Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ghi Đơ Môpatxăng (Isaac Babel)

Isaac Babel (1894 - 1941) được đánh giá là nhà văn Do Thái đầu tiên bước vào văn đàn Nga với tư cách là một tác giả văn xuôi Nga. “Babel đã trải qua thời thơ ấu và thời thanh niên ở Odessa, chịu đựng cảnh đau khổ trong ghetto (khu vực cư trú dành riêng cho người Do Thái). Babel học giỏi, từ nhỏ cho đến khi 16 tuổi ông đã học tiếng Do Thái, tiếng Pháp, Kinh Thánh, Kinh Talmut. Babel đến với văn chương từ rất sớm. 15 tuổi ông đã viết những truyện ngắn đầu tiên bằng tiếng Pháp. Giống Gogol, 1915 ông đến Peterburg ôm ấp mộng văn chương. 1916 đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời Babel khi nhà văn gặp được Gorky. Gorky đồng ý in truyện ngắn của Babel. Nhà văn lão thành khuyên Babel đi thực tế để có vốn sống và viết. Thế là từ một chàng công tử Do Thái Babel đã trở thành một người lính của Quân đoàn Kỵ binh số Một, tham gia vào các công tác cách mạng (làm việc trong các ủy ban quân sự cách mạng, làm phóng viên, làm ở nhà in…).

Tập đoàn quân Kỵ binh ra đời năm 1926 - là tập hợp những truyện ngắn Babel viết về cuộc sống, chiến đấu của Quân đoàn Kỵ binh số Một trên mặt trận truy quét quân Ba Lan và Bạch vệ thời kỳ những năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Ngay từ khi mới ra đời tác phẩm đã tạo ra hai luồng dư luận trái chiều: một ủng hộ Babel, ca ngợi Tập đoàn quân Kỵ binh; còn một phê phán, lên án kịch liệt tác phẩm này, thậm chí còn buộc tội tác giả của nó. Tương phản trở thành một thủ pháp được sử dụng hữu hiệu trong các tác phẩm của Babel, nhất là Tập đoàn quân Kỵ binh nhằm tạo ra muôn vàn khuôn mặt cách mạng, chiến tranh và những suy ngẫm về sự sống, cái chết…

Trong 25 năm cầm bút Babel để lại không nhiều tác phẩm: hai vở kịch (Hoàng hôn, Maria), ba tập truyện ngắn (Tập đoàn quân Kỵ binh, Truyện ngắn Odessa, Truyện ngắn); nhưng những tác phẩm của ông đều được đánh giá rất cao, đặc biệt là truyện ngắn. Nhưng 13 năm sau thời điểm Tập đoàn quân Kỵ binh ra đời (1939) Babel cùng nhiều nhà văn khác bị bắt một cách bí mật, bị ép buộc phải nhận những tội danh vô lí trong đó có tội “phản bội Tổ quốc”. Ông bị đưa ra xét xử trước tòa án quân sự vào ngày 26/ 1/ 1940 và bị hành quyết ngày 17/ 3/ 1941, khi ông 47 tuổi. Suốt 15 năm sau đó, tên ông bị xoá hẳn trong sách vở văn chương của Liên Xô. Từ năm 1954, các tác phẩm của ông mới được công nhận.

Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt

- Babel I.E: Tuyển tập (Nguyễn Thụy Ứng dịch từ tiếng Nga, I. Erenburg và Nguyễn Thụy Ứng giới thiệu). Nxb. Văn hóa thông tin, H, 2000.*** Tìm mua: Ghi Đơ Môpatxăng TiKi Lazada Shopee

Mùa đông năm mười sáu tôi nương náu ở Petecburg với tấm căn cước giả và không một xu dính túi. Người cho tôi ở nhờ là một anh giáo dạy văn học Nga tên là Alecxây Kazansev.

Anh sống ở Peski, một khu phố lạnh lẽo, vàng xỉn, hôi hám. Anh kiếm tiền để phụ vào số tiền lương còm bằng cách dịch tiếng Tây Ban Nha; thời ấy Blasko Ibanes đang nổi như cồn.

Kazansev chưa từng đặt chân đến Tây Ban Nha, dù chỉ là đi ngang qua, nhưng tình yêu xứ ấy xâm chiếm toàn bộ con người anh. Anh biết hết mọi lâu đài, công viên, sông ngòi ở Tây Ban Nha. Ngoài tôi ra, chỗ Kazansev còn cả một lô nhưng kẻ bị bật ra khỏi cuộc sống ngay lành. Chúng tôi sống rất đói rách. Thảng hoặc, mấy tờ báo lá cải mới dành vài dòng chữ nhỏ đăng những mẩu tin vặt của chúng tôi.

Sáng sáng tôi la cà ở những khu nhà xác và đồn cảnh sát.

Người hạnh phúc hơn trong bọn vẫn là Kazansev. Anh còn có Tây Ban Nha là Tổ quốc.

Tháng mười một, tôi được giới thiệu một chân thư lại ở nhà máy Ôbukhôv, một chỗ làm không đến nỗi tồi tránh cho tôi khỏi phải vào lính.

Tôi đã từ chối không làm một gã thầy ký.

Ngay từ lúc ấy - mới hai chục tuổi đầu - tôi đã tự nhủ: thà đói khát, tù đày, lang bạt còn hơn ngồi lỳ ở phòng giấy suốt mười giờ đồng hồ mỗi ngày. Chẳng phải có gì táo tợn lắm trong lời nguyền ấy, nhưng tôi đã và sẽ không đời nào vi phạm nó. Tôi vẫn giữ được cái phong tục của ông cha: Chúng ta sinh ra trên đời là để tận hưởng thú vui làm lụng, đánh nhau, yêu đương, chúng ta sinh ra là cho những việc ấy chứ không phải vì cái gì khác.

Nghe tôi lý sự, Kazansev cứ xoắn mãi cái chỏm tóc vàng hoe ngắn ngủn trên đầu. Nỗi sợ hãi trong ánh mắt anh pha lẫn vẻ thích thú.

Đến hôm lễ Giáng sinh thì chúng tôi gặp may. Luật sư Benderski, chủ sở hữu nhà xuất bản “Ansiona” có ý định xuất bản một tác phẩm mới của Môpatxăng. Việc dịch do Raisa, vợ ông, đảm nhiệm. Cái trò chơi quý tộc chẳng đi đến đâu.

Người ta hỏi Kazansev, người dịch tiếng Tây Ban Nha xem anh có biết ai giúp việc được cho Raisa không. Kazansev ra lệnh cho tôi.

Hôm sau, khoác một cái áo vét đi mượn, tôi đến nhà Benderski. Họ sống ở góc đường Nevski và Môika, trong một ngôi nhà xây bằng đá hoa cương Phần Lan, bên ngoài có ốp những hàng cột giả màu hồng, lỗ châu mai và gia huy chạm đá. Những tay chủ nhà băng mất gốc, mới cải đạo và phất lên nhờ nghề chạy hàng đã cho xây lên ở Pêterburg trước ngày có chiến tranh hàng lô thứ lâu đài chướng mắt, ngạo nghễ đến lố bịch ấy.

Cầu thang trải một tấm thảm đỏ. Ở chiếu nghỉ cầu thang có đặt những con gấu nhung đứng chồm hai chân lên.

Trong những cái mõm há hốc của chúng các núm thủy tinh lóe sáng.

Vợ chồng nhà Benderski sống trên tầng ba. Ra mở cửa là một cô hầu gái đội mũ mào, ngực cao. Cô ta đưa tôi vào gian tiếp khách bày biện theo lối Slavơ cổ. Trên tường treo những bức tranh gam xanh lơ của Rerikhơ - những tảng đá và quái vật thời tiền sử. Khắp các góc nhà - đặt trên bệ, bày la liệt các tượng thánh kiểu cổ. Cô hầu gái có bộ ngực cao diễu khắp phòng một cách trịnh trọng. Cô ta người cân đối, mắt cận thị, vẻ kiêu kỳ. Trong cặp mắt xám mở to của cô lộ rõ vẻ phóng đáng trơ trẽn. Cô đi lại chậm chạp. Tôi thoáng nghĩ rằng khi yêu chắc hẳn cô ả vần vũ cuồng nhiệt và sành sỏi lắm. Tấm rèm gấm treo nơi cửa ra vào chợt lay động. Bước vào phòng, mang một bộ ngực đồ sộ là một phụ nữ tóc đen có cặp mắt màu hồng. Chẳng cần nhiều thời gian cũng nhận ra là bà Benderski là thuộc loại phụ nữ Do Thái làm cho người ta say mê, đến đây từ Kiev và Pôntava, từ những miền thảo nguyên, những thành phố sung túc trồng đầy dẻ và keo. Tiền của do các đức ông chồng khéo xoay xở được những người đàn bà này chuyển hóa thành lớp mỡ hồng hào nơi bụng, gáy, trên đôi vai tròn lẳn. Cái khóe cười mỉm ngái ngủ, mướt mịn của họ khiến các chàng sĩ quan đồn trú mê mẩn như bị hớp hồn.

- Môpatxăng là niềm say mê duy nhất của đời tôi, - Raisa nói với tôi.

Cố giữ cho cặp đùi đồ sộ đừng đong đưa quá, chị ta ra khỏi phòng rồi trở lại với bản dịch “Cô Garriet”. Trong bản dịch ấy của chị ta không còn để lại chút dấu vết nào câu chữ của Môpatxăng, cái giọng văn khoáng đạt, mượt mà, nghe như có tiếng thở dài say đắm. Những câu văn của bà Benderski đúng văn phạm đến mức khó chịu, tẻ ngắt và thô kệch - hệt lối viết tiếng Nga ngày trước của dân Do Thái.

Tôi đem tập bản thảo về nhà và trong gian gác áp mái của Kazansev - giữa đám người đang ngủ say - suốt đêm cặm cụi gọt đẽo bản dịch của người. Kể ra thì công việc ấy cũng không đến nỗi buồn tẻ như tôi nghĩ. Câu cú được sửa sang vừa hay lại vừa dở cùng một lúc. Bí quyết là ở sự xoay chuyển khó nhận thấy được. Cây đòn bẩy phải ở trong tay và ấm nóng lên. Và chỉ được xoay tay đòn một lần, chứ chớ đến hai.

Sáng ra, tôi đem đến bản thảo đã sửa xong. Raisa đã thật lòng khi nói chị mê Môpatxăng. Chị ngồi bất động suốt thời gian đọc lại bản dịch, tay đan chéo vào nhau: hai cánh tay mịn màng buông thõng, vầng trán trắng nhợt, viền đăng ten giữa hai bầu vú bị dồn ép xô lệch đi, hết dâng lên lại hạ xuống.

- Anh đã làm cách nào vậy?

Lúc ấy tôi đã nói về văn phong, về đội quân từ ngữ, đội quân mà trong đó sử dụng đủ loại khí giới. Không có thứ sắt thép nào có sức làm tê buốt trái tim người ta bằng một dấu chấm câu đặt đúng chỗ. Chị ta lắng nghe, đầu cúi, đôi môi thoa son hé mở. Một ánh đen sáng lên trên mái tóc chải dầu bóng và để ngôi. Đôi bắp chân mang tất ôm khít, khỏe và thon duỗi trên tấm thảm trải sàn.

Cô hầu gái đưa cặp mắt dâm đãng trơ trẽn nhìn sang phía khác, bưng mâm dọn bữa sáng lên.

Ánh nắng Peterburg lấp lánh rọi xuống tấm thảm trải sàn mấp mô bột màu. Hai mươi chín tập sách của Môpatxăng xếp chật cái giá nhỏ phía trên bàn viết. Tia nắng lung linh nhảy nhót vuốt ve những gáy sách bọc da, nấm mộ tuyệt vời của một trái tim người.

Cà phê sáng đem lên cho chúng tôi đựng trong những cái tách màu xanh lơ, và chúng tôi bắt đầu dịch “Idillia” (“Khúc đồng dao”). Ai mà chẳng nhớ truyện ngắn kể về anh chàng thợ mộc bú bầu sữa đang căng tức của cô nhũ mẫu đẫy đà. Chuyện ấy xảy ra trên một chuyến tàu chạy từ Nisơ đến Macxây, vào một buổi trưa oi ả, ở xứ hoa hồng, quê hương của hoa hồng, nơi mà những cánh đồng trồng hoa tràn xuống tận mép biển…

Tôi ra khỏi nhà Benderski với hai mươi lăm rúp tạm ứng trước. Cái hội của chúng tôi ở Peski tối ấy say ngất ngư chẳng khác gì đàn ngỗng no căng nước. Chúng tôi đã dùng thìa mà xúc món trứng cá tầm và nhắm nó với món giò lòng. Khi đã chếnh choáng, tôi quay ra bỉ nhạo Tônstôi:

- Cụ hãi rồi, cái cụ bá tước của các anh ấy, cụ nhát cáy… Tôn giáo của cụ là sợ hãi… Hãi đói, hãi già, thế nên ngài bá tước bèn may cho mình một cái áo bằng đức tin…

- Rồi sao nữa? Lắc lắc cái đầu chim, Kazansev hỏi tôi.

Chúng tôi lịm luôn bên chân giường. Tôi mơ thấy Katia, chị thợ giặt đã bốn chục tuổi, sống ở dưới nhà. Sáng sáng chúng tôi thường xuống chỗ chị ta xin nước sôi. Ngay đến mặt chị ta tôi cũng còn chưa kịp nhìn cho kỹ, ấy thế mà trong mơ có trời biết tôi và Katia đã làm những trò gì. Chúng tôi đã quần nhau hôn hít đến mệt nhoài. Sáng hôm sau, không cầm lòng được, tôi đã ghé xuống chỗ chị ta xin nước sôi.

Đón tôi là một người đàn bà dáng ủ ê, vai vắt khăn choàng, mớ tóc xám màu tro rối tung và đôi tay sưng mọng vì dầm nước.

Kể từ hôm ấy, sáng nào tôi cũng ăn ở đằng nhà Benderski. Trong căn gác áp mái của bọn tôi có thêm được một cái bếp lò mới, cá trích hộp, sô-cô-la. Hai lần Raisa còn đưa tôi ra đảo chơi. Không đừng được, tôi đã kể cho chị ta nghe về thời thơ ấu của mình. Câu chuyện kể nghe thảm đạm đến chính tôi cũng phải ngạc nhiên. Từ dưới viền mũ bằng lông điêu thử, đôi mắt sợ hãi long lanh nhìn tôi. Hàng mi hung khẽ chớp đượm vẻ thương xót.

Tôi đã làm quen với chồng Raisa - một tay Do Thái mặt bủng, đầu hói trụi và người dẹt lét, nhìn nghiêng cứ như chực dướn lên bay. Nghe đâu ông ta là chỗ thân cận với Rasputin. Những khoản lợi tức ông ta thu được nhờ chạy hàng quân nhu khiến ông ta có vẻ như một kẻ bị ma ám. Mắt ông ta lơ láo, với ông, tấm màn che thực tại đã rách nát rồi. Raisa thường ngại ngùng khi phải giới thiệu với chồng những người quen mới của mình. Vì còn non nớt nên hàng tuần sau tôi mới nhận ra điều đó.

Sau Tết, nhà Raisa có hai người em gái từ Kiev lên chơi. Đâu như tôi có mang tới tập bản thảo truyện “Lời thú nhận” và vì không gặp Raisa nên đến tối mới trở lại. Mọi người đang dùng bữa trong phòng ăn. Từ phía ấy vọng ra tiếng cười lanh lảnh như ngựa hý của đàn bà, và tiếng ồm ồm của đàn ông đang cơn hứng. Ở những nhà giàu không có nền nếp, người ta ăn uống rất ồn ào. Thứ tiếng ồn rất Do Thái, rộ lên từng đợt và về cuối trở nên du dương. Rai sa ra đón tôi trong bộ váy áo dạ hội hở lưng. Chân đi giày láng bóng, bước vụng về.

- Tôi say rồi, chú bồ câu ạ - Rồi chị chìa cho tôi đôi tay đeo đầy những chuỗi bạch kim và những ngôi sao hồng ngọc.

Tấm thân chị đong đưa, dướn cao như con rắn ngóc lên theo tiếng nhạc. Chị ta lắc lắc cái đầu uốn quăn làm cho mớ vòng khuyên kêu lanh canh, rồi bất thần ngã vật ra chiếc ghế bành trạm trổ kiểu Nga cổ. Trên khoảng lưng trần xoa phấn của chị hằn rõ những vết tím bầm.

Phía sau tường lại vang lên tiếng phụ nữ cười. Hai cô em có ria mép từ phòng ăn đi ra, cũng vú to, người phổng phao y hệt Raisa. Ngực các cô ưỡn ra, tóc đen xõa tung. Cả hai đều lấy chồng người trong họ Benderski của mình. Căn phòng tràn ngập tiếng phụ nữ cười đùa, lối đùa cợt của những người đàn bà đã trưởng thành. Hai ông chồng ủ ấm cho các cô bằng áo bành-tô da hải sư, khăn choàng Ôđenbuốc, đi cho họ giày da cao cổ; sau lớp lông tuyết xù lên của vành khăn chỉ còn thấy đôi má đỏ lựng, chỏm mũi trắng như sứ và ánh mắt cận thị của dân Seemit. Đùa chán, họ đi đến nhà hát hôm ấy đang diễn vở “Judith” với Saliapin sắm vai chính.

- Tôi muốn làm việc, - Raisa thì thầm, dang hai cánh tay trần, chúng ta đã bỏ phí mất cả tuần nay rồi…

Nàng sang phòng ăn lấy một cái chai và hai cốc lớn. Bộ ngực không mang nịt núng nính qua lần áo, hai núm vú hằn rõ qua nền lớp lụa mềm.

- Thứ quí, - Raisa vừa nói vừa rót rượu ra, - loại nho xạ năm 83 đấy nhé, chồng tôi mà biết thì ông ấy giết tôi…

Tôi chẳng có việc gì với thứ nhục đậu khấu năm 83, và cũng không hề có ý định nốc cạn ba vại liền. Chúng lập tức lôi tuột tôi đến những hẻm phố chập chờn những đốm lửa màu da cam và vẳng nghe có tiếng nhạc.

- Tôi say rồi, chú bồ câu ạ… Hôm nay ta làm gì đây?

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ghi Đơ Môpatxăng PDF của tác giả Isaac Babel nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Đội Săn Của Quốc Vương Xtac (Vladimir Korotkevich)
Trong số Báo văn học (Literarurnaja Gazeta) gần đây, một số nhà phê bình văn học Liên Xô có lưu ý bạn đọc đến một hiện tượng độc đáo trong văn xuôi Xô-viết mà theo ông, còn chưa được đánh giá đúng mức - đó là các truyện dài và tiểu thuyết của Vladimir Kôrôtkêvich, một nhà văn Bêlôruxia quen thuộc. V. Kôrôtkêvich sinh năm 1930 ở tỉnh Oócsa, Bêlôruxia, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kiep năm 1954 và khoa Đại học viết văn ở Mátxcơva năm 1960. Ông sáng tác thơ, tiểu thuyết, kịch. Hầu hết tác phẩm văn xuôi của Kôrôtkêvich như các tiểu thuyết “Kitô giáng thế ở Gôrôđen (1966), Nhành lúa dưới tay liềm (1968), Hắc lâu Oócsanxki (1979), các truyện dài Huyền thoại xa xưa (1961, nhạc sĩ Xmônxki soạn thành ca kịch năm 1978), Đội săn của Quốc vương Xtác (1964, dựng thành phim năm 1980), các tập tùy bút Cổ tích đất nước hổ phách (1963) và Tiếng chuông ngân dưới đáy hồ sâu thẳm (1969) v.v... - đều viết về lịch sử và thiên nhiên đất nước Bêlôruxi, bởi vì đối với ông, “Bêlôruxia là mảnh đất tươi đẹp nhất trên đời” (Truyện Hai chú gấu của tôi). Nói đến văn xuôi Bêlôruxia hiện đại, người ta liên tưởng đến hai tiếng chiến tranh. Những truyện dài và tiểu thuyết nối tiếng của Alêxi Ađamôvich, Vaxin Bưkôp, Ivan Mêlêgiơ và Ivan Samiakin... đã cho cả thế giới thấy tinh thần quật cường của một dân tộc mà cứ bốn người dân thì một người đã ngã xuống trong vòng có bốn năm chiến tranh (1941-1945). Trở lại với lịch sử xa xưa, với thiên nhiên đất nước, Kôrôtkêvich dường như muốn đi tìm cội nguồn của tinh thần quật cường ấy... Tìm mua: Đội Săn Của Quốc Vương Xtac TiKi Lazada Shopee Bêlôruxia - Bạch Nga - là mảnh đất miền Tây Liên Xô, với những rừng thông bạt ngàn và rừng dương trắng ngần, với những sình lầy rộng mênh mông như biển cả, dài rộng hàng mấy trăm cây số, những hồ nước trong xanh giữa rừng hay đồng cỏ, những lâu đài trung cổ rêu phong vẫn còn gìn giữ bao điều bí ẩn: Những âm thanh huyền bí, những ảo ảnh lạ kỳ... Vốn là một bộ phận của nước Nga Kiep cổ đại vì nằm lọt giữa những quốc gia phong kiến hùng cường thời trung cổ như Nga, Litva, Ba Lan, Áo - Hung nên mảnh đất Bêlôruxia đã phải chịu một số phận đau thương: bị giành đi giật lại, bị chia đôi xẻ ba, bị đàn áp đè nén. Trong những bước gian truân ấy của đất nước, các tầng lớp trên - tầng lớp địa chủ quý tốc Sliăcta trước kia và tầng lớp địa chủ tư sản sau này - vì những quyền lợi ích kỷ đã buôn đi bán lại cả Tổ quốc, phản lại cả dân tộc mình. Chỉ có một số ít những phần tử lẻ loi - những con quạ trắng - như Kaxtuxô Kalinôpxki, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa 1863-1864 của nông dân Bêlôruxia, (sinh năm 1838, bị xử tử năm 1864), như các thanh niên trí thức tiên tiến Xvetilôvich và Bêlôretxki trong truyện Đội săn..., là dám đoạn tuyệt với gai cấp đã thoái hóa của mình đứng hẳn về phía nhân dân, cùng những người dân lao động Bêlôruxia đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Truyện của Kôrôtkêvich phong phú giá trị nhận thức và giáo dục có nhiều yếu tố ly kỳ. Văn ông giàu tính lãng mạn, đan quyện lẫn nhau những yếu tố thực và hoang đường. Truyện dài Đội săn của Quốc vương Xtác là một ví dụ tiêu biểu cho thể loại trinh thám lịch sử, gần đây khá phát triển trong một số nền văn học dân tộc ở Liên Xô. Truyện lấy đề tài trong những truyền thuyết về lời nguyền muôn thuở và sự báo oán khủng khiếp của Quốc vương Xtác cùng đội săn của Người đối với dòng họ Sliăcta Janốpxki đã phản bội Tổ quốc Bêlôruxia. Truyền thuyết, dẫu rùng rợn khủng khiếp đến đâu, vẫn không đáng sợ, vẫn đẹp như mọi câu huyền thoại. Nhưng đáng sợ thực sự, đáng cảnh giác thực sự khi cái đội săn tương truyền đã vùi xác dưới đáy sình lầy cách đây hàng mấy thế kỷ, nay bỗng thoắt hiện, thoắt ẩn, gây nên những tội ác đẫm máu và gieo rắc kinh hoàng khắp một vùng xung quanh. Vậy chúng là ai? Ma quỷ hiện hình hay một lũ bất nhân đội lốt ma quỷ? Xin để bạn đọc thưởng thức tài dẫn dắt câu truyện của Kôrôtkêvich. VŨ THẾ KHÔI *** Tất cả câu chuyện chỉ có vậy. Ngày hôm sau, lần đầu trong suốt thời gian ấy, ánh mặt trời cùng một lớp băng tuyết mỏng rải lên khắp sình lầy, bãi hoang, lên những ngọn cây tùng trong khu vườn, lên những bức tường rêu phong của tòa lâu đài. Bãi cỏ cao lúc đầu bao phủ một lớp phấn trắng giá lạnh, ửng hồng dưới những tia nắng đầu tiên. Cả tường nhà cũng ửng hồng, tươi trẻ ra, dường như bừng tỉnh sau giấc ngủ mê nặng nề ngự trị trên tòa lâu đài suốt ba năm trời. Những ô kính ngũ sắc lấp lánh tươi vui dưới những tia nắng dịu ban mai, mặt đất cạnh tường đổ mồ hôi, thảm cỏ trở nên ướt át. Hai chúng tôi ra đi. Cỗ xe đỗ trước cửa lâu đài. Của nả chẳng có là bao, đã buộc sẵn sau xe. Tôi dắt Nađêia mình choàng một tấm áo lông nhẹ, đưa ra khỏi nhà, đỡ nàng lên xe và leo lên ngồi xuống cạnh nàng, chúng tôi cùng đưa mắt nhìn tòa lâu đài lần cuối, nơi chúng tôi đã cùng nếm trải khổ đau và bất ngờ tìm thấy một tình yêu đáng để hiến dâng cả cuộc sống mà không hề hối tiếc. - Em định làm gì với toàn bộ cái của này? - Tôi hỏi. Nađêia rùng mình như thể bị lạnh. - Những đồ cổ, hiến cho các bảo tàng; còn đâu, để cho anh em mugik đã đứng dậy bảo vệ cửa nhà của chính mà và đã cứu sống em. Tòa lâu đài, hiến làm bệnh viện, trường học hay cái gì cũng được. - Nàng mỉm cười chua chát: - Gia tộc sản! Biết bao máu đổ, cả một mớ những hành vi đê hèn, những tội lỗi, mưu mô hiểm độc... Vì mục đích gì kia chứ? Vì một chút vàng bạc... Thôi, xin trả lại cho Chúa cái gia tộc sản này. Tôi ôm đôi vai mảnh dẻ của nàng. - Anh biết mà. Đúng là phải xử trí như vậy. Chúng ta cần gì cái của nợ ấy, nếu như chúng ta đã tìm được nhau. Chúng tôi trao tòa lâu đài cho người quản gia mới là chị nông dân góa bụa có đứa con nhỏ mà tôi đã có lần bắt gặp bên lề đường, đưa về. Đám gia nhân vẫn nguyên vị. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm khi tòa lâu đài khuất sau rặng cây. Cơn ác mộng đã vĩnh viễn kết thúc.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đội Săn Của Quốc Vương Xtac PDF của tác giả Vladimir Korotkevich nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đời Này Không Đổi Thay (Huyền Mặc)
Anh vốn là kẻ ngông cuồng tự đại, khi còn nhỏ vì bị bức ép mà phải dồn cô bạn thanh mai trúc mã của mình vào biển lửa, từ đó về sau anh hao tâm tổn sức làm biết bao chuyện nhằm bù đắp cho cô, ngày cầu hôn cũng là ngày cô quay lưng phản bội anh. Tình nghĩa nhiều năm hóa ra cũng chỉ là lời nói dối. Còn cô cả đời kiên cường, nhẫn nhịn, nhưng vì âm kém dương sai mà tận mắt chứng kiến cái chết của người mình yêu, từ đó cô đóng cửa trái tim mình nhất quyết gìn giữ lời thề ước cùng người đã khuất. Khi cây tường vi đã đi qua bốn mùa, tóc đã dài lại lần nữa cắt đi, không biết đã gặp gỡ bao lần, nhưng tất cả chỉ là trong giấc mộng. Ba năm sau, cơ duyên xảo hợp, cố nhân tương phùng, từng bước xích lại gần nhau, chẳng thể chia xa. Bên cạnh cô giờ đây có một người mới theo đuổi, một vị giảng viên đại học tưởng như nho nhã dịu dàng nhưng thân phận chứa đựng một bí mật không ngờ. Lan Phường lần nữa dậy sóng, hồi ức của mười năm sinh tử dần rơi vào tĩnh lặng, chỉ có tình yêu là tồn tại mãi mãi.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đời Này Không Đổi Thay PDF của tác giả Huyền Mặc nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đợi Mưa Tạnh (Úy Không)
Năm đó gặp lại thiên tài cao ngạo từng thích, Bắc Vũ quyết định qua đêm với người cha đơn thân ấm áp này.Khi còn trẻ bạn có từng thích một người hay không? Mỗi ngày giả vờ xuất hiện trước mặt anh ấy hàng trăm lần, nhưng chưa bao giờ dám nhìn thẳng anh ấy.Đây là một câu chuyện gian tình.Cao ngạo X diễn trò.Bên trong còn có em bé đáng yêu thường xuyên xuất hiện, xin hãy mang mặt nạ đề phòng đáng yêu. Tìm mua: Đợi Mưa Tạnh TiKi Lazada Shopee Còn nhớ rõ giấc mộng thời trẻ không? ***- Cô ơi. Cô kết hôn chưa?Bắc Vũ mỉm cười rồi lắc đầu.Phi Thuyền Nhỏ lại hỏi:- Vậy cô có bạn trai không?Bắc Vũ lại lắc đầu.Phi Thuyền Nhỏ vui vẻ ra mặt. Cậu nhóc rút một tờ rơi ra đưa cho cô:- Vậy cô xem cái này đi. Đây là bố cháu, bố cháu rất vĩ đại đấy.Bắc Vũ cầm lấy tờ rơi. Bên trên viết bốn chứ rất to: Tìm bạn trăm năm.Bên dưới là thông tin cá nhân của Thẩm Lạc. Thông tin cũng rất đơn giản, ngoài tên tuổi, bằng cấp ra, không còn gì nữa cả. Ngay cả ảnh cũng không có luôn.Bên dưới còn có một đoạn văn dài ca ngợi Thẩm Lạc nữa.***Cô tiến lại gần anh, hôn lên khóe môi của anh rồi nhẹ nhàng hỏi:- Vậy bây giờ chúng ta là gì của nhau?Thẩm Lạc cúi đầu nhìn cô, khóe môi anh cong lên:- Em nghĩ là gì?Bắc Vũ lại nói:- Em đang hỏi anh cơ mà.Cô đã tặng cờ tỏ tình rồi thì ít ra anh cũng phải làm gì đó để bày tỏ tâm ý chứ.Ai ngờ Thẩm Lạc lại nói:- Em thấy nó là cái gì, thì nó là cái đó.Anh giỏi lắm! Bắc Vũ nghĩ một lát rồi nói:- Em cảm thấy quan hệ của chúng ta chỉ hơn bạn giường một xíu thôi, vì chúng ta có hẳn một bản thỏa thuận cơ mà.Thẩm Lạc nhíu mày lại, có vẻ rất bất mãn.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đợi Mưa Tạnh PDF của tác giả Úy Không nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đôi Môi Của Nước (Alberto Ruy Sanchez)
Theo những đường nét thư pháp của Azizal-Ghazali, bậc thầy thư pháp của thành Modagor (nay là Essaouira, Maroc) và là tác giả của một khái luận tình yêu nay đã thất lạc có nhan đề Vòng xoáy của những cơn mơ, một người đàn ông đã hiến dâng cả đời mình cho nỗi khát khao yêu đương, làm hồi sinh thế giới huyền bí của những người Mộng du - những người được tình yêu biến đổi và chỉ có họ mới có thể mang lại hạnh phúc và khoái lạc trọn vẹn cho nhau. Chín chương sách được tạo điểm nhấn bởi chín giấc mơ trong khái luận của Aziz tạo nên một bài thơ vịnh về cơ thể người đàn bà, mang đậm chất thi ca và khiến ta chuếnh choáng. Tiếp theo Tên của khí trời, Đôi môi của nước là tiểu thuyết thứ hai trong bộ tiểu thuyết đề cập tới bốn nguyên tố cơ bản tạo nên thực tại theo quan niệm của người xưa (không khí, lửa, đất và nước). Trong khi Tên của khí trời dấn sâu vào dục vọng sâu kín của người phụ nữ, Đôi môi của nước là cuộc khám phá đầy khắc khoải về những giấc mơ tình ái của đàn ông. Cuốn sách tuyệt đẹp này, kết hợp văn xuôi đầy chất thơ với tuyến tự sự lôi cuốn, là ‘một bức thư tình dài viết bởi một người đàn ông đã đánh mất một người đàn bà và lên đường tìm kiếm nàng trên khắp thế gian’ (Lời của chính Ruy Sanchez), trong niềm mong mỏi nhận được hồi âm của người tình vắng mặt mà lại đồng thời hiện diện ở khắp nơi đó.*** Màn đêm em đang giữ trong bàn tay mình, màn đêm em đang vén ra để vuốt ve tôi trùm lên tôi như tấm áo choàng có những nếp gấp nơi tôi có thể ngụp lặn. Tôi chầm chậm tiến về phía em. Trong màn đêm, tia sáng mắt em dẫn bước tôi đi. Tôi thấy gương mặt em trong cơn mơ. Tôi thấy nụ cười em. Em nói với tôi điều gì đó mà tôi cũng chẳng hiểu. Em cười. Rồi em dùng đôi bàn tay chạm vào người tôi để giải thích. Em vẽ tên em trên bụng tôi, giống như hình xăm, với những chữ cái do em nghĩ ra, mà thực chất là những cái vuốt ve. Tôi đi lại phía em, với lòng kiên trì vô hạn - lòng kiên trì của hành trình vượt đại dương -, đi từ bến bờ thân tôi tới bờ bến thân em, và nụ cười nơi môi em là cơn gió lành cho thuyền tôi vượt sóng. Màn đêm trong lòng bàn tay em cùng cất lời ca với sóng biển dạt dào. Em phủ lên lưng tôi những vệt sóng lừng ào tới êm dịu rồi lại lùi xa cùng lúc quàng lên bãi cát sỏi. Tìm mua: Đôi Môi Của Nước TiKi Lazada Shopee Em đi vào đôi tai tôi và vẽ lên đó những hình ốc, và tôi mang trong mình những cơn bão của em, những cơn lốc của em, những vực thẳm của em. Những âm thanh của em vang xuống tận cổ họng tôi. Em cũng ùa vào đôi mắt tôi, bằng cái nhìn đổi màu của nước, bằng bộ ngực em áp trên bộ ngực tôi khiến làn da tôi nơi đó run lên xúc động. Hông em cứ khoét mãi trên bãi cát sỏi nơi tận cùng bụng tôi thành rãnh sâu trong những cơn sóng cuồng nộ nhất. Em bao quanh những bãi biển của tôi, em vỗ sóng ập ào lên chúng và em nuốt chửng lấy chúng. Đám bọt biển của em và của tôi, làn môi của em và của tôi cùng hòa quyện. Làn da nước của em cất lời ca, giọng ca ấy cuốn tôi theo dòng nước. Trong bóng tối đôi bàn tay em, tôi tới thăm tất cả những cơn mơ của em. Hãy để tôi kể em nghe những giấc mơ của tôi bằng đôi tay mình. Từ chín năm nay, câu chuyện này khiến lưỡi tôi cháy bỏng. Tôi đã giữ kín nó hơn cả điều bí mật. Sáng nay, cơn mưa bất chợt xối xả đập mạnh vào cửa kính căn phòng tôi đang ngủ. Cứ như là dòng nước bị đôi bàn tay phù thủy của gió hung bạo quật vào những ô cửa kính vô cảm, biến chúng thành những tấm da trống, trên đó người ta đang gióng lên từng hồi để báo cho tôi biết có vị khách không đợi mà đến. Song những tiếng đập do dự của chúng đánh thức tôi dậy không thô bạo, bị lẫn với những hình ảnh cuối cùng trong cơn mơ của tôi. Tôi nghe thấy xa xa, qua tấm màn mưa, giọng nói êm dịu của Maêmoưna, rung rung sâu lắng, đang gọi tên tôi. Thế là tôi nhận ra tiếng nhạc trong như thủy tinh không phải do cơn mưa tạo ra mà do những móng tay nàng đang gõ háo hức vào cửa sổ phòng tôi. Đã bao năm nay tôi không gặp Maêmoưna: tôi sống xa nàng, ở một lục địa khác. Dẫu vậy, trong cơn mơ này, cơn mơ có vẻ thực hơn tất thảy những cơn mơ khác tôi từng trải qua, giọng nàng đang ve vuốt tên tôi. Nàng bảo tôi kể cho nàng nghe chuyện gì đã xảy đến với tôi ở Ma rốc, kể nàng hay xem tôi đã suýt cập bến bờ nào, lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. “Viết thư kể cho em chuyện đó nhé, nàng nói với tôi; khi nào anh viết thư thì chúng ta có thể sẽ gặp lại nhau,” cứ như thể khi viết ra câu chuyện này, tôi sẽ tạo nên những chiếc khóa vạn năng có sức quyến rũ kỳ lạ hay niệm những câu thần chú có quyền năng thay đổi cả cuộc đời tôi. Thế rồi nàng bỏ đi, đưa tôi trở lại với trống vắng - hẳn chính là cái trạng thái trống vắng mà giờ đây tôi đang cố lấp đầy bằng ngôn từ, bằng khao khát, bằng những hình ảnh tạo nên cái cốt của một câu chuyện, bằng những giấc mơ tôi đang dệt lên bề mặt ngày.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đôi Môi Của Nước PDF của tác giả Alberto Ruy Sanchez nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.