũng chẳng có người nào có thể trẻ mãi không già. Chẳng lẽ chủ nhân của những bức ảnh ấy chưa từng quay trở lại để lấy chúng hay sao? Những câu chuyện ly kì cứ tiếp tục xảy đến. Và rồi, một anh chàng sinh viên trường y 24 tuổi - Akitaka Madori đến xin lại những tấm ảnh cũ. Nhưng anh ta có gương mặt giống hệt người đàn ông trong bức ảnh kia...  Sự trùng hợp rùng rợn này là sao? Ngày trước, Mayu đã quyết tâp theo đuổi sự nghiệp nhiếp ảnh song không hiểu vì sao những bức ảnh cô chụp lại lan tràn trên mạng và hủy hoại cuộc đời của bạn cô Rui Nagano lúc mới chỉ 23 tuổi. Những trải nghiệm cay đắng ấy đã khiến cô từ bỏ việc chụp ảnh để làm nhân viên văn phòng và rồi cô khóa chặt mình trong lớp vỏ đơn độc và tiếc nuối vô bờ bến.  Anh chàng Akitaka kì lạ ấy ngỏ ý nhờ Mayu giải đáp những bí ẩn trong bức hình ấy nhưng liệu tình yêu sâu đậm dành cho nhiếp ảnh của cô gái trẻ có bị đánh thức một lần nữa? và bí mật ẩn sau anh chàng Akitaka kia thực sự là gì? Là sự thật đáng sợ hay đáng thương? Cuốn sách Hiệu ảnh Nishiura ở Enoshima chụp lại những khoảnh khắc của một nước Nhật xa xưa và hiện tại mà ta chẳng thể nào bắt gặp ở bất kì cuốn sách nào khác. Giọng văn lôi cuốn cùng những tình tiết cao trào đầy ngẫu hứng nhưng gây tò mò, chẳng thể nào ngờ tới. Một cuốn sách sẽ ám ảnh bạn trong một thời gian dài, gây xúc động mạnh mẽ khi đọc đến trang cuối cùng. Một cuốn sách làm dịu mát tâm hồn trong những ngày tháng xô bồ của nhịp sống hiện đại.  “Cuộc đời của một con người cũng sẽ không dễ dàng bị đảo lộn. Những cuộc đời đã bị đảo lộn rồi một ngày sẽ bình yên trở lại” *** Mikami En Sinh năm 1971 tại thành phố Yokohama thuộc tỉnh Kanagawa. Tác phẩm đầu tay là Dark Violet do Dengeki Bunko phát hành. Lĩnh vực sáng tác của Mikami trải rộng từ thể loại kinh dị cho đến kì ảo. Văn phong tỉ mỉ và trau chuốt đã thu hút được đông đảo độc giả trung thành. Tác phẩm Dark Violets của ông từng vượt qua ba vòng bình chọn cho giải thưởng tiểu thuyết Dengeki lần thứ 8. Năm 2002, ông ra mắt tác phẩm đầu tay, năm 2011 cho ra mắt bộ tiểu thuyết Tiệm sách cũ Biblia, xoay quanh quá trình đi giải đáp các bí ẩn trong một tiệm sách cũ. Seri Tiệm sách cũ Biblia được ông chấp bút đã bán hơn 6,4 triệu bản tại Nhật Bản và được chuyển thể thành phim. Các tác phẩm chính của ông gồm có bộ truyện Shadow Taker, bộ truyện Người lính giả danh, bộ truyện Tiệm sách cũ Biblia... Tác phẩm này là tập truyện đơn đầu tiên của ông. Chỉ có câu chuyện thứ nhất của tác phẩm này là được đăng trên tạp chí Jaro số 54. Các phần còn lại là được viết mới. Cuộc đời của một con người sẽ không dễ dàng bị đảo lộn. Những cuộc đời đã bị đảo lộn rồi một ngày sẽ bình yên trở lại. *** Mình mua cuốn sách này vì dòng cuối của bìa sau sách: “ Sự trùng hợp rùng rợn này là sao?” vì cứ nghĩ nó mang chút ma mị cổ quái, khi mà sách viết về hiệu ảnh cũ thì yếu tố này cũng dễ hiểu thôi mà, phải không các bạn ? Chưa đọc mà mình cứ nghĩ sẽ có một nhân vật trẻ mãi không già, sống trong một gia tộc cả trăm năm (cũng là do đọc bìa sau sách hihi).   Mở cuốn sách, điều khiến mình thích nhất là bookmark ^^ đâu ra cái máy ảnh dễ thương lắm luôn, nên là đọc cả cuốn này mình kẹp bookmark máy ảnh ở trang đầu và định dùng một bookmark khác, sợ hỏng mất em máy ảnh  Vậy mà sau đó mình đọc xong trong một buổi tối nên cũng chưa cần dùng tới bookmark luôn. Nội dung cuốn sách không quá ma mị như mình tưởng tượng, vì bản thân mình kì vọng hơi cao vào yếu tố này nên bị hẫng chứ thực tế là sách được tiết chế vừa phải, không có các chi tiết thừa hay rườm rà, các câu chuyện chủ chốt cũng thú vị và nhiều chi tiết cần suy ngẫm. Đặc biệt là dịch giả Như Nữ dịch tác phẩm rất mượt mà các bạn ạ. Tuy mình không đặc biệt thích nhân vật nào trong truyện nhưng mỗi nhân vật thì đều có nét thú vị riêng. Với nhân vật chính, Katsuragi Mayu, cô gái 23 tuổi, đang sống từng ngày mà trốn tránh niềm đam mê nhiếp ảnh của bản thân, luôn dằn vặt về một lỗi lầm đáng trách trong quá khứ, thì mình đánh giá cao sự nhạy bén trong cách sắp xếp sự việc của cô, và mình cho rằng đây là một cô bạn thông minh cho dù cô ấy có hơi vụng về khi giao tiếp (một chút, vì từ bé người ta đã ít nói đó). Madori Akitaka là nhân vật thứ 2 và có khá nhiều đất trong truyện, anh là người cùng với Mayu khám phá những điều chưa tỏ được ẩn giấu trong tiệm ảnh cũ này, từ đó tìm ra lời giải cho những khúc mắc bên trong Mayu và bản thân mình. Anh chàng này làm mình khâm phục vì lòng nhân ái và sự nhẫn nhịn, sự nhẫn nhịn xuất phát từ tấm lòng hiếu thảo với người bà và cả người bố gia trưởng, mặc cho nỗi băn khoăn cào xé trong lòng mình. Những chàng trai hiếu thảo luôn được mình đánh giá cao ^^ Lòng nhân ái thì thể hiện bằng việc hỗ trợ Mayu dọn dẹp khi thấy cô xoay vần cùng cả đống việc ngổn ngang. Mà ban đầu cứ nghĩ Mayu và Akitaka là một đôi chứ, cũng trai tài gái sắc lắm mà, không ngờ còn một nhân vật nữa tài hơn, sắc hơn đang giấu mặt. Nagano Rui. Thực tế mình không phải ham trai đẹp lắm đâu, nhưng xuyên suốt cả câu chuyện mình cứ nghĩ nếu dựng thành phim thì Akitaka được điểm 10/10 chắc Rui phải được 11/10. Nhân vật này không trực tiếp xuất hiện nhưng qua những câu chuyện cũ, những bước tìm lại điều bấy lâu bị giấu kín đã khắc họa một Rui rất dị biệt nhưng mang nét đẹp tài tử cuốn hút ( đối với mình). Nhưng mình thắc mắc một điều là Rui đẹp vậy mà lại biết cách khiến người khác không chú ý về mình nữa thì lạ ha, thường những người như vậy cứ nghĩ hay được chú ý chứ nhỉ. Bà Fujiko Nishiura. Vì câu chuyên diễn biến khi bà Fujiko đã mất nên hình ảnh bà chỉ xuất hiện thông qua các câu chuyện, nhưng minh vẫn cảm nhận được sự nhân ái và gần gũi của bà. Bìa cuối sách có một câu khiến mình luôn nghĩ về bà Fujiko : “Cuộc đời của một con người không dễ dàng bị đảo lộn. Những cuộc đời đã bị đảo lộn rồi một ngày sẽ bình yên trở lại”. Cảm giác như hình ảnh bà đứng trước tiệm ảnh cũ, mỉm cười và nói như vậy đó. À mà phải rồi, đọc cuốn này tớ thấy thích bạn mèo trắng Yona trong truyện ^^ ngoài ra thì các nhân vật khác cũng có chỗ đứng và khiến người đọc phải suy ngẫm theo một cách riêng nhưng mình xin dừng ở đây thôi để các bạn cùng đọc cuốn sách này nhé. Đọc xong cuốn này và tìm hiểu về tác giả thì mới biết còn có cuốn “Tiệm sách cũ Biburia” cũng được đánh giá tốt. Mình sẽ tiếp tục đọc sách của Mikami En lần nữa. Nếu đọc xong thì đây là cuốn thứ 3 trong list những cuốn sách về cửa tiệm hay cửa hiệu nào đó rồi. Vui quá ạ. Nhưng mình có chút thắc mắc nhờ các bạn giải đáp với. Ở phần giới thiệu của cuốn Hiệu ảnh này ghi là “ Tiện sách cũ Biburia” nhưng mình tìm trên tiki, cùng tác giả thi chỉ có “Tiệm sách cũ Biblia” thôi. Vậy khác biệt là do đâu, mà 2 bộ này vẫn là 1 phải không ạ? Cảm ơn các bạn. Chúc các bạn đọc sách vui vẻ nha. Trang Nguyen *** Một chú mèo trắng cắm đầu ăn cơm trong chiếc đĩa để trên sàn nhà. Có tiếng bước chân vọng xuống từ tầng hai. Chú mèo lơ đễnh ngẩng đầu lên, một người đàn ông mảnh khảnh đang bước về phía cuối hành lang. Nó biết người đàn ông này không có gì phải đề phòng. Có vẻ hôm nay người đàn ông ấy cũng mặc một bộ đồ màu lam, thế nhưng dưới đôi mắt mèo thì chẳng thể nhìn rõ được màu sắc gì cả. Sau tiếng bước chân, có tiếng nước chảy vọng ra. Với loài mèo, con người là loài sinh vật sống bằng chân. Từ cử động của ngón và tiếng động do ngón chân tạo ra là có thể đoán được người đó đang làm gì, đang có tâm trạng gì. Người đàn ông vẫn di chuyển nhanh thoăn thoắt như mọi khi. Anh nhanh chóng thu dọn chén đĩa trên bàn, rửa nồi niêu đã sử dụng. Anh định nhân tiện dọn nốt đĩa thức ăn mèo. Này này, mèo tôi đây còn chưa ăn xong đâu đấy - mèo kêu lên kháng nghị. Thế là người đàn ông bèn vuốt ve lưng mèo như thể xin lỗi. Ngay sau đó, người đàn ông đi ra khỏi nhà theo lối cổng sau. Ngôi nhà yên tĩnh trở lại và chú mèo thong dong ăn nốt bữa cơm của mình. Hiện tại, chỉ có mình mèo và người đàn ông đó sống trong ngôi nhà này. Cũng có thời khá nhiều người sống ở đây hơn, ngôi nhà rất náo nhiệt, nhưng chẳng biết tự khi nào họ đều dần đi khỏi. Mèo không biết người đàn ông luôn ra khỏi nhà vào khung giờ nhất định ấy đi đâu và làm gì. Dù sao nó cũng chẳng có hứng thú biết điều đó. Để lại chiếc đĩa trống không, mèo trắng lách mình qua khe cửa nhỏ. Nhanh chóng băng qua đoạn đường còn mờ tối ẩm ướt, nó chạy về hướng có ánh nắng mặt trời. Ngôi nhà mà mèo đang ở đã cũ nát, khác hẳn những ngôi nhà quanh đó. Nghe nói, từ xa xưa, trước khi mèo tới, đây là nơi sinh sống của rất nhiều người. Phía bên phải có tiếng sóng biển, còn bên trái có tiếng bước chân con người. Chú mèo không muốn lại gần một người xa lạ, nhưng ra gần biển thì cũng chỉ có gió lạnh mà thôi. Cuối cùng, nó quyết định rẽ sang bên trái. Nơi đây là một hòn đảo được biển bao bọc bốn phía. Mèo đi lướt qua vô số người, nhưng trong mắt mèo, nó chỉ thấy toàn chân là chân. Chân to có, chân nhỏ có, chân không nhìn thấy ngón, chân chỉ nhìn thấy ngón... Và trong cái thời tiết giá lạnh như hiện nay thì những đôi giày dày và ấm là nổi bật nhất. Mèo dừng bước chân để tránh một người đang đi từ phía đằng trước tiến lại. Người này to lớn lạ thường, chân của anh ta cũng được bọc trong một đôi giày màu đen. Tiếng bước chân của người này trầm đục một cách kỳ lạ. Cộp, cộp, cộp. Tiếng bước chân truyền tải tâm trạng mịt mùng u ám như sương mù ban đêm, thứ tiếng mà thỉnh thoảng mèo lại nghe thấy. Người đàn ông sống cùng mèo đôi lúc cũng có bước đi như thế. Có lẽ vì mèo dừng lại nên người đàn ông to lớn đối diện hiểu lầm. Anh ta ngồi xổm xuống và duỗi tay ra. Có vẻ anh ta định vuốt ve mèo. Tóc trên đầu anh ta ngắn hơn người khác một chút. Và không chỉ mỗi chân, mà cả người anh ta được bao bọc trong một bộ đồ màu đen khiến anh ta trông như một cái bóng. Mèo chạy vụt đi. Nó ghét nhất là bị con người nhìn chằm chằm hay chạm vào lông mình. Cuối con đường ấy là một sườn dốc lớn. Số chân người trong tầm mắt mèo tăng lên. Mèo cố gắng không lại gần họ mà bước đi trên làn đường rải sỏi. Xuống hết con dốc, mèo cảm thấy mùi của thủy triều nồng đậm trong không khí. Thật hiếm khi có ít người ở đó như thế, mặc dù vậy, thỉnh thoảng nó cũng gặp rắc rối khi bị mấy đứa trẻ đuổi bắt. Trong lúc đang tìm một chỗ có nhiều ánh nắng, mèo đã đặt chân đến một cây cầu lớn dẫn ra khỏi đảo. Nó cũng nhận thức được một cách mơ hồ rằng, cây cầu này do con người tạo ra. Những loài động vật khác chẳng thể làm ra được thứ như thế này. Mèo vẫn luôn sống trên mảnh đất này và chưa bao giờ qua bên kia cây cầu. Con người hoàn toàn không gượng ép nó, nhưng nó vẫn ở lại, bởi tự nó cảm thấy mảnh đất này là nơi dành cho mình. Có những thứ vô hình đã gắn kết mèo với hòn đảo này. Rất nhiều người đã băng qua cây cầu lớn bắc qua biển để đến với nơi đây. Trong họ cũng có điều gì đó gắn kết bản thân với hòn đảo này. Mèo nghiêng tai lắng nghe, hầu hết những bước chân ấy đều rất nhẹ nhàng, dễ chịu, mang theo tâm tình vui vẻ, tươi sáng. Chỉ có người đàn ông có bước chân trầm đục lúc nãy là khác. Trong một ngày, mèo cũng chẳng gặp mấy người như thế. Cộp, cộp. Đột nhiên, mèo dựng thẳng đôi tai. Không ngờ hôm nay mèo có thể gặp tới người thứ hai như thế, quả là chuyện hiếm. Lần này là một cô gái nhỏ nhắn hơn người lúc nãy. Cô gái ấy mặc trang phục màu trắng bồng bềnh tròn trịa, nhưng mèo biết cơ thể thực của cô gái khá mảnh mai. Trông cô gái này chẳng có gì là nổi bật cả, giống như cô đã cố tình làm cho mình trở nên như vậy. Cô gái có vẻ đang mang tâm trạng u ám. Mèo có cảm giác như đã gặp cô gái này trước đây, hoặc có lẽ mèo biết một người giống cô ấy. Nó ngồi trên thảm sỏi đã ngấm đủ ánh mặt trời, dõi theo chủ nhân của tiếng bước chân kia. Còn cô gái, cô ấy hoàn toàn không nhận ra sự tồn tại của mèo ta. Rất có thể mèo sẽ gặp lại cô gái. Bởi không hiểu sao, những người có bước chân nặng nề, trầm đục thường hay đi đến ngôi nhà cũ mà mèo đang sống. Dường như có một thứ vô hình nào đó đã gắn kết họ với ngôi nhà ấy. Giống như ngoài nơi ấy ra họ không còn nơi nào khác để đi vậy. ... Mời các bạn đón đọc Hiệu Ảnh Nishiura ở Enoshima của tác giả Mikami En.