Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thiền Ăn - 108 Món Ăn Thực Dưỡng (Phạm Thị Ngọc Trâm)

MỤC LỤC

Lời dẫn nhập 11

La bàn hạnh phúc 21

Hạnh phúc là gì 22

Bí mật của sự giận dữ 23 Tìm mua: Thiền Ăn - 108 Món Ăn Thực Dưỡng TiKi Lazada Shopee

Phần 1: Thiền ăn 31

Những bí ẩn của Nghệ thuật nấu ăn phương Đông để phát 31 triển tâm trí.

Osho nói gì về việc ăn? 37

Nghệ thuật nấu ăn chay 52

Ăn uống để mở mang tâm trí 57

II. “Do” hay “Đạo” là gì? 60

III. Tự mình nhận thức và thay đổi 64

IV. Cách nấu ăn tân dưỡng sinh 69

V. Giá trị dinh dưỡng của bữa ăn tân dưỡng sinh 71

VI. Bữa ăn số 7 73

VII. Chuẩn bị và kế hoạch. 76

VIII. Mục đích nấu ăn 78

IX. Bí quyết nấu ăn 83

X. Cách ăn tốt nhất 10

XI. Vấn đề tâm linh và phong thuỷ đối với nhà bếp 106

XII. Bí quyết trường thọ của các vị sư chùa Thiếu Lâm 111

Trung Quốc

XIII. Để trở thành người nội trợ Macrobiotic hoàn hào. 117

XIV. 7 trình độ phán đoán trong nấu ăn (7 cách nấu ăn). 122

Pháp môn thiền ăn 130

Bạn ăn gì trong khi nhập thất ẩn tu? 165

Trọng tâm bữa ăn dành cho con người 167

Sưu tầm những bài Kinh cầu nguyện trước bữa ăn 175

Sinh ngày nào nên ăn thức ăn gì? 179

Phần II: 108 Món Ăn Chay Đại Bổ Dưỡng 183

Giới thiệu chung 183

I.Gạo lứt. 194

1-Giá trị của gạo lứt. 195

2-Cách chọn gạo: 199

3-Cách nấu cơm: 199

1)Món cơm lứt: 199

2)Cơm lứt nắm: 200

3)Cơm lứt rang: 200

5)Hồ cháo gạo lứt - kem gạo 201

6)Cháo gạo lứt rang: 201

7)Cháo gạo lứt đỗ đỏ: 201

8)Cháo gạo lứt rau củ: 201

9)Cháo gạo lứt răm 202

10)Bánh đúc gạo lứt 202

11)Gạo lứt rang ăn liền kiểu 1 202

12)Gạo lứt rang ăn liền kiểu 2 203

13)Bánh cuốn gạo lứt 203

14)Bánh phở trà - Phở Ohsawa (cách làm) 203

15)Bún lứt Ohsawa 204

16)Phở nước chay: 204

17)Phở trà xào tamari 207

18)Bún lứt xào 207

19)Bánh xèo gạo lứt 207

20)Bánh đa gạo lứt nướng: 207

20)Bánh đa gạo lứt rán: 207

21)Bánh đa gạo lứt nấu: 208

22)Gạo lứt rang: 208

23)Sữa thảo mộc 208

24) Cà phê Ohsawa: 209

25) Xôi nếp lứt: 209

26) Rượu nếp: 209

II.Tương cổ truyền: 211

1) Giá trị dinh dưỡng 211

2) Vi sinh vật trong sản xuất Tương 214

3) Kỹ Thuật Sản Xuất Tương: 216

4) Một Số Món Ăn Chế Biến Từ Tương: 228

27) Tương chanh: 228

28) Tương gừng: 229

29) Tương củ cải trắng: 229

30) Nước chấm hỗn hợp: 229

31) Tương sốt hành: 229

32) Nước tương: 229

33) Tương vừng 229

34) Rau củ luộc rưới tương: 229

35) Xốt tương cà chua 230

36) Xốt tương bơ vừng 230

36) Dầm cà 219

37) Xu hào, cà rốt, củ cải héo dầm tương: 231

38) Canh dưa chua: 231

39) Rau muống nấu canh tương gừng. 231

40) Trám dầm tương: 231

41) Củ sen xào tương: 231

42) Củ xu hào kho tương: 232

43) Xốt củ sen 232

44) Rau cải xoong nấu canh cà chua với tương: 232

45) Xu hào, cả rốt xào với tỏi tây và cần tây 233

46) Mướp đắng kho tương: 233

47) Đậu phụ hấp tương gừng 234

48) Mì căn xào sả ớt 234

49) Nấm hương (hay nấm đông cô) chấm tương gừng 234

50) Đậu phụ ướp gia vị rồi rán vàng 235

51) Calathầu: 235

III.Mi sô 236

1) Đỗ nành: Nguồn Prôtêin của tương lai 236

2) Mi sô là thức ăn: 236

3) Giá trị của misô: 237 a) Nhiều lượng đạm có phẩm chất cao 237 b) Miso - món ăn đầy sức sống. 237 c) Nguồn làm giầu Protein. 239 e) Thêm hương vị cho bữa ăn kiêng muối 240 g) Bí quyết nấu ăn ít chất béo: 241 h) Gia vị tuyệt vời cho những người muốn giảm cân. 242 i) VITAMIN thiết yếu B12 nguồn gốc thực vật. 242 k) Tăng cường sức khoẻ và tuổi thọ 243 l) Chất thay thế tuyệt vời (có chứa kiềm) 244 m) Có thể tránh được bệnh nhiễm phóng xạ. 245 n) Trung hoà hậu quả của thuốc lá và sự ô nhiễm môi 247 trường o) Misô đóng vai trò quan trọng như thế nào đối với sức 248 khoẻ con người: p) Chất protein 252

4) Cách làm miso 256

5) Các món ăn sử dụng misô: 260

52) Miso cho vào phở: 260

53) Gia vị Diệu Minh: 260

54)Bột sữa thảo mộc Miso 260

55) Miso trộn bơ vừng: 261

56) Patê thiên nhiên: 261

57) Tekka: 261

58) Xúp misô: 262

59) Đậu phụ nấu canh rong biển với Miso: 262

60) Protein thực vật tổng hợp: 262

61) Canh rau sắng với miso 263

62) Củ niễng xào miso: 264

63) Miso nhồi củ sen: 264

64) Xúp Mã thầy (củ Năng) với miso 264

65) Xúp củ mài 265

66) Xúp rau hoang với miso 266

67) Xúp củ sen, bí đỏ, miso: 266

68) Miso lâu năm độc vị hoà với nước ấm: 266

69) Rau củ hấp rưới nước xốt miso: 266

70) Thức rưới miso giấm 267

71) Thức rưới miso vừng, lạc, hạt điều 268

72) Nem cuốn miso: 269

73) Xúp hạt sen với miso và bột sắn dây 269

74) Thạch rau củ 270

75) Các kiểu nộm rau củ 270

76) Nộm xu hào với thức rưới miso giấm: 270

77) Canh các loại hoa với miso 271

78) Chả lá lốt 271

79) Nộm đỗ xanh quả và đậu phụ với nước rưới miso gừng 271

80) Miso trộn hành tây 271

81) Xúp miso nấm 272

82) Xúp miso cơ bản 272

83) Xúp nấm nghiền nhỏ với Miso 273

84) Chả đậu Misô hành tây 273

85) Xúp cà rốt ép với Miso 274

86) Miso với cơm gạo đỏ 274

87) Cơm rang với hạt dẻ (lạc, hạt điều) và miso 275

88) Cơm gạo lứt rưới miso đặc 275

89) Miso nướng 275

IV. Natto 276

V. Vừng 276

1) Giá trị dinh dưỡng của vừng: 276

2) Thử dùng vừng chừa đôi bệnh 276

89) Muối vừng 279

90) Bơ vừng (còn gọi là bơ mè) 279

91) Vừng đen 279

92) Dầu vừng phi hành 280

93) Chè vừng đen (chí mà phù) 280

94) Bơ vừng phết bánh đa lứt nướng 281

95) Món ăn quý để chăm sóc da mặt và tăng cân 281

VI. Tamari 281

96) Tamari ngâm tỏi: 282

97) Rau muống xào tamari tỏi 282

VII. Rong biển 282

98) Nem rán: 286

99) Phổ - Bí - Đỗ 286

100) Xúp rong biển: 286

Rong biển cuốn váng sữa đậu nành 286

Ruốc rong biển (chà bông rong biển) 287

VIII. Ngô. 287

103) Chả Ngô: 287

VIII. Ngô. 287

103) Chả Ngô: 287

104) Xúp ngô bắp: 287

IX. Sen 288

105) Củ sen luộc 288

106) Sen toàn phần 288

X. Sắn dây 288

107) Rong biển cuốn 291

XI. Dưa muối 292

108) Dưa muối cám 292

Sự kỳ diệu cùa trái mơ muối (ô mai) 293

Thức uống 299

Trà Bancha 299

Trà Mu 301

Trà Bình Minh 302

Trà gạo đỏ, trà lúa mạch 302

Trà rễ Bồ Công Anh 303

Canh dưỡng sinh 303

Thực đơn số 7 - áp dụng cho người bệnh 306

Các món ăn tráng miệng 308

Những thức ăn cùng với nhau trong một bữa ăn làm ngộ 309 độc:

Cách tổ chức ăn uống cho một khoá tu tích cực: 309

Cao dao tục ngữ liên quan tới ăn uống và đàn bà: 310

Cách thức nâng cao trí phán đoán? 312

Sách nên đọc về phương pháp Thực dưỡng Ohsawa- y đạo 313 đông phương

Địa chỉ Thực dưỡng tin cậy 315

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thiền Ăn - 108 Món Ăn Thực Dưỡng PDF của tác giả Phạm Thị Ngọc Trâm nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Thiền sư Khương Tăng Hội - Sơ tổ của Thiền tông Việt Nam và Trung Hoa
Thiền sư Khương Tăng Hội, người đầu tiên mang đạo Phật vào Trung Quốc và Việt Nam!. Đạo Phật truyền vào Việt Nam bằng con đường hàng hải. Đây chính là thể thức giao tiếp, của các nước lân cận thời ấy. Người dân qua lại, giao hảo bằng những đoàn thương thuyền, để trao đổi hàng hóa cần dùng như, tơ lụa, quế, tiêu, các vật dụng hàng ngày. Trên những đoàn thương thuyền ấy, đã mang theo các nhà Sư Ấn Độ, để họ tụng kinh cầu nguyện sự bình an. Đây là quan niệm và cũng là niềm tin tôn giáo, được khẳng định một cách tích cực, trong những sinh hoạt hàng ngày, của dân hàng hải thương nghiệp này. Từ đây, chúng ta hiểu được rằng, đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam, từ thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch. Con đường hoằng pháp của chư Tăng đơn giản, không nhu cầu, phương tiện to tát, mà chỉ được xem như là người thương lái trong đoàn hàng hải, nhưng họ có một niềm tin kiên cố. Chư Tăng có thể tụng kinh, niệm Phật thắp hương, đốt trầm trên những con thuyền đó. Nếp sống tâm linh ấy, đã in sâu vào tâm thức người dân Ấn Độ. Đời sống tâm linh này, đã được sinh hoạt thường nhật, dù nơi quê hương Ấn Độ hay Việt Nam thời bấy giờ. Chính vì sự sinh hoạt tâm linh này, mà người Việt Nam mới biết đến đạo Phật. Ngoài tinh thần văn hóa Phật giáo, người Việt Nam cũng đã học thêm được nhiều điều khác, của nền văn hóa dân gian, cách trồng cấy, lương thực, thảo dược, y học, vân vân, nhờ vậy mà đời sống xã hội, đã có một bước tiến xa hơn. Trong những đoàn người thương lái ấy, có Thân phụ Tổ Sư Khương Tăng Hội, đã đến Giao Chỉ, lưu lại và lập nghiệp nơi đây, có lẽ vì tìm ra vùng đất mới thích hợp, cho nếp sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc, thân sinh Ngài đã lập gia đình với một người phụ nữ Việt. Năm Ngài 10 tuổi, cả hai bậc sinh thành đều khuất núi, kể từ đó Ngài chịu cảnh mồ côi. Mặc dù tuổi còn nhỏ, nhưng hẳn là có túc duyên, nên Ngài quyết chí xuất gia, tu học đạo giác ngộ, mà chính Thân phụ Ngài thuở sinh tiền cũng đã tu tập, trong vai trò người cư sĩ Phật tử. Sự hiện diện của Ngài trong bối cảnh lịch sử thời ấy, đã minh thị một cách hùng hồn rằng. Cây Phật Giáo Việt Nam đã ăn sâu mọc rễ vững chắc, trên mảnh đất Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3, sau Tây Lịch. Qua giá trị lịch sử ấy, đã cho ta cái nhìn tường tận và hiểu biết chính xác, để biết rằng Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam, sớm hơn Phật Giáo có mặt trên đất nước Trung Quốc!. Phật Giáo Việt Nam, tiếp nhận trực tiếp từ Phật giáo Ấn Độ, Ngài Khương Tăng Hội đã đi tu từ năm mười tuổi, và khi trưởng thành, Ngài đã mang tinh thần Thiền học Việt Nam, sang truyền giáo nơi vùng Giang Tả, thời Ngô Tôn Quyền xưng Đế. Ngài mở cuộc Đông Du, vào năm Xích Ô thứ mười, mới đến Kiến Nghiệp. Ngài dừng chân tại đây, lập ngôi nhà tranh trú ngụ, dựng tượng Phật để thờ, và bắt đầu cho công trình hoằng pháp.
Thiền Đốn Ngộ - Thích Thanh Từ
Đốn ngộ không phải là chóng ngộ, nhanh ngộ mà là nhắm vào cái gốc của mọi vấn đề là chỗ khởi sinh các niệm, tức nhân tâm, mà công phu, một lần hết sach vô minh, nên gọi là đốn. Nó đối lập với các pháp thiền tiệm, tức kiểm soát từng niệm một, không cho niềm tà khởi sinh, như ngồi lặt lá. Đốn ngộ không phải là chóng ngộ, nhanh ngộ mà là nhắm vào cái gốc của mọi vấn đề là chỗ khởi sinh các niệm, tức nhân tâm, mà công phu, một lần hết sach vô minh, nên gọi là đốn. Nó đối lập với các pháp thiền tiệm, tức kiểm soát từng niệm một, không cho niềm tà khởi sinh, như ngồi lặt lá.
Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo - Vật tổ và cấm kỵ
Văn hoá và tôn giáo là những vấn đề vô cùng phức tạp và rông lớn, tác động sâu xa tới toàn bộ đời sống xã hội, tới ý thức, lối sống và nhân cách cá nhân của mọi thành viên. Do vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu có tính chất bao trùm lên toàn bộ các khoa học xã hội và nhân văn. Học thuyết Marx với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã có cống hiến to lớn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các khái niệm đó. Tính đúng đắn của học thuyết Marx, đặc biệt là các công trình của F. Engels, là chỉ ra một cách khoa học và thuyết phục những cơ sở lao động-kinh tế của việc hình thành ý thức xã hội, lâu đài văn hoá, tín ngưỡng, các phong tục tập quán và mối tương quan giữa ý thức xã hội với nhân cách cá nhân. Chủ nghĩa Marx nhìn nhận các hiện tương xã hội đó như là kết quả của hành động có ý thức của con người. Tuy nhiên, hành động của con người, đặc biệt là hành vi của các cá nhân, không phải chỉ được điều khiển bởi ý thức, mà có khi nó còn bị thúc đẩy bởi các động lực vô thức nằm sâu trong tận đáy tâm thức của con người, cái đôi khi được đồng nhất với bản năng. Văn hoá và tôn giáo là những vấn đề vô cùng phức tạp và rông lớn, tác động sâu xa tới toàn bộ đời sống xã hội, tới ý thức, lối sống và nhân cách cá nhân của mọi thành viên. Do vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu có tính chất bao trùm lên toàn bộ các khoa học xã hội và nhân văn. Học thuyết Marx với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã có cống hiến to lớn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các khái niệm đó. Tính đúng đắn của học thuyết Marx, đặc biệt là các công trình của F. Engels, là chỉ ra một cách khoa học và thuyết phục những cơ sở lao động-kinh tế của việc hình thành ý thức xã hội, lâu đài văn hoá, tín ngưỡng, các phong tục tập quán và mối tương quan giữa ý thức xã hội với nhân cách cá nhân. Chủ nghĩa Marx nhìn nhận các hiện tương xã hội đó như là kết quả của hành động có ý thức của con người. Tuy nhiên, hành động của con người, đặc biệt là hành vi của các cá nhân, không phải chỉ được điều khiển bởi ý thức, mà có khi nó còn bị thúc đẩy bởi các động lực vô thức nằm sâu trong tận đáy tâm thức của con người, cái đôi khi được đồng nhất với bản năng. Với tư cách một học thuyết duy vật biện chứng và lịch sử được xây dựng trên cơ sở các thành tựu mới nhất của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đương thời, nó thừa nhận tiến hoá luận của Darwin, tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H. Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước trong thời kì chiến tranh lạnh. Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội. Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở của phân tâm học. Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn hoá của các dân tộc. Mặt khác, sự ra đời của các tác phẩm phân tâm học về xã hội cũng là sản phẩm bởi tác động của các bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Các nguồn tư liệu gần đây cho thấy Freud, Adler cũng như nhiều nhà phân tâm học hàng đầu khác cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20 đã có những quan hệ chặt chẽ với phong trào công nhân châu Âu dưới sự lãnh đạo của những người xã hội dân chủ theo tư tưởng Mác-xít. Thậm chí bản thân một số nhà phân tâm học đồng thời là lãnh tụ của các đảng phái xã hội dân chủ, như A. Adler, H. Heller, C. Furtmueller, D.-E. Openheim. Bản thân Freud cũng như nhiều nhà phân tâm học khác tỏ ra tán thành quan điểm tâm lí hoc duy vật Mác-xít. Vật tổ và cấm kị (Totem und Tabu) là tác phẩm quan trọng nhất của Freud nói riêng và của phân tâm học nói chung về nguồn gốc của văn hoá và tín ngưỡng. Ngay tác phẩm cuối cùng Moise và tôn giáo nhất thần (1939) cũng như Tâm lý học đại chúng và phân tích cái tôi (1921) đều xây dựng trên cơ sở Vật tổ và cấm kị. Phải chăng đó là sự ngoan cố của Freud, cái đã cho phép ông bám chắc các luận đề của mình, hay phải chăng những lý thuyết ông phát minh trong đó chính là những viên đá tảng quan yếu cho văn hoá luận phân tâm học? Tác phẩm này được chính Freud xem là "thử nghiệm đầu tiên (...) trong vận dụng các quan niệm và kết quả nghiên cứu của phân tâm học vào các vấn đề chưa sáng tỏ của tâm lí hoc dân tộc", và đối với độc giả thì nó "đáp ứng mối quan tâm của một phạm vi rộng lớn hơn của những người có văn hóa, nhưng thực ra chúng chỉ có thể được hiểu và phân định bởi một số ít ỏi nhất mà với họ phân tâm học không còn xa lạ nữa. Nó ra đời trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lâm sàng và điều trị bệnh nhân tâm thần của chính Freud, các công trình khảo cứu nhân chủng học và văn hóa học của nhiều học giả, đặc biệt là Frazer, và ít nhiều chịu kích thích trực tiếp từ tác phẩm Những biến hoá và biểu tượng của dục tính của nhà phân tâm học trẻ C-G. Jung, môn đệ của ông. Nhưng tác phẩm của Freud có sức khái quát hoá hơn hẳn và mang tính duy vật cao. Với tư cách một học thuyết duy vật biện chứng và lịch sử được xây dựng trên cơ sở các thành tựu mới nhất của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đương thời, nó thừa nhận tiến hoá luận của Darwin, tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H. Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước trong thời kì chiến tranh lạnh.Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội. Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở của phân tâm học.Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn hoá của các dân tộc. Mặt khác, sự ra đời của các tác phẩm phân tâm học về xã hội cũng là sản phẩm bởi tác động của các bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Các nguồn tư liệu gần đây cho thấy Freud, Adler cũng như nhiều nhà phân tâm học hàng đầu khác cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20 đã có những quan hệ chặt chẽ với phong trào công nhân châu Âu dưới sự lãnh đạo của những người xã hội dân chủ theo tư tưởng Mác-xít. Thậm chí bản thân một số nhà phân tâm học đồng thời là lãnh tụ của các đảng phái xã hội dân chủ, như A. Adler, H. Heller, C. Furtmueller, D.-E. Openheim. Bản thân Freud cũng như nhiều nhà phân tâm học khác tỏ ra tán thành quan điểm tâm lí hoc duy vật Mác-xít.Vật tổ và cấm kị (Totem und Tabu) là tác phẩm quan trọng nhất của Freud nói riêng và của phân tâm học nói chung về nguồn gốc của văn hoá và tín ngưỡng. Ngay tác phẩm cuối cùng Moise và tôn giáo nhất thần (1939) cũng như Tâm lý học đại chúng và phân tích cái tôi (1921) đều xây dựng trên cơ sở Vật tổ và cấm kị. Phải chăng đó là sự ngoan cố của Freud, cái đã cho phép ông bám chắc các luận đề của mình, hay phải chăng những lý thuyết ông phát minh trong đó chính là những viên đá tảng quan yếu cho văn hoá luận phân tâm học? Tác phẩm này được chính Freud xem là "thử nghiệm đầu tiên (...) trong vận dụng các quan niệm và kết quả nghiên cứu của phân tâm học vào các vấn đề chưa sáng tỏ của tâm lí hoc dân tộc", và đối với độc giả thì nó "đáp ứng mối quan tâm của một phạm vi rộng lớn hơn của những người có văn hóa, nhưng thực ra chúng chỉ có thể được hiểu và phân định bởi một số ít ỏi nhất mà với họ phân tâm học không còn xa lạ nữa. Nó ra đời trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lâm sàng và điều trị bệnh nhân tâm thần của chính Freud, các công trình khảo cứu nhân chủng học và văn hóa học của nhiều học giả, đặc biệt là Frazer, và ít nhiều chịu kích thích trực tiếp từ tác phẩm Những biến hoá và biểu tượng của dục tính của nhà phân tâm học trẻ C-G. Jung, môn đệ của ông. Nhưng tác phẩm của Freud có sức khái quát hoá hơn hẳn và mang tính duy vật cao.
Lịch sử giáo hội Công giáo
Hầu hết những gì xảy ra trong Kitô Giáo ở thế kỷ thứ nhất thì quen thuộc với chúng ta, nhờ kinh thánh Tân Ước. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, chúng ta biết công cuộc truyền giáo đã nới rộng giáo hội của Ðức Giêsu Kitô từ nguyên thủy ở Giêrusalem, gồm những người Do Thái tòng giáo theo Ðức Kitô, đến những người Dân Ngoại ở nhiều nơi trong Ðế Quốc La Mã và cho đến tận Rôma. Sự bình an tương đối trong thế kỷ này, cũng như hệ thống đường bộ và đường thủy của người La Mã, đã giúp Kitô Giáo có thể phát triển nhanh chóng. Nền văn hóa chung và một ngôn ngữ chung cũng giúp cho sự bành trướng. Tuy nhiên, động lực chính của sự phát triển Kitô Giáo là Chúa Thánh Thần, Ðấng đã làm nên các tông đồ vĩ đại như Thánh Phaolô và các vị tử đạo như Stêphanô, là vị tử đạo đầu tiên. Khi Phúc Âm được loan truyền cho đến tận cùng trái đất bởi những nhà thừa sai Công Giáo vào nửa đầu thế kỷ mười bảy, Âu Châu đã đắm chìm trong các cuộc chiến tôn giáo cay đắng giữa người Công Giáo và Tin Lành và giữa các quốc gia theo Tin Lành. Cuộc chiến sau cùng xảy ra ở nước Ðức. Cuộc chiến Ba Mươi Năm (1618-1648) được chấm dứt bằng Thỏa Ước Westphalia (1648), nó đã đem lại cho người Công Giáo, Luther và Calvin ở Ðức sự bình đẳng trước pháp luật. Trên thực tế, mỗi quốc gia hay mỗi vùng trong nước đều có một Giáo hội Kitô giáo riêng và tín đồ của các giáo phái khác sống tại lãnh thổ đó thường bị bách hại trực tiếp hay gián tiếp. Tuy nhiên, trong mỗi vùng của Giáo Hội phân ly, vẫn có nhiều nơi mà Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô bừng cháy một cách chói lọi. Chắc chắn rằng Giáo Hội Công Giáo vẫn mong tìm ra cách củng cố đời sống Công Giáo ở Âu Châu, cũng như để lan tràn đức tin Công Giáo trên toàn thế giới. Cho đến nay, Giáo Hội Công Giáo đã vượt qua được những thử thách lớn lao và tồn tại với một sinh lực được đổi mới.