Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Góc Nhìn Của Người Thông Thái
Những câu chuyện của Fulghum hết sức bình thường và đơn giản như “Bộ sưu tập trên cánh cửa tủ lạnh”, nhưng với góc nhìn của Fulghum, ông cho rằng: “Khi bạn không còn được nhìn thấy những tác phẩm nghệ thuật mới bổ sung vào bộ sưu tập trên cánh cửa tủ lạnh, điều đó đánh dấu sự trưởng thành của con cái bạn. Vài năm sau đó, khi tủ lạnh nhà bạn lại đầy ắp những tác phẩm nghệ thuật mới, nghĩa là con cái của bạn đã trở thành những bậc phụ huynh. Khi đã lên chức ông, chức bà, bạn sẽ càng say mê hơn với các tác phẩm nghệ thuật trên cánh cửa tủ lạnh và sẵn sàng dán lên đó bất cứ thứ gì mà lũ cháu nội, ngoại yêu cầu.” Hay trong “Trường học, trẻ con, người lớn và những điều phải học”, tác giả đưa ra một vấn đề mà khiến ta ngạc nhiên vì nó hẳn thế nhưng ta đã không để ý, đã để nó bị lấp đi:” Khi được hỏi tại nhà trẻ: “Bao nhiêu bạn ở đây có thể vẽ?”, mọi cánh tay đều giơ lên. Tất nhiên là tất cả chúng con đều biết vẽ. Thế các con có thể vẽ cái gì? Tất cả mọi thứ! Thế cảnh một con chó đang nuốt chiếc xe cứu hỏa trong rừng thì sao? Dĩ nhiên rồi. Thầy muốn con chó to cỡ nào?“Ai trong số các con có thể hát?”. Tất cả đều giơ tay. Tất nhiên là chúng con có thể hát! Các con biết hát bài gì nào? Tất cả các bài ạ! Nhưng nếu các con không thuộc lời thì sao? Không sao, chúng con sẽ tự chế lời. Có vấn đề gì đâu, bây giờ chúng ta hãy cùng hát nhé! Bây giờ ư? Tại sao không!(…) Câu trả lời của bọn trẻ luôn là “Có ạ!”. Lặp đi lặp lại như thế. Trong mỗi đứa trẻ luôn có một sự tự tin bẩm sinh, một nguồn vui vô tận và khát khao học tập không ngừng. Với chúng, mọi thứ đều có thể thực hiện được.Thử hỏi với cùng những câu hỏi trên tại các trường đại học, cao đẳng. Chỉ một số rất nhỏ những cánh tay đưa lên khi sinh viên được hỏi họ có thể vẽ, có thể nhảy, có thể hát, có thể sơn màu, có thể diễn kịch hay chơi một nhạc cụ không. Không hiếm các trường hợp giơ tay đã trả lời cùng với một hạn định kiểu như: “Tôi chỉ chơi đàn piano, tôi chỉ vẽ về loài ngựa, tôi chỉ nhảy với nhạc rock and roll hay tôi chỉ hát dưới vòi hoa sen”.”Vậy điều gì đã tạo nên sự khác biệt ấy? Và vì sao chúng ta dần mất hết sự tự tin khi lớn lên? Fulghum đưa ra vấn đề, và không ai khác là chính bạn phải có câu trả lời cho riêng mình.Những mẩu chuyện dung dị dưới nhãn quan rộng mở của Fulghum trong “Góc nhìn của người thông thái” đã được viết bằng một phong cách gần gũi và khiêm nhường, dí dỏm và hấp dẫn với sự thông thái của riêng ông. “Góc nhìn của người thông thái” đem lại cảm giác ấm áp như thể ta đang ngồi dưới mái hiên nhà bà mình vào một chiều chủ nhật, thong thả nhấm nháp từng ngụm kem mát lành… *** Góc Nhìn Của Người Thông Thái gồm có: Thế à Bộ sưu tập trên cánh cửa tủ lạnh Món bánh thịt và bữa ăn vào lúc hai giờ sáng Bài kiểm tra hudson’s bay Start "Cô bé lọ lem", nhân vật chú heo con và một nửa câu chuyện cười với giá 5 xu Điếu xì gà ngon nhất của tôi Ý nghĩa xã hội của chứng nấc cụt Hãy kể về những câu chuyện tình Ngày của lửa Triết lý đom đóm Vụ ném trứng lịch sử Bán chim ở đền - cho đi và nhận lại Lợi nhuận và thua lỗ - nguyên tắc cơ bản nhất trong kinh doanh Cách duy nhất để ra ngoài là bước vào trong Lão già quái chiêu Howard và Chúa trời Bạn có biết hát không? Câu chuyện về bài hát "Home on the Range" Những nghi thức đón chào năm mới Grady và hai thùng sơn màu vàng chanh Học cách phân biệt phiền phức và khó khăn thực sự Gyda - con chó trinh nữ Khu nhà kho ẩn dật Fulghum và Quán trọ Một người Đội Quân Cứu Tế và cậu bé rung chuông Những tang lễ ấn tượng Ba bức ảnh đặc biệt Anh chàng Cỗ máy Thời Gian Nếu bạn trở về với một thời kỳ lịch sử nào đó… Anh hề xiếc Trường học, trẻ con, người lớn, và những điều phải học Emily phipps - sự tồn tại của một nhân vật hư cấu Chiếc bát chứa đựng tư duy *** THẾ À Từ "Thế à" không có trong các từ điển thông dụng cũng như chuyên ngành, và rất hiếm khi hiện diện trong văn viết. Tuy nhiên, những âm tiết này lại được chúng ta sử dụng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, cho đến tận khi xuôi tay nhắm mắt. "Thế à" là một trong những cách thức truyền đạt ngôn từ đầu tiên mà đứa trẻ học được. "À" hay những âm tiết đại loại như thế sẽ còn được sử dụng chừng nào loài người còn tồn tại. Có lẽ đây cũng là từ đầu tiên mà Adam thổ lộ với Eva ngay sau khi cắn quả táo. Và Eva biết chính xác những suy nghĩ đang diễn ra trong đầu Adam. Xuyên suốt lịch sử tiến hóa của loài người, có hàng triệu, hàng triệu âm tiết đã xuất hiện rồi biến mất trong khi chúng ta vẫn không ngừng có được những cách thức để giao tiếp với nhau. Thông thường, những âm tiết dùng để biểu cảm không được xem là một từ có nghĩa, mà chỉ là những âm thanh ngắn đại diện cho những suy nghĩ phức tạp. Đó là những tiếng càu nhàu, tiếng than vãn, tiếng khịt mũi tỏ ý chê bai, tiếng tặc lưỡi, tiếng huýt sáo kết hợp với những biểu hiện phức tạp trên gương mặt hay ngôn ngữ hình thể: ừ, à, ừm, hừ, hey, oh, ok… Những âm tiết này thường vô nghĩa và xét về mặt chính tả thì không thể ký âm trên giấy. "Thế à" đứng đầu danh sách những âm tiết nhỏ nhưng có nhiều ý nghĩa. Chúng ta nói "Thế à" với một đứa bé khi nó ngã, bị cụng đầu hay bị kẹp tay. Điều đó có nghĩa là chúng ta biết đứa trẻ có bị đau, nhưng nỗi đau này sẽ nhanh chóng qua đi, đứa trẻ có nguồn an ủi để chịu đau, có thể tiếp tục đứng lên và bước tiếp. Về phía đứa trẻ, nó có thể hiểu rằng tiếng "Thế à" của cha mẹ đồng nghĩa với việc nó không nhất thiết phải chạy ngay đến chỗ cha mẹ mỗi khi bị đau để được nhận những cái hôn xoa dịu, và cần phải biết tự mình đi lấy bông băng khi cần thiết. "Thế à" có thể được coi là bước đầu tiên trong việc tách dần đứa trẻ ra khỏi cha mẹ để nó trở nên độc lập hơn. Chúng ta ngày một nhiều tuổi, kiến thức và kinh nghiệm cũng ngày một phong phú hơn, và chúng ta sẽ ngày càng hiểu được đâu chỉ là những khó khăn nhất thời trong muôn vàn khó khăn ở đời. Không phải bất kỳ việc nào cũng cần đến 911 (số khẩn cấp của cảnh sát Mỹ), đôi khi chỉ cần "Thế à" là vấn đề có thể được giải quyết. Nếu tôi bị đau ngực, có lẽ tôi sẽ nghĩ ngay đến việc đi cấp cứu với tâm trạng lo sợ "Chúa ơi! Mình đang lên cơn đau tim!". Nhưng cũng với những triệu chứng ấy, bác sĩ của tôi chỉ "ừ, à" cho qua, bà ấy có thể nghĩ do bị đầy hơi, nên chỉ cần uống một viên thuốc làm giảm nồng độ axit trong dạ dày rồi lại tiếp tục công việc của mình. Tương tự, khi chiếc xe tải cũ của tôi bị chết máy, tôi nghĩ là nó tiêu đời rồi, nhưng đối với người thợ máy của tôi thì đó chỉ là một hỏng hóc nhỏ về điện. "À, chẳng qua do dây đánh lửa bị chập thôi". Đây cũng có thể là từ để chỉ thái độ buông xuôi với những sự việc mà chúng ta không thể ứng phó được. Từ khi còn nằm nôi, chúng ta đã biết Rock-a-bye-baby[1] và điều gì sẽ xảy ra nếu cành cây bị gãy. Ở trường mẫu giáo, chúng ta được nhắc nhở về bài học tình thế. Tất cả những con ngựa của nhà vua và tất cả những người đàn ông của nhà vua đều không thể cùng nhau đặt cậu bé trứng Humpty Dumpty[2] thêm một lần nào nữa. Tôi quen thuộc với sự chết chóc, thường xuyên thấy nó trong các bệnh viện và nghĩa trang. Nếu tôi nhận thấy cái chết của chính mình đang đến gần, phản ứng của tôi lúc đó có thể sẽ là "Thế à". "Thế à" trong trường hợp này chính là một trạng thái tinh thần, một triết lý sống. Đây cũng là một cách nói để đón nhận những điều không mong đợi trong cuộc sống, và khả năng đón nhận cái chết cho dù nó xảy ra vào bất cứ thời điểm nào trong đời. Khi nói "ừ, à", người ta dường như không chỉ mong đợi sự bất ngờ, mà họ còn tin là nó sẽ xảy ra, như thể sự bất ngờ chính là một khía cạnh của sự tồn tại. "Thế à" có nghĩa là "Chúng tôi vẫn đang bước tiếp", "Gì nào?", "Bạn không bao giờ có thể nói về điều sẽ xảy ra", "Thế là quá nhiều cho một kế hoạch", "Chú ý, chúng ta sắp đi qua hầm", "Không sao", "Ngày mai sẽ là một ngày mới", "Bạn không thể hàn gắn trở lại quả trứng vỡ", "Suốt hàng trăm năm nay, điều đó chưa có gì thay đổi". "Thế à" không chỉ là một phản ứng tức thời trước những chuyện vặt vãnh. "Thế à" là một thái độ, một quan điểm về vũ trụ. Nó chính là một phần trong phương trình tóm tắt quan điểm của tôi về điều kiện của sự tồn tại: "à há" + "ôi chao"+ "thế à" + "Chúa ơi" = "a ha!". Mời các bạn đón đọc Góc Nhìn Của Người Thông Thái của tác giả Robert Fulghum.
Work-life Balance: Khi Người Trẻ Cần Cảm Hứng Và Kế Hoạch Để Theo Đuổi Sự Nghiệp
Bạn cảm thấy quay cuồng với cuộc sống? Công việc. Gia đình. Giấc ngủ. Bạn bè - tất cả đều quan trọng với bạn và bạn chẳng thể tìm đủ chỗ cho chúng trong 24 tiếng đồng hồ ít ỏi! Xin chào, bạn không phải là người duy nhất gặp khó khăn. Chúng ta đều có những lúc căng thẳng và mệt mỏi vì không thể cân bằng công việc với cuộc sống, đến mức cảm thấy tội lỗi nếu lỡ không hoàn thành được một việc gì đó trong danh sách những điều cần ưu tiên. Cuốn sách thông minh, tinh tế và đầy tâm lý của Randi Zuckerberg sẽ phá vỡ quan điểm không đáng có này! Bằng cách cung cấp phương pháp Bộ Ba Lựa Chọn và những lời khuyên đầy thực tiễn, Randi đặt vào tay người đọc bí quyết để sống cuộc đời tươi đẹp nhất, sắp xếp cuộc sống thật hiệu quả. Thông qua nhiều câu chuyện quản lý cuộc sống của những chuyên gia tại các công ty hàng đầu thuộc thung lũng Silicon, của những người mẹ mong muốn dành thêm thời gian cho gia đình, của những sinh viên mới ra trường luôn cố gắng kiểm soát mọi thứ, Randi đã truyền tải thông điệp: Đừng mong chờ sự cân bằng hoàn hảo, mà thay vì thế, hãy dám lựa chọn, gạt bỏ những kỳ vọng vô lý và tận hưởng những điều bạn thật sự trân trọng. Không chỉ phù hợp với những doanh nhân và lãnh đạo cấp cao, bộ công cụ có trong tác phẩm “Work-Life Balance” khả dụng với tất cả mọi người, đặc biệt là với những bạn trẻ - những người luôn cần cảm hứng và một kế hoạch sáng suốt để theo đuổi sự nghiệp.  Về tác giả: Randi Zuckerberg là doanh nhân, nhà văn, người có tiếng nói trong giới công nghệ. Cô là cựu giám đốc phát triển thị trường và phát ngôn viên của Facebook, chị gái của CEO Facebook Mark Zuckerberg. Randi thường xuyên được mời diễn thuyết về công nghệ, kinh doanh và nữ quyền trong kinh doanh trên khắp thế giới.  *** Tôi rất lấy làm hân hạnh khi được thấy các bạn, những người vốn đã rất tuyệt vời, trở nên hạnh phúc hơn, quyết tâm hơn và thậm chí, mạnh mẽ hơn. Bộ Ba Lựa Chọn đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của tôi và tôi rất vui mừng được chia sẻ phương pháp này tới các bạn. Bằng cách chỉ tập trung làm tốt một số việc mỗi ngày, thay vì cố gắng hoàn thành mọi thứ (để rồi thất bại thảm hại), tôi đã có một cái nhìn khác về thành công và hạnh phúc. Tôi cũng đã trút bỏ được rất nhiều mặc cảm tội lỗi canh cánh trong lòng suốt nhiều năm qua. Bây giờ mỗi sáng thức dậy, tôi nhìn vào gương, và nói, “Công việc. Giấc ngủ. Gia đình. Thể dục. Bạn bè. Hãy chọn ba điều đi.” Hãy tin tôi đi, cách này hiệu quả đấy! Và bạn sẽ hiểu rõ hơn hiệu quả của nó khi đọc những trang tới. Tôi rất muốn biết Bộ Ba Lựa Chọn của bạn là gì. Hãy đăng lên các trang mạng xã hội với từ khóa #pickthree hoặc gắn thẻ tôi @randizuckerberg và cho tôi biết bạn đã học thêm được điều gì về bản thân, điều gì đã thay đổi nhờ vào Bộ Ba Lựa Chọn của bạn (với tôi, bây giờ đó là Công việc, Thể dục và Gia đình), và điều mà bạn muốn thay đổi. Những việc này sẽ buộc bản thân chúng ta phải nghiêm túc trong hành trình tìm kiếm một trạng thái sống thiên lệch hợp lý. Khoan đã, sao cơ? Hãy đọc tiếp nhé…  *** “Tôi thà chết vì đam mê còn hơn là sống trong nỗi buồn chán.” – Vincent van Gogh Năm nay, tôi đã tự hứa với bản thân sẽ thôi không mặc cảm tội lỗi về mọi thứ nữa. Mặc cảm tội lỗi vì chưa bao giờ hoàn hảo (hay thực sự là, không bao giờ hoàn hảo), mặc cảm vì không có một tủ quần áo chỉn chu nhất hay thân hình hoàn mỹ nhất, mặc cảm vì ăn quá nhiều tinh bột hoặc uống quá nhiều cà phê, mặc cảm vì đã đầu tư và mạo hiểm trong công việc nhưng không đem lại kết quả gì, mặc cảm vì không trả lời tất cả thư điện tử, mặc cảm vì không phải là người mẹ/người vợ/người bạn hoàn hảo. (Tôi cảm thấy mệt mỏi vì phải liệt kê tất cả những điều khiến tôi cảm thấy tội lỗi vô nghĩa như thế này.) Khi ngẫm nghĩ về lý do tại sao mình phải lãng phí quá nhiều quỹ thời gian vốn ngắn ngủi và quý báu trên thế gian này chỉ để xin lỗi về mọi thứ, tôi nhận ra rằng hành động này bắt nguồn từ sức ép mạnh mẽ muốn có tất cả, muốn làm tất cả, và muốn trở thành tất cả trong cùng một lúc. Bạn không thể trở thành tất cả trong mắt của mọi người, cho dù là học sinh, phụ huynh, ông chủ, nhân viên, người chồng/vợ, vận động viên, nghệ sĩ, người bạn trong lúc hoạn nạn, doanh nhân hay một người làm kiêm nhiệm nhiều nghề. Chúng ta đã được dạy là phải làm thật tốt tất cả mọi thứ để đạt được sự cân bằng xa vời và phi thực tế nào đó trong tất cả mọi việc thường ngày. Tôi sẽ đập tan thứ ảo tưởng đó! Tôi cho rằng quan niệm cân bằng cũng sai lạc, giống như người Scotland chính gốc chỉ biết nhảy điệu nhạc truyền thống của người Ireland vậy (bạn hiểu chứ, sự sai lạc ấy?). Tôi tin rằng việc cố gắng hoàn hảo hóa cuộc sống là nền tảng tai hại của một trong ba điều sau: Thất bại, những kỳ vọng phi lý, hoặc tệ hơn, SỰ TẦM THƯỜNG! Thật đáng sợ! Những người bạn yêu quý, những đam mê và ước muốn của bạn không nên bị gò bó trong việc bạn có thể cân bằng chúng như thế nào. Hãy thừa nhận đi, bạn không thể đạt được những điều quan trọng hay hữu nghĩa với mình bằng cách cố GIÀNH LẤY TẤT CẢ trong vòng 24 tiếng đồng hồ được. Cực kỳ áp lực! Nhắc tới việc giành lấy tất cả, mặc dù tôi rất ủng hộ triết lý sống “càng nhiều càng tốt”, nhưng xin thứ lỗi, “tất cả” không phải lúc nào cũng tốt hơn. Bạn đã bao giờ tham dự bữa tiệc đứng, nơi người ta được ăn uống thỏa thích trong 24 tiếng ở Vegas chưa? Sau 10 phần ăn, vào lúc 3 giờ sáng, liệu bạn có còn nghĩ rằng cố giành lấy tất cả là quyết định đúng đắn trong đời mình không? Bất cứ điều gì bạn muốn đạt được – công việc, gia đình, tình hình sức khỏe, đam mê cá nhân, một dự án cụ thể nào đó, đời sống xã hội cá nhân, hay bất cứ điều gì! – bạn phải ưu tiên cho nó bằng cách xếp ở đầu danh sách việc cần làm. Hết lần này đến lần khác, rồi lần khác, lần khác và lần khác nữa. Cân bằng ư? A! Tôi có một giả thuyết khác để thành công đấy! SỐNG THIÊN LỆCH HỢP LÝ Ý tưởng về việc kiểm soát tốt cách sống thiên lệch lần đầu tiên xuất hiện trong cuộc đời tôi khi tôi nộp đơn vào đại học. Tôi là một thí sinh đầy tham vọng, hăng hái và quyết tâm tại trường trung học Horace Mann khá nổi tiếng ở Riverdale, New York. Giống như tất cả các học sinh trường tư khác ở New York, tôi nghĩ rằng đỉnh cao cuộc sống là được nhận vào Đại học Harvard. Ai đó có thể gọi đây là ÁP LỰC không!? Vấn đề là, tôi không phải là kiểu người mà bạn sẽ nghĩ đến khi nói tới Harvard. Có một năm, tôi đã phải học lại hai môn. Tôi không có điểm SAT hoàn hảo. Tôi không phải chủ tịch hội học sinh. Tôi không sáng lập tổ chức phi lợi nhuận nào hay thực tập tại các công ty nổi tiếng. Tôi không có bất cứ mối quan hệ hay vốn liếng nào. Thay vào đó, tôi là một kẻ đam mê sân khấu. Lớn lên, tôi suốt ngày ca hát hoặc làm việc trong nhà hát, bất cứ việc gì tôi có thể làm. Cả mùa hè của tôi dành để lưu diễn với một nhóm Opera bán chuyên. Tôi biểu diễn ở rất nhiều chương trình khác nhau trong năm. Tôi đã thực hiện một nghiên cứu riêng khi tham dự những buổi tổng duyệt các vở Opera tại Lincoln Center và viết bài luận cuối kỳ dựa trên những kết quả nghiên cứu đó. Tôi chọn khóa học thực hành nhạc lý nâng cao thay vì toán vi phân. Tôi đã bỏ môn khoa học vào năm cuối trung học để có thể tập trung nhiều hơn vào âm nhạc. Ước mơ của tôi là được biểu diễn ở Broadway, và nếu không thể biểu diễn ở Broadway được thì tôi sẽ điều hành Broadway. Dù cho gia đình rất ủng hộ tôi và kế hoạch cuộc đời của tôi, nhưng tôi cũng không chắc là họ tin rằng tôi sẽ được hát bài Fair Harvard*. Mẹ tôi nói bà đã cúi gằm mặt vì xấu hổ khi thầy Singer, giáo viên tư vấn hướng nghiệp ở trường trung học của tôi, hỏi trường nào là nguyện vọng I của tôi; và bà phải thú nhận nơi mà bà nghĩ là lựa chọn không tưởng: Harvard. Làm như tôi sẽ thực sự được nhận không bằng! Nhưng, để khuyến khích ước mơ của tôi, bà đã đưa tôi đi tham quan khuôn viên trường; tất nhiên, tôi đã yêu ngôi trường này. Từ những tòa nhà với lối kiến trúc cổ điển tuyệt đẹp đến những truyền thống và lịch sử, tôi thật sự RẤT MUỐN vào đó. * Ca khúc truyền thống của trường Đại học Harvard. Chúng tôi gặp nhân viên tuyển sinh, người đã nói điều mà tôi nhớ mãi. Những lời của cô ấy đã trở thành nền tảng cho cuốn sách này: “Randi”, nhân viên tuyển sinh đó nói, “Harvard tìm kiếm hai loại người. Một là những người giữ được sự cân bằng, và hai là những người kiểm soát tốt sự thiên lệch. Những sinh viên giữ được sự cân bằng sẽ đóng vai trò xương sống trong lớp học, nhưng những học sinh kiểm soát tốt sự mất cân bằng hợp lý mới là người khiến lớp học trở nên vô cùng thú vị.” Ôi chúa ơi, đó chính là tôi! Tôi đã nghĩ thế. Tôi là một trong những người sống thiên lệch hợp lý đó! Chín tháng sau, tôi nhận được phong bì dập nổi dày cộp của Harvard với lá thư mời nhập học khóa năm 2003! Cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với thế giới của sự thiên lệch đã thành công tốt đẹp! Ngay lúc ấy, tôi quyết định sẽ không chỉ lấy việc sống thiên lệch hợp lý làm phương châm, mà còn lan truyền những kiến thức và kinh nghiệm mà lối sống này đã giúp tôi nữa. Từ khoảnh khắc ngồi trong văn phòng tuyển sinh đó với tư cách một học sinh trung học đầy háo hức và mơ mộng, tôi đã quyết định theo đuổi đam mê của mình, trở thành một trong những người thú vị, và đào sâu tìm hiểu mọi thứ bằng cách tốt nhất có thể – tận hưởng giấc mơ được sống thiên lệch hợp lý. Khi chuyển từ đại học sang thế giới thực, tôi biết mình cần thứ gì đó để giúp quản lý khối lượng công việc dày đặc theo cách mà ứng dụng điện thoại không thể làm được. Tôi có rất nhiều sở thích bên ngoài, tôi đang làm một công việc có áp lực lớn, và chồng tôi với tôi đang cùng nhau xây dựng một gia đình. Căng thẳng đè nặng lên tôi. Ngay khi tôi nghĩ mình phải chịu thua trước áp lực và từ bỏ một vài thứ mình yêu thích, như giữ dáng hoặc đi xem kịch, tôi nhớ lại lời mà nhân viên tuyển sinh đó nói về việc “kiểm soát tốt sự thiên lệch” và một ý tưởng chợt nảy ra. Tôi không phải từ bỏ bất cứ điều gì! Tôi nghĩ. Có lẽ thay vì giữ sự cân bằng, tôi nên thay đổi tất cả và tập trung vào lối sống thiên lệch hợp lý! Thay vì cố gắng làm mọi thứ mỗi ngày, nếu tôi chỉ chú tâm vào những thứ quan trọng với cuộc đời mình (công việc, giấc ngủ, gia đình, thể dục, bạn bè) và CHỌN RA MỘT BỘ BA để tập trung vào mỗi ngày thì sẽ ra sao? Bằng cách đó, tôi có thể làm TỐT ba điều ấy và có thể chọn ba điều khác vào ngày mai. Lâu dần, tôi có thể nghỉ ngơi, chăm sóc bản thân, thành công và học hỏi thêm những điều khác – ngay cả khi đang bị con cái bám chặt lấy! Và thế đó, từ một buổi gặp mặt tuyển sinh ở Harvard, nơi mà tôi thậm chí còn không chắc mình được nhận, Bộ Ba Lựa Chọn đã ra đời. CHẮC CHẮN, TÔI KHÔNG PHẢI NGƯỜI DUY NHẤT TỪNG TRẢI QUA GIAI ĐOẠN CĂNG THẲNG đến nỗi kiệt sức. Chúng ta đều phải mang gánh nặng của thế giới trên vai. Thực tế thì, nếu xem xét kỹ những việc bạn làm được mỗi tuần, tôi nhất định sẽ xin chữ ký của bạn trong cuốn sách này! Khi bạn nghĩ về tất cả những thứ mà mình muốn cân bằng, chúng có thể khiến bạn cảm thấy bị quá tải cực kỳ. Dưới đây là danh sách những điều tôi phải làm mỗi ngày để GIÀNH LẤY MỌI THỨ: • Nuôi dạy hai đứa con trai để chúng trở thành những người đàn ông tốt, siêng năng và biết tôn trọng phụ nữ • Dành thời gian quý báu với chồng • Quản lý tốt công việc kinh doanh và làm mọi người hài lòng (việc này không hề dễ dàng ở New York!) • Viết một cuốn sách (hay đúng hơn là cuốn sách này) • Chuẩn bị và dẫn chương trình phát thanh SiriusXM hằng tuần • Ăn uống lành mạnh • Lên kế hoạch chuyến công tác cho hơn 40 bài phát biểu mà tôi vẫn làm hằng năm • Liên lạc với người trông trẻ khi đi công tác • Cảm thấy tội lỗi khi phải đi công tác và không được ở cùng các con • Giữ gìn mái ấm gia đình (ngoại trừ việc tôi sống chủ yếu ở sân bay...) • Giữ liên lạc với gia đình (con xin lỗi vì không gọi điện thoại, mẹ à! Mẹ đang ở múi giờ nào vậy?) • Hoàn thành nhiệm vụ của ban giám đốc và hội đồng tư vấn • Xem hơn 60 chương trình trong và ngoài sân khấu Broadway hằng năm để bình chọn cho giải thưởng Tony và Chita Rivera • Đăng bài lên các tài khoản xã hội • Xem tài khoản mạng xã hội của những người khác (và rồi cho rằng cuộc sống của họ tốt hơn của mình) • Trả lời một núi thư điện tử và tin nhắn (tại sao con số nho nhỏ đó trong hộp thư đến của tôi không bao giờ chịu giảm xuống?!?!) • Tự nhủ với bản thân, “Randi, mày thật sự nên trả lời thư điện tử đó”, trong khi biết rõ rằng ngay khi có thêm vài thư khác đến thì nó sẽ biến mất mãi mãi khỏi tâm trí tôi. Ôi! Sao tôi có thể quên những mục tiêu cháy bỏng của mình được nhỉ: • Gặp gỡ bạn bè. • Giữ dáng (ha!) • Ngủ (HA, viết in hoa!) • Tắm gội (Đừng nói gì cả!) Vâng, thật là mệt mỏi. Có lẽ, tôi nên bò về giường cho xong một ngày. Sẽ ra sao nếu tôi thay đổi danh sách quá tải đó từ Việc Cần Làm Hôm Nay thành Việc Cần Làm Năm Nay? Hoặc trong hơn ba năm nữa? Hoặc 10 năm! Bằng cách này, tôi có thể chọn ra một vài việc cần làm mỗi ngày và tập trung tuyệt đối để hoàn thành các nhiệm vụ mình đã chọn, và sẽ không ngập trong cảnh VIỆC NÀO CŨNG PHẢI LÀM NGAY LẬP TỨC. Ngay cả khi có rất nhiều việc phải làm, tôi vẫn cho rằng mình là một trong những người rất may mắn. Tôi có một người bạn tuyệt vời và đáng mến là chồng tôi, Brent, người đã đảm nhiệm phần lớn công việc nội trợ và chăm sóc con cái. Tôi có một đội ngũ nhân viên vô cùng tài giỏi tại Zuckerberg Media luôn đảm bảo mọi thứ diễn ra suôn sẻ. Và tôi có những cộng sự tuyệt vời tại Jim Henson Productions, Universal Kids, CAA, HarperCollins và SiriusXM. Tôi có đủ ngân sách để thuê một người giữ trẻ đáng tin cậy. Tôi có gia đình và những người bạn đáng quý luôn ủng hộ mình. Thêm vào đó, như một người bạn đã nói với tôi, “Bạn chỉ hạnh phúc ngang đứa con bất hạnh nhất của bạn”, và cả hai đứa con của tôi đều khỏe mạnh và hạnh phúc. Tạ ơn Chúa. Sự thật là, chúng ta dành hầu hết thời gian để nghĩ về niềm hạnh phúc và nỗi bất hạnh của mình. Chúng ta có hạnh phúc hơn khi chơi đùa với con cái ở nhà không? Có hạnh phúc hơn khi chạy trốn đến phòng tập thể hình trong một tiếng đồng hồ? Hay hạnh phúc hơn khi ngồi trong phòng làm việc để hoàn thành nốt phần kết bản báo cáo? Hạnh phúc là thứ mà chúng ta luôn vô thức hướng đến. Nhưng với áp lực từ việc tìm kiếm sự cân bằng, không có gì ngạc nhiên khi tất cả chúng ta đều cảm thấy bất hạnh. Báo cáo Hạnh phúc Thế giới năm 2007 đã xếp hạng Mỹ là nước hạnh phúc thứ ba trong số 35 quốc gia thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế. Nhưng trước khi kịp ăn mừng thì, chưa đầy 10 năm sau, vào năm 2016, Hoa Kỳ tụt xuống vị trí thứ 19 trên tổng số 35. Nguyên nhân của sự sụt giảm này bao gồm việc cắt giảm trợ cấp xã hội và gia tăng nạn tham nhũng trong chính phủ.1 Nếu muốn trở nên bất hạnh hơn nữa, tất cả những gì bạn phải làm là dành một giây lên trang mạng xã hội ưa thích của mình, và bạn sẽ lập tức choáng váng trước những hình ảnh về cuộc sống hoàn hảo của người khác, kỳ nghỉ trong mơ của họ, câu lạc bộ sách đầy tri thức của họ, khiến bạn cảm thấy cuộc sống của họ tốt hơn mình RẤT NHIỀU. Bạn bắt đầu nghĩ, có lẽ mình không phải nhân tài như bạn nghĩ cách đây năm phút nữa. Tất nhiên, trong thâm tâm, chúng ta đều biết rằng, mọi người chỉ đang diễn kịch trên mạng mà thôi, họ chỉ phô ra những phần đẹp đẽ nhất, rực rỡ nhất trong cuộc đời – nhưng chúng ta vẫn không khỏi cảm thấy một chút tủi thân. Nghe có quen không? Vào năm 2016, Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông Pitt khảo sát 1.787 thanh niên trên toàn quốc về việc sử dụng 11 trang mạng xã hội phổ biến (Instagram, Facebook, v.v...). Những người sử dụng nhiều trang mạng xã hội nhất (từ 7-11 trang) có nguy cơ mắc bệnh trầm cảm và lo lắng nhiều gấp ba lần những người ít sử dụng nhất (từ 0-2 trang). Việc cố gắng xuất hiện thường xuyên trên nhiều trang khác nhau (còn gọi là truyền thông xã hội đa nhiệm) đã khiến khả năng tập trung, tiếp thu và tâm trạng giảm sút.2 Cùng với đó, một nghiên cứu của Hiệp hội Sức khỏe Cộng đồng Hoàng gia cho thấy rằng mạng xã hội gây ra nỗi lo lắng, hội chứng sợ bỏ lỡ thứ gì đó (FOMO), nạn bạo hành, bệnh trầm cảm nặng và suy giảm chất lượng giấc ngủ thấp ở lứa tuổi thiếu niên.3 Và trên hết, một cuộc thăm dò ý kiến vào năm 2017 trên trang You.gov cho thấy 26% người Mỹ nói rằng, một bình luận tiêu cực trên mạng xã hội có thể hủy hoại cả ngày hôm đó của họ.4 Tệ hơn, bình luận tiêu cực thậm chí còn không phải do con người viết ra! Với số lượng robot nhắn tin đang ngày một tăng, rất có thể một con robot nào đó đang biến một ngày mới của bạn trở nên tươi đẹp hoặc tồi tệ. Hội chứng FOMO, chứng trầm cảm, sự ganh đua trên mạng xã hội – bạn rơi vào những vấn đề đó và tôi cũng vậy. Nhưng mục tiêu của bạn không phải là những thứ tuyệt vọng như thế này. Khi viết cuốn sách này, tôi đang ở trong trạng thái vô cùng hạnh phúc. Nhưng cuộc đời thì luôn có lúc này lúc kia. Mọi thứ thường diễn ra khác với dự tính của bạn. Những trường hợp khẩn cấp - lớn lẫn nhỏ - luôn xảy đến vào những lúc bất ngờ và phiền toái nhất. Là một người hay lo lắng điển hình, tôi luôn sợ rằng bữa tiệc càng vui thì càng chóng tàn. Tôi còn sợ rằng chiếc cốc vơi tràn nước bất cứ lúc nào. Mỗi chúng ta đều gặp hoàn cảnh và thách thức khác nhau. Một số phải đơn thân nuôi con hoặc kiêm nhiệm nhiều việc, những công việc rất vất vả để có thể tự chủ về tài chính. Nhiều người đã được tôi luyện qua gian truân trong cuộc sống. Nói cách khác, nhiều người trong các bạn là #SIÊUANHHÙNG ngoài đời thực. Không phải trong truyện tranh mà chính trong cuộc sống hiện thực, bạn đang góp phần thay đổi thế giới này vì những người bạn yêu thương và quan tâm, bằng bất cứ giá nào. Dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta luôn có một mẫu số chung: Tất cả chúng ta đều cảm thấy vô cùng áp lực khi phải cân bằng giữa những thứ mình cần, có và muốn, đồng thời phải thực hiện tuyệt đối chính xác. Nhưng nếu chúng ta không nhất thiết phải luôn ôm lấy gánh nặng ấy thì sao? Nếu bạn chỉ cần chọn ra một vài thứ để tập trung thì sao? Nếu bạn có thể cho phép bản thân sống thiên lệch hợp lý, thay vì giữ cân bằng thì sao? Và, nếu tôi chỉ cho bạn một cách để có thể hạnh phúc hơn trong dài hạn mà chỉ cần tập trung vào một số thứ nhất định (miễn là đến cuối cùng, bạn sẽ chọn hết tất cả mọi thứ trong danh sách việc cần làm) thì sao? Bạn sẽ tham gia chứ? Nào, hãy chuẩn bị sẵn sàng các kỹ năng để sống thiên lệch hợp lý, bởi vì tôi sẽ chỉ cho bạn biết phải làm như thế nào! CÔNG VIỆC. GIẤC NGỦ. GIA ĐÌNH. THỂ DỤC. BẠN BÈ. BỘ BA LỰA CHỌN. Khi mọi người biết tôi phải công tác xa nhà khoảng 100 ngày mỗi năm, phản ứng chung của họ chính là kinh ngạc. “Cậu không nhớ bọn trẻ sao?” Tất nhiên là tôi nhớ con tôi rồi! Tôi không phải quái vật. Nhưng, tôi cũng yêu công việc của mình nữa. Không gì vui hơn là được gặp gỡ các bạn bè trong giới kinh doanh, học sinh và những người mơ mộng đang khởi tạo và cải tiến các ý tưởng mới trên thế giới. Cảm giác khi tôi đi khắp nơi để làm việc, chia sẻ những câu chuyện, kết bạn mới, và truyền cảm hứng cho người khác chính là Thế Giới Hạnh Phúc đích thực của tôi. Nếu cứ suốt ngày tập trung vào việc duy trì sự cân bằng, tôi sẽ không thể được như ngày hôm nay. Khả năng trang trải cho gia đình cực kỳ quan trọng đối với tôi và đó cũng là một phần mục đích và ý nghĩa cuộc sống của chính tôi. Vậy nên, hẳn rồi, tôi có thể trở thành, giả dụ như, một người mẹ tốt hơn bây giờ 3% nếu đi công tác ít hơn – nhưng tôi cũng sẽ bớt hạnh phúc hơn rất nhiều. Tôi có niềm đam mê cháy bỏng và niềm tự hào to lớn với công việc của mình. Nếu cắt bỏ nó, thì chẳng khác nào tôi đang cắt bỏ phần quan trọng nhất trong bản chất và con người chân thật của mình. Tôi có giận bản thân vì xa nhà quá nhiều không ư? Chắc chắn có. Tôi đang ở trong cuộc chiến thứ 4.245.003 với chính mình đây này. Nhưng giờ đây, tôi hiểu rằng, chỉ khi cho phép bản thân thiên về công việc trong vài ngày và thiên về gia đình vào nhiều ngày khác, thì tôi mới thực sự hoàn thành tốt cả hai vai trò. Khi nhìn lại 20 năm trước của cuộc đời mình, tất cả những khoảnh khắc đáng tự hào nhất, hạnh phúc nhất và tuyệt vời nhất của tôi – những khoảnh khắc mà tôi hy vọng sẽ có dịp kể cho cháu chắt nghe sau này – đều diễn ra khi tôi cho phép bản thân sống thiên lệch hợp lý. Nếu khi đó tôi lựa chọn một cuộc sống cân bằng thì sẽ chẳng được HẠNH PHÚC như ngày hôm nay. Ơn trời là tôi đã sống thiên lệch! Đối với tôi, phân nửa niềm vui khi sống thiên lệch hợp lý chính là có thể tham gia những điều mà mình hứng thú. Cho dù đó là công việc, giấc ngủ, gia đình, thể dục hoặc bạn bè, tôi không bao giờ biết chính xác điều gì sẽ xảy ra, nhưng khi có đủ đam mê và thông tin, tôi luôn biết mình sẽ vui vì đã thử. Hãy sống một cuộc đời sôi nổi và thiên lệch hợp lý theo cách riêng của bạn, đừng cảm thấy tội lỗi, đừng quan tâm người khác nghĩ hay nói gì, không phải tê liệt trước nỗi sợ thất bại, đó mới là lúc cuộc vui thật sự bắt đầu. Có rất nhiều cách để có thể kiểm soát tốt sự thiên lệch. Một trong số đó là tự nguyện lựa chọn. Một số bị ép buộc do hoàn cảnh bất khả kháng. Một số là vì lợi ích của những người thân yêu. Một số là quyết định thứ gì KHÔNG cần ưu tiên, chứ không phải thứ gì cần phải tập trung vào. Tất cả những lựa chọn này đều đáng giá, tuyệt vời và đáng trân trọng như nhau. Chẳng có cách nào đúng hay sai để sống thiên lệch hợp lý, miễn là bạn đừng quá thiên lệch đến nỗi làm ảnh hưởng đến sức khỏe và hạnh phúc của mình, hoặc làm tổn thương những người yêu quý bạn – mặc dù, đôi khi chúng chắc chắn sẽ xảy ra (chúng ta sẽ nói về vấn đề này sau). Trong cuốn sách này, tôi sẽ chia sẻ các cuộc phỏng vấn mà tôi đã thực hiện với một số người kiểm soát cách sống thiên lệch hợp lý hiệu quả nhất mà tôi biết. Ví dụ như Arianna Huffington, sau khi tỉnh ngộ trước tình trạng báo động về sức khỏe của mình, đã dồn hết tâm trí vào việc nâng cao ý thức về tầm quan trọng của giấc ngủ cho những người đang đi làm. Hay như bác sĩ Adam Griesemer, người thường thực hiện những ca phẫu thuật ghép tạng cho trẻ em kéo dài hơn 40 giờ đồng hồ. Tôi từng nói chuyện với Melinda Arons, người đã bỏ công việc hấp dẫn tại Facebook để tham gia chiến dịch tranh cử tổng thống của Hillary Clinton. Tôi từng tâm tình với Rebecca Soffer, người đã mất cả cha lẫn mẹ chỉ trong một thời gian ngắn và biến nỗi đau của cô thành sức mạnh để giúp đỡ những người đang đau khổ vì cái chết của người thân. Tôi từng trò chuyện với Brad Takei, người đã quyết định mục đích cuộc đời là giúp đỡ bạn đời, George Takei, thành công trong mọi việc anh làm. Và tôi cũng từng ngồi cùng với Reshma Saujani, người nhận ra rằng thất bại trong hai cuộc bầu cử chính trị là chìa khóa để tìm ra mục đích sống cho bản thân. Tôi sẽ chia sẻ câu chuyện của những người đã sống thiên lệch hợp lý theo nhiều cách khác nhau - một số vì ý muốn cá nhân, số khác vì hoàn cảnh bắt buộc. Tôi sẽ chỉ cho bạn tất cả các mẹo, thủ thuật và bí quyết để sống hạnh phúc nhằm giúp bạn trở thành người kiểm soát cách sống thiên lệch hợp lý tốt nhất theo cách riêng của bạn. Hành trình học cách đặt ưu tiên, tập trung và, tất nhiên là, từ bỏ, bắt đầu kể từ giây phút bạn mở cuốn sách này. Tôi hoan nghênh các bạn vì đã chọn một con đường khác để tiến tới hạnh phúc. Thấy không? Bạn đang làm rất tốt trong việc sống thiên lệch hợp lý này đấy! Bộ Ba Lựa Chọn là phương châm của tôi, đức tin của tôi, động lực cuộc sống của tôi, và tôi rất hân hạnh được chia sẻ nó với các bạn. Hãy bỏ sự cân bằng đi. Hãy trở nên thật thú vị! Hãy trở nên thật khác biệt! Mời các bạn đón đọc Work-life Balance: Khi Người Trẻ Cần Cảm Hứng Và Kế Hoạch Để Theo Đuổi Sự Nghiệp của tác giả Randi Zuckerberg.
Ứng Dụng Bản Đồ Tư Duy Trong Học Tập
Chắc hẳn bạn đã không còn xa lạ gì với thuật ngữ “bản đồ tư duy” (mindmap). Ngày nay, chỉ cần bước vào một hiệu sách bất kỳ, chúng ta cũng sẽ tìm được vô số những cuốn sách hướng dẫn về kỹ thuật ghi chép cực kỳ thông minh này. Nhưng bạn đã thực sự học được những gì từ vô vàn các cuốn sách đó?  Một trong những vấn đề lớn mà các sách về bản đồ tư duy thường gặp phải là không đi sâu vào chi tiết. Những cuốn sách luôn nói rằng chúng ta có thể vận dụng bản đồ tư duy theo rất nhiều cách, nhưng lại không nói chúng ta biết phải vận dụng như thế nào. Ngay cả khi họ đưa ra hướng dẫn, những chỉ dẫn cũng rất chung chung, chưa đủ để người học tiện áp dụng vào những tình huống thực tế cũng như trong công việc học tập hàng ngày. Bạn và tôi, chúng ta buộc phải tự tìm con đường chinh phục "bản đồ tư duy" cho riêng mình. Chính vì thế, cuốn sách "Ứng dụng bản đồ tư duy trong học tập" được thực hiện để trang bị cho bạn những chỉ dẫn cụ thể và chi tiết nhất để bạn có thể dễ dàng ứng dụng trong học tập và thi cử. Không chỉ thế, cuốn sách còn cung cấp những phương án tiếp cận và sử dụng bản đồ tư duy hiệu quả theo sở thích, nhu cầu và mục tiêu của riêng cá nhân bạn. Hãy tự tin đọc và áp dụng ngay các bí quyết được trình bày trong cuốn sách nhỏ gọn nhưng rất thực tế này, và bạn sẽ thấy kết quả học tập của mình tiến bộ từng ngày! *** Suốt hàng thập kỷ qua, bản đồ tư duy là một trong số ít những công cụ “vạn năng” mà bạn có thể sử dụng hiệu quả trong mọi lĩnh vực của đời sống thường nhật, đặc biệt trong học tập. Rồi bạn sẽ thấy, bất kể sở thích của bạn là gì, nhu cầu của bạn ra sao và mục tiêu của bạn thế nào, bản đồ tư duy đều có thể hỗ trợ bạn học tập tốt hơn với ít thời gian và ít vất vả hơn. Thuật ngữ “bản đồ tư duy” chắc hẳn không còn xa lạ với chúng ta. Ngày nay, chỉ cần bước ra hiệu sách, bạn sẽ tìm được vô số những cuốn sách hướng dẫn về kỹ thuật ghi chép cực kỳ thông minh này. Nhưng bạn học được thực sự bao nhiêu từ vô vàn cuốn sách đó? Cuốn sách Ứng dụng bản đồ tư duy trong học tập ra đời với mục đích cốt lõi là trang bị cho bạn những chỉ dẫn, hướng dẫn cụ thể cũng như chi tiết nhất bạn có thể dễ dàng ứng dụng trong học tập và thi cử. Đồng thời cung cấp cho bạn những phương án tiếp cận và sử dụng bản đồ tư duy hiệu quả theo sở thích, nhu cầu và mục tiêu của riêng bạn, vì chúng ta đều hiểu rằng, mỗi người là một cá nhân khác biệt và độc đáo. Hãy áp dụng những gì bạn đọc được từ cuốn sách này vào học tập. Bạn sẽ thấy thật dễ dàng vì mọi điều đã được hướng dẫn hết sức chi tiết và tỉ mỉ rồi! Và hãy bắt đầu ngay bây giờ. Càng bắt đầu sớm bao nhiêu, bạn càng nhanh chóng sử dụng thành thạo bản đồ tư duy bấy nhiêu, và kết quả là, thành tích học tập của bạn sẽ càng tăng nhanh. Bạn và tôi, chúng ta hãy cùng tìm con đường chinh phục “bản đồ tư duy” cho riêng mình. *** Bản đồ tư duy là gì? B ản đồ tư duy là kỹ thuật ghi chép sử dụng từ khóa, ý tưởng, màu sắc, hình ảnh,... để thể hiện trong một sơ đồ. Bản đồ tư duy được trình bày với từ khóa của ý tưởng chính đặt tại trung tâm và các chủ đề phụ tỏa ra xung quanh. Chủ đề phụ bao gồm những ý tưởng tương đương nhau, các ý tưởng này lại phân nhánh thành những chủ đề nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa đến bất cứ mức nào tùy vào mạch suy nghĩ của bạn. Bản đồ tư duy không phải một khái niệm mới. Trên thực tế, kỹ thuật ghi chép này đã xuất hiện cả ngàn năm trước và được những bậc thầy như Leonardo da Vinci hay Picasso sử dụng. Đến những năm 1960 và 1970, Tony Buzan đã hệ thống hóa và giới thiệu kỹ thuật này khắp thế giới. Tony Buzan bắt đầu làm việc với kỹ thuật ghi chép thông minh này khi ông nghiên cứu về tâm lý học, thần kinh học, ngôn ngữ tư duy, ngữ nghĩa học, khả năng nhận thức và khoa học cơ bản. Ông mau chóng nhận ra rằng não bộ của con người có hiệu suất mạnh hơn máy tính cả triệu lần nhưng chúng ta lại chưa có chỉ dẫn đầy đủ nào để tận dụng khả năng của nó. Ông được công nhận như một trong những chuyên gia giáo dục đầy tài năng sau khi xuất bản nhiều đầu sách về chủ đề liên quan tới bộ não con người, khả năng sáng tạo và phương pháp học tập thông minh. 2. Tại sao bản đồ tư duy lại hiệu quả? Thấu hiểu giới hạn bộ não của bạn Chúng ta thường tự nhận định bản thân là người thuận não trái hay não phải, nhưng sự thực, chúng ta sử dụng cả hai bán cầu não cho nhiều mục đích khác nhau. Chẳng hạn như, khi gặp những công việc đòi hỏi khả năng ngôn ngữ và tư duy logic, bạn sẽ tự động vận dụng cả hai bán cầu não. Tuy nhiên, bán cầu não phải, trung khu phụ trách diễn giải ý nghĩa màu sắc, hình ảnh, nhận thức và trí tưởng tượng liên quan nhiều tới khả năng sáng tạo hơn. Vì khuynh hướng tự nhiên của bộ não là hoạt động bán cầu này mạnh hơn bán cầu kia, nên chúng ta thường phải vật lộn trong việc phối hợp cả hai bán cầu não. Hơn nữa, bộ não chúng ta cần tác động nào đó mới có thể đưa thông tin từ khu vực trí nhớ ngắn hạn/tạm thời sang khu vực trí nhớ dài hạn/vĩnh viễn. Vì thế, nếu không chú trọng tới nội dung ghi nhớ, bộ não của chúng ta sẽ “hủy” thông tin đó để dành chỗ cho những tin tức mới. Biểu đồ dưới đây thể hiện tốc độ não bộ lãng quên của nhà tâm lý học Hermann Ebbinghaus, chúng ta sẽ thấy tốc độ não loại bỏ tin tức nhanh như thế nào khi chúng ta không chuyển được thông tin đó vào bộ nhớ dài hạn. a Cứ thế, chỉ sau gần một năm, lượng thông tin chúng ta ghi nhớ được gần như bằng không. Não bộ của chúng ta không được thiết kế để lưu trữ tất cả thông tin chúng ta được cung cấp. Hạn chế này không nên là lý do cản trở năng lực học tập và xử lý kiến thức của bạn. Chúng ta hoàn toàn có thể rèn luyện để thúc đẩy khả năng hoạt động của não, và bạn chỉ cần sử dụng đúng công cụ mà thôi. Các chỉ dẫn khoa học Khi não bạn tạo ra một ý nghĩ, ý nghĩ đó sẽ hình thành một đường kết nối các tế bào thần kinh tựa như một lòng sông. Chúng ta đều biết, khi nước chảy ngập, con sông sẽ không bị tù đọng, khô cạn, thậm chí biến mất. Đường dẫn tế bào thần kinh của bạn cũng vậy. Có vô vàn những hội thảo khoa học tuyên bố rằng, nếu bạn lặp đi lặp lại một thông tin đủ nhiều, thông tin đó sẽ nằm trong bộ nhớ dài hạn. Theo lẽ đó, nếu bạn ứng dụng bản đồ tư duy thường xuyên, bạn sẽ bắt đầu tạo được nhiều kết nối chưa từng xuất hiện trong não bộ và tăng cường năng lực tư duy của bạn lên rất nhiều. Thực tế, nếu trải dài toàn bộ số kết nối mà bộ não con người có thể tạo được, độ dài có thể xấp xỉ năm mét. Nhưng não không phải một đường thẳng, những ý nghĩ của chúng ta tự do chảy trôi không theo nguyên tắc nào và thường trở nên lộn xộn. Bên cạnh đó, ý nghĩ của chúng ta có xu hướng xuất hiện dưới dạng hình ảnh. Chính vì thế, bản đồ tư duy được tạo ra để mô phỏng những dòng suy nghĩ chảy trôi tự do trong não bạn, từ đó giúp bạn ghi nhớ lâu hơn. Bản đồ tư duy có thể được trình bày bằng ít hay nhiều màu sắc và được cấu tạo theo cách thức hỗ trợ bạn khai thác ý tưởng và suy nghĩ. Não bộ sẽ dễ dàng nhận dạng những hình ảnh này và cần ít hoạt động để xử lý hơn. Các nhà khoa học đã chứng minh được rằng, dù hai bán cầu não của con người hoạt động thống nhất với nhau nhưng lại được tổ chức khác nhau. Nhiều bộ não thiên về sử dụng và bồi dưỡng bán cầu này hơn bán cầu kia; dù vậy, điều tốt nhất bạn nên làm là luyện rèn toàn bộ não. Mời các bạn đón đọc Ứng Dụng Bản Đồ Tư Duy Trong Học Tập của tác giả 1980 Books.
Thói Quen Làm Nên Sáng Tạo
Cảm hứng là có thật, nhưng nó chỉ đến khi ta làm việc. - Pablo Picasso Pablo Picasso là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất thế kỉ XX với nhiều tác phẩm đắt giá. Theo các nhà thống kê, ông có tới 26.075 tác phẩm được trưng bày, xuất hiện trước công chúng (chưa tính tới những tác phẩm chưa được tìm thấy hoặc công bố). Thử thực hiện một phép tính đơn giản, Picasso sống đến 91 tuổi, vị chi là 33.403 ngày. Nếu so sánh với số tác phẩm được công chúng biết tới ở trên thì trung bình mỗi ngày ông lại sáng tạo thêm được một tác phẩm mới, tính từ khi ông 20 tuổi cho đến tận lúc qua đời. Nói một cách đơn giản thì Picasso đã sáng tạo không ngừng nghỉ mỗi ngày, trong liên tục 71 năm. Picasso chính là ví dụ sinh động cho thấy khả năng sáng tạo vô hạn của con người, cùng nỗ lực không ngừng để vượt qua giới hạn của bản thân. Bạn có biết ngọn nguồn của mọi sự sáng tạo đều nằm trong chính con người chúng ta, nó vẫn ở yên đó chờ được chúng ta thức tỉnh? Trong cuốn sách Thói quen làm nên sáng tạo, tác giả Twyla Tharp, một biên đạo múa tài năng bậc nhất nước Mỹ, đã cho chúng ta thấy tiềm lực phi thường của con người trong việc đánh thức khả năng sáng tạo. Thông qua những câu chuyện làm nghề, quan điểm triết học sâu sắc và hiểu biết rút ra từ cuộc sống hằng ngày, bà đã chứng minh được rằng sáng tạo không phải là năng lực do Chúa trời ban tặng mà nó là cốt tủy được hình thành từ sự kỷ luật, gian khổ rèn luyện để hình thành những thói quen làm nên sáng tạo. Hãy đọc sách để thấy thành công luôn bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt nhất và sáng tạo chỉ đến khi được đầu tư công sức và thời gian theo đúng nghĩa. Trân trọng giới thiệu đến bạn cuốn sách vô cùng hữu ích này!   ** Twyla Tharp, một trong những biên đạo múa vĩ đại nhất nước Mỹ, bắt đầu sự nghiệp từ năm 1965 và đến nay, bà đã dàn dựng hơn 130 vở múa cho vũ đoàn của mình, cũng như cho Vũ đoàn Ba lê Joffrey, Vũ đoàn Ba lê New York, Vũ đoàn Ba lê Opera Paris, Vũ đoàn Ba lê Hoàng gia London và Nhà hát Ba lê Mỹ. Sử dụng âm nhạc của tất cả tác giả từ Bach, Beethoven và Mozart đến Jelly Roll Morton, Frank Sinatra và Bruce Springteen, bà là người tiên phong trong việc kết hợp múa hiện đại và ba lê với âm nhạc đại chúng. Trong lĩnh vực điện ảnh, bà từng cộng tác với Milos Forman trong phim Hair, Ragtime và Amadeus. Trong lĩnh vực truyền hình, bà chỉ đạo chương trình Baryshnikov by Tharp từng giành được hai giải Emmy. Trên sân khấu Broadway, bà đã đạo diễn phiên bản nhà hát của vở Singin’ in the Rainvà đến năm 2003, bà giành giải Tony cho vở Movin’ Out, tác phẩm bà tự tay dàn dựng, đạo diễn và biên đạo trên nền các bài hát của Billy Joel. Bà cũng từng nhận giải thưởng MacArthur Fellowship. Năm 1993, bà được kết nạp vào Viện Nghệ thuật và Khoa học Mỹ. Năm 1997, bà trở thành thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Bà đã nhận được 18 học vị tiến sĩ danh dự. Bà sống và làm việc ở thành phố New York. Mark Reiter đã cộng tác để cho ra đời 12 cuốn sách, tính cả Thói quen làm nên sáng tạo. Ông cũng là đại diện cho các tác giả tại Bronxville, New York. *** Tôi bước vào một căn phòng trắng Tôi bước vào một phòng tập nhảy nằm ở trung tâm Manhattan. Đó là căn phòng trắng rộng lớn. Tôi mặc một chiếc áo nỉ cùng cái quần jeans bạc phếch và đi đôi giày thể thao Nike. Bao quanh bốn bức tường là những tấm gương cao gần hai mét rưỡi. Một chiếc đài nằm trong góc. Sàn nhà sạch trơn, không vương tì vết, nếu không tính hàng nghìn vệt miết cùng dấu chân còn lưu lại sau những buổi tập của các vũ công. Ngoài mấy tấm gương, chiếc đài, những vệt miết và tôi, căn phòng hoàn toàn trống trải. Năm tuần nữa, tôi sẽ bay tới Los Angeles cùng một nhóm sáu vũ công để tham gia sô diễn kéo dài tám đêm liên tiếp trước 1.200 khán giả mỗi tối. Đó là nhóm nhảy của tôi. Tôi là một biên đạo múa. Tôi đã có trong tay một nửa chương trình – một vở ba lê kéo dài 50 phút cho toàn bộ sáu vũ công trên nền bản xô-nát số 9 của Beethoven dành cho đàn piano, bản “Hammerklavier”. Tôi đã sáng tác tiết mục này từ hơn một năm trước và đã dành mấy tuần vừa qua để luyện tập với cả nhóm. Nửa còn lại của chương trình vẫn còn là một ẩn số. Tôi không biết mình sẽ sử dụng bản nhạc nào. Tôi không biết mình sẽ làm việc với vũ công nào. Tôi còn chưa có ý tưởng về trang phục, thiết kế ánh sáng, hay nhạc công. Tôi cũng chưa nắm được thông tin về thời lượng của tiết mục, dù nó phải đủ dài để lấp đầy nửa còn lại của chương trình và mang đến cho khán giả thứ họ xứng đáng được nhận. Thời lượng của tiết mục sẽ quyết định khoảng thời gian tập luyện mà tôi cần. Thời gian này bao gồm việc liên lạc với vũ công, lên thời gian biểu tại phòng tập và khởi động quá trình luyện tập – tất cả đều dựa trên sự sáng tạo của tôi ở căn phòng trắng trống trơn này trong vài tuần tới. Các vũ công mong mỏi tôi sẽ thành công vì vũ đạo của tôi chính là sinh kế của họ. Các đại diện ở Los Angeles cũng kỳ vọng điều tương tự vì họ đã bán ra rất nhiều vé cùng lời hứa hẹn rằng khán giả sẽ được chứng kiến điều mới lạ và lý thú từ bàn tay tôi. Chủ rạp cũng mong như thế; vì nếu tôi không tới, rạp hát của ông ấy sẽ trống trơn suốt cả tuần. Như vậy là có rất nhiều người, bao gồm cả những người tôi còn chưa gặp bao giờ, đang gửi gắm niềm tin vào khả năng sáng tạo của tôi. Nhưng ngay lúc này, tôi không hề nghĩ tới những chuyện ấy. Tôi đứng trong một căn phòng với nghĩa vụ phải sáng tác ra tiết mục múa thật đặc sắc. Các vũ công sẽ có mặt ở đây chỉ trong vài phút nữa. Chúng tôi sẽ phải làm gì? Đối với một số người, căn phòng trống biểu trưng cho thứ gì đó sâu sắc, huyền bí và đáng sợ: Nhiệm vụ khởi đầu từ hai bàn tay trắng và nỗ lực để kiến tạo nên cái gì đó trọn vẹn, đẹp đẽ và viên mãn. Nó cũng không khác gì việc một nhà văn mở ra một trang soạn thảo trắng trên máy tính của mình; hay một họa sĩ đối mặt với tấm toan trống trơn; một nghệ sĩ điêu khắc trân mắt nhìn một tảng đá thô; một nhạc sĩ ngồi trước cây đàn piano, ngón tay bâng quơ lướt trên những phím đàn. Một số người cảm thấy khoảnh khắc này – khoảnh khắc trước khi sự sáng tạo khởi phát – quá đỗi đau đớn tới độ họ không tài nào đối mặt nổi với nó. Họ đứng dậy và rời bỏ chiếc máy tính, tấm toan, cây đàn; họ đánh một giấc, đi mua sắm, nấu bữa trưa hoặc làm đủ mọi việc lặt vặt trong nhà. Họ trì hoãn. Trong hình thái cực đoan nhất, nỗi kinh hoàng ấy khiến con người ta tê liệt hoàn toàn. Khoảng không trống vắng có lẽ chỉ tầm thường vậy thôi. Nhưng tôi đã đối mặt với nó trong suốt cuộc đời làm nghệ thuật. Đó là công việc của tôi. Đó cũng là sự nghiệp của tôi. Nói tóm lại: Việc lấp đầy khoảng không trống trơn đó đã giúp tôi tạo dựng được tên tuổi cho mình. Tôi là một vũ công kiêm biên đạo múa. Trong 35 năm qua, tôi đã sáng tác 130 vở múa và ba lê. Một số vở tốt, số khác lại dở tệ. Tôi đã làm việc với các vũ công ở hầu hết mọi không gian và môi trường mà các bạn có thể tưởng tượng ra. Tôi đã tập dượt trên đồng cỏ. Tôi đã kinh qua hàng trăm phòng tập, một số phòng rất xa hoa bởi chính sự mộc mạc chân phương và rộng lớn của nó; nhiều phòng thì bẩn thỉu, đầy sỏi sạn rác rưởi, chuột chạy rầm rập quanh bốn chân tường. Tôi đã làm việc tám tháng trời tại một phim trường ở Prague, biên đạo các bài múa và chỉ đạo các cảnh opera cho bộ phim Amadeus (tạm dịch: Sự đố kỵ của thiên tài) của Milos Forman. Tôi đã tổ chức dàn dựng các cảnh quay dùng ngựa trong Công viên Trung tâm của thành phố New York cho phim Hair (tạm dịch: Mái tóc). Tôi đã làm việc với các vũ công đến từ các nhà hát ở London, Paris, Stockholm, Sydney và Berlin. Tôi đã điều hành công ty của riêng mình suốt ba thập kỷ. Tôi đã sáng tác và đạo diễn một sô diễn rất thành công ở Broadway. Tôi đã làm việc chăm chỉ trong nhiều năm và không ngừng sáng tạo đến mức tới thời điểm này, tôi không chỉ thấy thách thức và lo lắng, mà còn có cảm giác bình yên và hứa hẹn khi đứng trước một căn phòng trắng trống trải. Nó đã trở thành mái nhà của tôi. Sau rất nhiều năm, tôi đã học được rằng sáng tạo là một công việc toàn thời gian với những mô thức thường nhật của riêng nó. Đó là lý do tại sao các nhà văn, chẳng hạn, thích thiết lập các nền nếp cho chính mình. Những người làm việc năng suất nhất bắt đầu công việc từ sáng sớm, khi không gian yên ắng, chuông điện thoại chưa reo và tâm trí họ đang tĩnh tại, tỉnh táo, chưa bị vẩn đục vì lời ra tiếng vào của mọi người. Có thể họ sẽ đặt cho mình một mục tiêu – viết 1.500 chữ, hoặc ngồi trước bàn làm việc cho tới trưa – nhưng bí mật thực sự nằm ở chỗ họ làm việc đó hằng ngày. Nói cách khác, họ có kỷ luật. Theo thời gian, khi nền nếp thường nhật dần biến thành bản năng thứ hai, kỷ luật cũng thay hình đổi dạng thành thói quen. Thực tế này đúng với mọi cá nhân hoạt động sáng tạo, dù đó là một họa sĩ bước tới trước giá vẽ vào mỗi sáng, hay một nhà nghiên cứu y khoa đến phòng thí nghiệm hằng ngày. Nền nếp cũng đóng vai trò ngang ngửa như tia chớp cảm hứng lóe lên trong quá trình sáng tạo, thậm chí còn lớn hơn. Và ai cũng có thể tự thiết lập nền nếp. Sáng tạo không chỉ là đặc sản của riêng các nghệ sĩ. Nó cũng cần thiết với các doanh nhân đang tìm kiếm những phương thức mới để hoàn tất thương vụ; nó là liều thuốc hữu hiệu cho các kỹ sư đang cố gắng giải quyết vấn đề; nó là yếu tố giúp các bậc cha mẹ muốn con cái mình nhìn nhận thế giới theo nhiều phương diện khác nhau. Trong bốn thập kỷ vừa qua, ngày nào tôi cũng bận bịu với một cuộc rượt đuổi sáng tạo đủ hình đủ dạng, trong cả công việc lẫn đời sống cá nhân. Tôi đã trăn trở rất nhiều về vấn đề thế nào là sáng tạo và làm thế nào để sáng tạo hiệu quả. Tôi cũng học được từ những kinh nghiệm đau thương, qua những lần sáng tạo theo cách tồi tệ nhất. Tôi sẽ tiết lộ cho các bạn cả hai điều nói trên. Và tôi sẽ đưa ra bài tập thách thức một số giả định về sáng tạo của bạn – để buộc các bạn cố gắng thêm, mạnh mẽ lên, bền bỉ hơn. Nói cho cùng, bạn luôn tập giãn cơ trước khi chạy bộ, khởi động trước khi tập thể hình, tập luyện trước khi chơi. Các hoạt động trí não cũng tương tự như vậy. Tôi sẽ nhấn mạnh luận điểm cho rằng khả năng sáng tạo được bồi đắp từ nền nếp và thói quen. Hãy tập làm quen với nó. Trong cuốn sách này, bạn sẽ thấy sự mâu thuẫn mang tính triết học liên tục xuất hiện. Đó là cuộc tranh cãi bất tận, có từ thời kỳ Lãng mạn,1 giữa hai đức tin cho rằng mọi hoạt động sáng tạo đều xuất phát từ (a) một tác động ngẫu nhiên cao siêu, vô phương biện giải của cảm hứng, một nụ hôn Chúa Trời đặt lên trán bạn, cho phép bạn trao tặng Cây sáo thần cho thế giới này, hoặc (b) lao động chăm chỉ. 1 Ý chỉ giai đoạn sau năm 1789, sau khi Cách mạng tư sản Pháp đánh đổ chế độ phong kiến (Mọi chú thích trong tác phẩm đều là của người dịch). Nếu ý tứ còn chưa đủ rõ ràng, tôi xin nói tôi thiên về hướng lao động chăm chỉ. Đó là lý do tại sao cuốn sách này có tựa đề Thói quen làm nên sáng tạo. Sáng tạo là một thói quen, và sự sáng tạo đỉnh cao là kết quả của những thói quen lao động tích cực. Nói tóm lại là thế. Bộ phim Amadeus (và vở kịch của Peter Shaffer, nền tảng của bộ phim) đã kịch tính hóa và lãng mạn hóa căn nguyên siêu phàm của các thiên tài sáng tạo. Antonio Salieri, trong vai nhà soạn nhạc tài năng chuyên nghề viết mướn, bị trời đày phải sống cùng thời với Mozart, người có tài năng thiên bẩm cùng tính tình vô tổ chức, luôn sáng tác như thể có bàn tay của Chúa Trời chạm vào. Salieri nhận thức rõ tầm vóc thiên tư của Mozart, và vô cùng đau khổ vì nghĩ Chúa đã chọn một kẻ khốn nạn làm nơi ký thác sức sáng tạo thần thánh của Người.   Mời các bạn đón đọc Thói Quen Làm Nên Sáng Tạo của tác giả Twyla Tharp.