Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu và Lý Tưởng

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tình Yêu và Lý Tưởng của tác giả Thomas Mann. THOMAS MANN QUA TÁC PHẨM TÌNH YÊU VÀ LÝ TƯỞNG Mặc dù được viết vào thời trẻ tuổi của tác giả và mặc dù tính cách mỏng mảnh của nó, Tonio Kroger - mà chúng tôi chuyển sang bản Việt văn với nhan đề TÌNH YÊU VÀ LÝ TƯỞNG - vẫn được hầu hết các nhà phê bình xem là một tác phẩm tiêu biểu cho trọn sự nghiệp của Thomas Mann. Hơn thế nữa, là một kiệt tác của nhà văn Đức, giải thưởng Nobel 1929 này, với những kích thước lớn lao chứa đựng những chủ đề trung kiên nhất của tác giả, cũng như với nghệ thuật hoàn hảo và đầy hàm súc của nó. Viết ở ngôi thứ ba, thiên truyện lại được xem là mang nặng tính cách tự thuật. Tiểu sử của Tonio Kroger, do đó, một phần nào, cũng chính là tiểu sử của Thomas Mann: một vận hành tri thức có tính cách quyết định của tác giả trong cuộc đi tìm ý nghĩa của đời sống và nghệ thuật, của thực tại và lý tưởng. Trong một bài viết vào cuối đời mình, năm 1953, Thomas Mann đã thú thật: “Nói thẳng ra là không có nhiều đức tin, nhưng tôi cũng không tin lắm vào đức tin; đúng ra, và còn hơn thế nữa, tôi tin nơi lòng tốt con người là điều có thể hiện hữu mà không cần tới đức tin và đúng ra là phát sinh từ sự hoài nghi… Nghệ sĩ là người sau cùng còn nuôi ảo tưởng về ảnh hưởng của mình trên định mệnh con người. Vốn khinh miệt cái xấu, hắn đã không bao giờ kéo ngừng lại được sự chiến thắng của cái xấu. Vốn quan tâm đến việc cống hiến một ý nghĩa, hắn đã không bao giờ kéo ngừng lại được những cái vô nghĩa đẫm máu nhất. Nghệ thuật không thiết lập nên một quyền lực, nó chỉ là một sự an ủi”.  Lời tự thú của một nhà văn ở cuối đời mình, về quyền năng và khả hữu tính của nghệ thuật, gói trọn ý nghĩa khốc liệt của một sự thức tỉnh nền tảng, lời tự thú đã từng được bộc lộ ngay trong Tonio Kroger, ra đời trước đó đúng nửa thế kỷ, năm 1903. Có thể xem đó chính là lời tự thú của chàng tuổi trẻ Tonio Kroger với tâm hồn nóng bỏng những ngọn lửa của trí tuệ và đam mê, luôn trên đường tìm kiếm cho đời mình và cho nghệ thuật, một sự cứu rỗi, một cách nào đó, tìm cách giải quyết mối phân ly tàn khốc nội tại nơi ý thức của con người sáng tạo. Chính Thomas Mann cũng đã nói: “Nghệ thuật có sứ mạng nhất thống”. Không mang nặng ảo tưởng, không ngụy tín, không ngộ nhận, nhà văn của chúng ta, sau một đoạn đường dài tìm kiếm, tư duy và sáng tạo, không ngừng nghỉ - đã trầm tĩnh nhìn nhận nghệ thuật sau cùng chỉ là một khả năng thống nhất, giải quyết những mối xung khắc làm nên yếu tính của chính mình. Có thể Thomas Mann bi quan - nếu không nói là tuyệt vọng, nhưng điều ta không thể phủ nhận được là bằng số lượng tác phẩm vô cùng phong phú của mình, ông đã “sống” trọn kinh nghiệm của một ý thức khốn khổ, bị kết án trong cô đơn, phải quờ quạng trong đêm tối mịt mùng của lịch sử (con người đã sống qua hai trận thế chiến), tìm đến một ý nghĩa, một giá trị giữa hư vô và tuyệt vọng bốn bề. Cũng như Thomas Mann đã thừa hưởng hai bản tính xung khắc, một của cha, đại diện cho tinh thần trưởng giả, một của mẹ, với dòng máu lai Nam Mỹ, đại diện cho tinh thần nghệ sĩ đa cảm và phóng khoáng, Tonio Kroger là hiện thân của một mối xung khắc thuộc huyết thống. Cậu là con trai của vị lãnh sự Kroger, thuộc dòng họ Kroger quyền quý, nhưng tâm hồn cậu cũng nghiêng về mẹ, một người mẹ “nồng nàn và thâm u”, chơi dương cầm và măng cầm tuyệt vời. Từ sự xung khắc nội tại đó, chàng tuổi trẻ kia cảm thấy mình xung khắc với tất cả mọi người: bạn, thầy, những người chung quanh. Và vượt lên trên tất cả những xung khắc, đó là sự xung khắc giữa đời sống và nghệ thuật không ngừng đốt cháy tâm hồn chàng. Chính Tonio Kroger đã thú thật với Lisaveta Iwanowna, cô bạn nghệ sĩ Nga của chàng: “Tôi được đặt để vào giữa hai thế giới, không một nơi nào cho tôi cái cảm tưởng là mình đang sống dưới mái ấm của mình, vì thế mà đối với tôi, cuộc sống có phần vất vả”. Tonio Kroger hay là thảm kịch của sự phân ly. Ngay từ những ngày tuổi nhỏ, chàng đã sống trong tận cùng da thịt mình, sự phân ly với đời sống. Phân ly với đời sống. Tại sao? Tại vì chính chàng đã ngoảnh mặt trước đời sống hay ngược lại chính đời sống đã làm chàng thất vọng, đã ngăn chặn, đã cấm đoán chàng tìm đến với nó? Chỉ cần đọc những trang đầu tiên, người đọc nhận ra ngay một khuynh hướng tình cảm có phần trái ngược của chàng: chàng đam mê chống lại chính đam mê của mình. Những đối tượng tình cảm của Tonio Kroger chính là những cực đối nghịch với chàng. Chàng kết thân với Hans Hansen, một đứa trẻ hồn nhiên, thích thể thao và tầm thường. Chàng đem lòng yêu Ingeborg Holm, cô gái có mái tóc vàng nâu, vui tính, thích trò chuyện; trong khi đó thì Tonio lại là một tâm hồn đầy u uẩn, chỉ thích sống với nội giới của mình, luôn say mê những lý tưởng mà mọi nguời đều lấy làm dửng dưng, không ngó ngàng tới. Phải chăng đó chính là những cố gắng đầu tiên của một tâm hồn thuần khiết, muốn tham dự vào đời sống, muốn hòa hợp với tha nhân, bằng một cách thế đau đớn nhất: một cách nào đó, phủ nhận chính mình. Nhưng Tonio Kroger đã thất bại trong nỗ lực thỏa hiệp đầu tiên của chàng với đời sống, trong nỗ lực san bằng sự ly cách giữa chàng với đời sống. Bởi đời sống đã khước từ. Bởi sự xung khắc không chỉ hiện hữu nơi chàng, nó còn hiện hữu nơi đời sống. Những tâm hồn chàng yêu dấu, ngưỡng vọng đã chỉ đáp lại chàng bằng sự lạnh nhạt và sự đần độn. Cậu đón nhận kinh nghiệm đớn đau đầu tiên của sự thỏa hiệp: “Kẻ thường yêu nhiều nhất là kẻ yếu đuối nhất và phải chịu nhiều khổ sở. Tâm hồn non dại của một cậu thiếu niên mười bốn tuổi đã học được bài học đơn giản và nghiệt ngã kia của cuộc đời”. Chàng đã khước từ chính mình một cách sung sướng, để được yêu, được thỏa hiệp, nhưng chính đời sống đã xua đuổi chúng, đã đào sâu thêm cuộc phân ly. Đã đẩy chàng vào chính thế giới nội tâm đìu hiu quen thuộc của mình, với những khát vọng man rợ, ngông cuồng: “(Chàng) làm thơ và không dám nói đến ngay cả việc cậu mong mình trở thành cái gì mai sau”. Đó là điểm khởi đầu của một cuộc đoạn tuyệt đớn đau. Tonio Kroger rời bỏ những tâm hồn yêu dấu, những người bạn nhỏ, những khung cảnh thần tiên của tuổi niên thiếu, tất cả làm nên quá khứ chàng. Chàng rời bỏ không luyến tiếc để dấn thân vào cuộc đày ải, không, vào cuộc phiêu lưu đầy gian nguy và kỳ thú. Bởi đó là cuộc đày ải tự nguyện của một con người sau khi đã “thức tỉnh trước chính mình” và “lấy làm mai mỉa trước cuộc hiện sinh trì độn và ti tiện” đã giam giữ đời mình trong tù ngục tối tăm, mê muội. Thế rồi Tonio Kroger rời bỏ thành phố chôn nhau cắt rốn của mình, lăn xả trọn vẹn vào một thứ quyền lực vô song, hứa hẹn những chân trời kỳ tuyệt, “đó là quyền lực trí tuệ và của lời nói vừa chế ngự vừa tươi cười trên cuộc sống vô thức và lặng câm”, đó là quyền lực của sáng tạo đã từng nung nấu tâm hồn thiếu niên của cậu. Chàng hiến trọn đời mình cho nghệ thuật, trong tư cách một con người sáng tạo thật sự, tự giam hãm đời mình trong niềm đơn độc tuyệt đối, hầu “sản xuất nên những tác phẩm tuyệt vời bằng cái giá của những nỗi xao xuyến khốc liệt”. Nhưng rồi cũng chính những tháng năm miệt mài trong sự sáng tạo đó đã cho chàng biết rằng “người ta phải chết đi mới thật sự là một con người sáng tạo”. Điều mà Tonio Kroger bắt gặp, trên đường tìm kiếm lý tưởng, đó vẫn là sự phân ly, sự phân ly giữa đời sống và nghệ thuật: “Nếu trọn thế giới đã được diễn tả, thì trọn thế giới đã được giải quyết, phóng thích, hủy hoại… Tốt lắm! Tuy nhiên tôi không phải là một người theo chủ nghĩa hư vô…” cho nên kinh nghiệm của Tonio Kroger mãi mãi còn là kinh nghiệm tan nát, hãi hùng của sự xung khắc, của sự mâu thuẫn hệ tại ngay trong tâm thức chàng. Chàng đoạn tuyệt với quá khứ, nhưng chỉ để sau đó trở về với thành phố chôn nhau cắt rốn của mình, bị thúc đẩy bởi một tình hoài hương tiềm tàng, ray rứt. Chàng nhận ra điều này, mặc dù đã cương quyết đoạn lìa, tâm hồn chàng vẫn còn rung động với từng hình ảnh, từng âm thanh của quá khứ. Chặng đường sau cùng của cuộc hành trình đã đưa chàng trở về, trở về với nguồn cội thân yêu mà chàng đã từng quay lưng, chối bỏ. Phải chăng đó là một thất bại của chàng, kẻ vô vọng thỏa hiệp và đồng thời vô vọng đoạn tuyệt với cội nguồn, gốc gác? Phải chăng chính vì thế mà Lisaveta Iwanowna, một tâm hồn bạn của chàng, đã phát biểu về chàng: “Anh là một chàng trưởng giả dấn thân vào một con đường lầm lỡ, Tonio Kroger à, một chàng trưởng giả lạc đường”. Nhưng điều may mắn là chàng trưởng giả lạc đường đó còn biết, một lần nữa, thức tỉnh một chân lý thật tầm thường và cũng thật cao cả: “Chính cái bình thường, cái hợp lý, cái đáng yêu, đời sống trong vẻ tầm thường, quyến rũ của nó, chính tất cả những thứ đó tạo nên thứ vương quốc mà những ước vọng của ta dẫn về”. Nhưng có thật là Tonio Kroger đã thất bại, trong sứ mạng nghệ thuật cũng như trong công trình hiện hữu của chàng? Và cuộc hành trình của chàng đã kết thúc ra sao? Nhưng làm gì có sự kết thúc với con người sáng tạo. Cuốn sách đã xếp lại, nhưng nhân vật tiểu thuyết của chúng ta vẫn còn đang trên đường. Hơn ai hết, Tonio Kroger biết rằng mình còn phải sáng tạo nên “những tác phẩm khá hơn”, như chàng đã hứa với Lisaveta. Nhưng đồng thời, chàng cũng biết rằng “tình yêu sâu xa nhất và bí ẩn nhất của (chàng) thuộc về những người có mái tóc vàng nâu và đôi mắt xanh lơ, những tâm hồn trong sáng và sống thật, những tâm hồn diễm phúc, những tâm hồn đáng yêu, những tâm hồn rất mực thường tình”. Lòng tốt mà Thomas Mann đã nói (được trích dẫn trên đầu bài viết này) đã gặp gỡ, hòa hợp với tình yêu thốt từ miệng Tonio Kroger. Phải chăng hơn ai hết, con người sáng tạo hiểu rõ rằng hắn không có quyền hy sinh đòi sống cho nghệ thuật, tình yêu cho lý tưởng, đạo đức cho thẩm mỹ? Và phải chăng vấn đề sau cùng phải là giải quyết mối xung đột hay sự thất bại nền tảng của mình bằng một sự chọn lựa mà trái lại, bằng sự chấp nhận: “Đừng chê thách thứ tình yêu đó, Lisaveta à, nó tốt đẹp và bổ ích, nó được tạo nên từ những hoài bão khốn khổ, từ ước muốn sầu muộn, từ một chút khinh miệt, và từ một niềm diễm phúc, thật trắng trong, thuần khiết…”.   Nhà văn, Dịch giả Huỳnh Phan Anh Nguyên bản TONIO KROGER *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết Tình Yêu và Lý Tưởng kể về cuộc đời của Tonio Kroger, một nghệ sĩ trẻ với tâm hồn đa sầu đa cảm. Chàng mang trong mình dòng máu lai, một nửa là dòng máu trưởng giả, một nửa là dòng máu nghệ sĩ, điều này đã khiến chàng luôn cảm thấy mình lạc lõng, không thuộc về bất cứ nơi nào. Thuở nhỏ, Tonio Kroger là một đứa trẻ nhạy cảm, khác biệt với những đứa trẻ khác. Chàng thường cảm thấy mình là kẻ ngoại đạo, không hòa nhập được với đám bạn cùng trang lứa. Chàng yêu thích những điều cao quý, thanh nhã, nhưng những người xung quanh chàng lại chỉ quan tâm đến những điều tầm thường, phù phiếm. Khi trưởng thành, Tonio Kroger quyết định rời bỏ quê hương để tìm đến một nơi khác, nơi mà chàng có thể được là chính mình. Chàng đến với nghệ thuật, nơi mà chàng có thể tự do thể hiện những tâm tư, tình cảm của mình. Tuy nhiên, Tonio Kroger cũng nhận ra rằng nghệ thuật không thể giải quyết được những mâu thuẫn nội tại trong tâm hồn chàng. Chàng vẫn cảm thấy mình lạc lõng, cô đơn, thậm chí là bị cô lập. Cuối cùng, Tonio Kroger quyết định quay trở về quê hương. Chàng nhận ra rằng mình vẫn yêu những người thân yêu, những người bạn cũ, và chàng vẫn yêu những điều bình dị, giản đơn trong cuộc sống. Tonio Kroger đã tìm được sự hòa hợp giữa bản thân và thế giới xung quanh, giữa nghệ thuật và đời sống. Review Tình Yêu và Lý Tưởng là một tiểu thuyết xuất sắc của Thomas Mann, thể hiện những trăn trở, suy tư sâu sắc của nhà văn về nghệ thuật và đời sống. Cuốn tiểu thuyết đã khắc họa chân thực tâm hồn đa sầu đa cảm của Tonio Kroger, một nghệ sĩ trẻ luôn khao khát được tìm kiếm sự hòa hợp giữa bản thân và thế giới xung quanh. Tiểu thuyết được viết theo lối tự sự, với nhân vật chính là Tonio Kroger. Cốt truyện của tác phẩm xoay quanh cuộc đời và những trải nghiệm của Tonio Kroger. Tác phẩm được chia thành ba phần, mỗi phần thể hiện một giai đoạn trong cuộc đời của Tonio Kroger. Trong phần đầu tiên, Tonio Kroger là một đứa trẻ nhạy cảm, khác biệt với những đứa trẻ khác. Chàng cảm thấy mình là kẻ ngoại đạo, không hòa nhập được với đám bạn cùng trang lứa. Chàng yêu thích những điều cao quý, thanh nhã, nhưng những người xung quanh chàng lại chỉ quan tâm đến những điều tầm thường, phù phiếm. Trong phần thứ hai, Tonio Kroger quyết định rời bỏ quê hương để tìm đến một nơi khác, nơi mà chàng có thể được là chính mình. Chàng đến với nghệ thuật, nơi mà chàng có thể tự do thể hiện những tâm tư, tình cảm của mình. Tuy nhiên, Tonio Kroger cũng nhận ra rằng nghệ thuật không thể giải quyết được những mâu thuẫn nội tại trong tâm hồn chàng. Chàng vẫn cảm thấy mình lạc lõng, cô đơn, thậm chí là bị cô lập. Trong phần thứ ba, Tonio Kroger quyết định quay trở về quê hương. Chàng nhận ra rằng mình vẫn yêu những người thân yêu, những người bạn cũ, và chàng vẫn yêu những điều bình dị, giản đơn trong cuộc sống. Tonio Kroger đã tìm được sự hòa hợp giữa bản thân và thế giới xung quanh, giữa nghệ thuật và đời sống. Tình Yêu và Lý Tưởng là một tác phẩm giàu ý nghĩa nhân văn. Tác phẩm đã đề cập đến những vấn đề quan trọng trong cuộc sống, như sự xung đột giữa bản thân và thế giới xung quanh, giữa nghệ thuật và đời sống. Cuốn tiểu thuyết cũng thể hiện niềm tin của Thomas Mann vào khả năng hòa hợp giữa bản thân và thế giới, giữa nghệ thuật và đời sống. Tác phẩm được đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Thomas Mann đã sử dụng ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc để khắc họa tâm hồn đa sầu đa cảm của Tonio Kroger. Cốt truyện của tác phẩm được xây dựng chặt chẽ, logic, mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm sâu sắc. *** Thomas Mann sinh năm 1875  tại Lübeckvà mất năm 1955 tại Zürich (Thụy Sĩ). Sự nghiệp văn học lẫy lừng của ông mang dấu ấn dân chủ, chống phát xít, mang những nét tư tưởng đặc trưng của dân tộc Đức. Trong cuốn “Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đoạt giải thưởng Nobel Văn học” do nhà xuất bản Văn học ấn hành, có truyện ngắn “Ngài Friedemann bé nhỏ” của Thomas Mann khá ám ảnh. Câu chuyện kể về nhân vật Johanes Friedemann khi nhỏ bị rơi từ bàn quấn tã xuống, khi mới sinh được khoảng một tháng, lỗi do chị vú em bất cẩn.  Sau cú rơi nghiêm trọng đó, cậu bé Friedemann đã mang thương tật suốt đời, mà Thomas Mann miêu tả cậu có “bộ ngực nhô cao và nhọn hoắt, tấm lưng khuỳnh khuỳnh, hai tay khẳng khiu dài quá cỡ và nhanh nhẹn hăng hái tách hạt dẻ, nom thật hết sức kỳ dị”.  Cậu bé thích những quyển sách có những hình vẽ đẹp, và có chút dấu hiệu của tự kỷ. Lớn lên một chút, cậu Friedemann cũng  biết rung động như các bạn cùng trang lứa. Cậu cũng biết ghen tuông, khi cậu thấy cô gái mà cậu thích ngồi cạnh một chàng thanh niên tóc đỏ cao lên nghêu.  Thomas Mann mô tả về thái độ ấy: “Được, ta sẽ chẳng bao giờ thèm để tâm đến tất cả những cái đó nữa. Chuyện ấy mang lại cho người khác hạnh phúc và niềm vui, còn ta, ta chỉ chuốc lấy dằn vặt và khổ đau. Ta không muốn liên quan đến cái trò ấy nữa. Đối với ta, thế là xong. Chẳng bao giờ nữa”.  Cậu rất yêu âm nhạc và dành nhiều thời gian cho nó, cậu chơi khá về Violon. Khi trưởng thành hẳn, Mann gọi cậu là ngài. Với thân hình dị dạng của mình, nhưng trong sâu thẳm của Friedemann vẫn mang những rung cảm mạnh mẽ  trước sức hút của phái đẹp. Ngài đã mê mẩn trước nhan sắc của một phu nhân. Ngài bị ám ảnh khủng khiếp bởi nhan sắc tuyệt diệu ấy. Bao nhiêu cung bậc cảm xúc diễn biến trong trái tim của ngài. Sau bao dằn vặt, đấu tranh tư tưởng, suy nghĩ vụn vặt khi cảm giác như bị phu nhân hắt hủi, ngài đã nhảy xuống nước tự tử. Cái kết câu chuyện đóng lại ở đó, Thomas Mann đã khiến người đọc ám ảnh bởi những suy nghĩ, tâm tư, thổn thức yêu đương nơi cõi lòng của một người tàn tật. Một cái kết đầy nỗi buồn.  “Ngài Friedemann bé nhỏ” là truyện ngắn được coi là đầu tay của Thomas Mann, khi ông mới 23 tuổi. Năm 1901, Mann xuất bản tiểu thuyết đầu tiên Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrook) - kể về sự suy sụp của một gia đình ba đời buôn bán ở Lübeck trong bối cảnh cạnh tranh của chủ nghĩa đế quốc. Bộ tiểu thuyết đặc sắc này đã mang lại cho ông giải Nobel năm 1929. Mann tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý, đi sâu vào các khía cạnh bệnh hoạn, cái phù du và cái chết. Những áng văn của ông thể hiện hiểu biết uyên bác của ông trên nhiều lĩnh vực: triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học… Năm 1905, Thomas Mann cưới vợ, sinh 6 người con (trong đó có ba người sau này cũng trở thành nhà văn). Cuộc hôn nhân không phải là cách giải quyết cho ông về vấn đề đồng tính luyến ái. Đó cũng là một đề tài mà Mann say mê thể hiện trong sáng tác của mình, tiêu biểu là Der Tod in Venedig (Chết ở Venice, 1913) - một trong những truyện dài xuất sắc nhất của văn chương thế giới. Sau Thế chiến thứ nhất, ông hoàn thành một trong những đỉnh cao sáng tác của mình là Der Zauberberg (Núi thần).  Một số tác phẩm của Thomas Mann: Der kleine Herr Friedemann (Ngài Friedemann bé nhỏ, 1898), tập truyện Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrook, 1901), tiểu thuyết Tristan (1903), tập truyện Tonio Kröger (1903), truyện Fiorenza (1905), kịch 1 hồi Der Tod in Venedig (Chết ở Venice, 1913), truyện ngắn Betrachtungen eines Unpolitischen (Những suy ngẫm ngoài chính trị, 1918), tập kí Von deutscher Republik (Nền dân chủ Đức, 1922), tiểu luận Goethe und Tolstoi (Goethe và Tolstoi, 1923), tiểu luận Der Zauberberg (Núi Thần, 1924), tiểu thuyết Mario und der Zauberer (Mario và người phù thủy, 1929), truyện Joseph und seine Brüder (Joseph và những người anh em), bộ tiểu thuyết, 4 tập Die Geschichten Jaakobs (Những câu chuyện của Jaakobs, 1933) Der junge Joseph (Joseph trẻ tuổi, 1934) Joseph in Ägypten (Joseph ở Ai Cập, 1936) Joseph, der Ernährer (Joseph, người nuôi sống, 1943), Lotte in Weimar (Lotte ở Weimar, 1939), tiểu thuyết Doktor Faustus (Bác sĩ Faustus, 1947), tiểu thuyết …   Mời các bạn mượn đọc sách Tình Yêu và Lý Tưởng của tác giả Thomas Mann.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tâm Lý Học Về Tiền
Tiền bạc có ở khắp mọi nơi, nó ảnh hưởng đến tất cả chúng ta, và khiến phần lớn chúng ta bối rối. Mọi người nghĩ về nó theo những cách hơi khác nhau một chút. Nó mang lại những bài học có thể được áp dụng tới rất nhiều lĩnh vực trong cuộc sống, như rủi ro, sự tự tin, và hạnh phúc. Rất ít chủ đề cung cấp một lăng kính phóng to đầy quyền lực giúp giải thích vì sao mọi người lại hành xử theo cách họ làm hơn là về tiền bạc. Đó mới là một trong những chương trình hoành tráng nhất trên thế giới. Chúng ta hiếm khi lâm vào hoàn cảnh nợ ngập đầu ư? Biết tiết kiệm để dành cho lúc khốn khó hơn ư? Chuẩn bị sẵn sàng cho việc nghỉ hưu? Có những cái nhìn thiết thực về mối quan hệ giữa tiền và hạnh phúc của chúng ta hơn phải không? Chúng ta đều làm những điều điên rồ với tiền bạc, bởi vì chúng ta đều còn khá mới mẻ với trò chơi này và điều có vẻ điên rồ với bạn lại có khi hợp lý với tôi. Nhưng không ai là điên rồ cả – chúng ta đều đưa ra các quyết định dựa trên những trải nghiệm độc đáo riêng có mang vẻ hợp lý với mình ở bất cứ thời điểm nào. Mục đích của cuốn sách này là sử dụng những câu chuyện ngắn để thuyết phục bạn rằng những kỹ năng mềm còn quan trọng hơn khía cạnh lý thuyết của đồng tiền. Thông qua một tập hợp những thử nghiệm và sai lầm của nhiều năm chúng ta đã học được cách trở thành những nông dân giỏi giang hơn, những thợ sửa ống nước nhiều kỹ năng hơn, và những nhà hóa học tiên tiến hơn. Nhưng liệu việc thử nghiệm và sai lầm có dạy chúng ta trở nên giỏi hơn trong cách quản lý tài chính cá nhân của chính mình không? Nhiều tiền không liên quan nhiều đến việc bạn thông minh như thế nào mà lại liên quan lớn đến cách bạn hành xử. Và cách hành xử thì rất khó để uốn nắn, ngay cả đối với những người thực sự thông minh. Một thiên tài không kiểm soát được cảm xúc của anh ta có thể dẫn tới một thảm họa tài chính. Điều ngược lại cũng đúng. Những người bình thường không có kiến thức về tài chính có thể trở nên giàu có nếu họ nắm trong tay những kỹ năng hành xử không liên quan đến những thước đo chính thống về trí thông minh. Sự thành công trong tài chính không phải là một lĩnh vực khoa học khó nhằn. Nó là một kỹ năng mềm, nơi mà cách bạn hành xử quan trọng hơn điều mà bạn biết. Trong “Tâm lý học về tiền”, tác giả từng đoạt giải thưởng Morgan Housel chia sẻ 19 câu chuyện ngắn khám phá những cách kỳ lạ mà mọi người nghĩ về tiền bạc và dạy bạn cách hiểu rõ hơn về một trong những chủ đề quan trọng nhất của cuộc sống. Mời bạn đón đọc Tâm Lý Học Về Tiền của tác giả Morgan Housel & Hoàng Thị Minh Phúc (dịch)!
Phía Núi Bên Kia
Xuân Sách (4 tháng 7 năm 1932 – 2 tháng 6 năm 2008) tên thật là Ngô Xuân Sách, ngoài ra ông còn bút danh Lê Hoài Đăng, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được biết tới khi là tác giả phần lời các ca khúc nổi tiếng Đường chúng ta đi (dựa trên tứ thơ của Hoàng Trung Thông và Chế Lan Viên), Cùng anh tiến quân trên đường dài (nhạc Huy Du), đặc biệt nổi bật qua tập thơ Chân dung nhà văn. Cuốn sách Phía Núi Bên Kia nói về câu chuyện của một cậu bé thường nhìn về phía rặng núi xanh mờ của quê mình mà đoán xem phía núi bên kia ấy có những gì. Tác giả viết về những biến cố lịch sử đất nước năm 1945, nhất là nạn đói Ất Dậu, qua con mắt của một chú bé - vừa thương vừa không buồn thảm, lại rất thực. Rồi theo chân bố, cậu cũng đi kháng chiến, phục vụ trong đoàn Văn công thiếu nhi. Hai bố con gặp lại nhau ngày chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. *** K hi có điều gì không bằng lòng về tôi, mẹ tôi thường nói: - Tao nuôi mày ba sống một chết, qua năm lần bảy bận khốn đốn gian nan. Tôi sinh năm con hổ. Nhưng tôi ra đời lại như một con mèo ốm. Bà mụ cắt rốn tôi bằng cái lưỡi hái, tắm tôi trong cái bầu đài bằng mo cau. Bà trao cái thằng bé dăn dúm đỏ hỏn cho mẹ tôi: “Trời cho chị một thằng cu, nhưng chị sẽ vất vả vì nó.” Tôi khóc, khóc ngày này qua đêm khác. Đầy cữ, đầy tháng, đầy năm tôi vẫn khóc. Bú được chút sữa mẹ nào, tôi đều biến thành nước mắt. Khó nói hết nỗi vất vả cực nhọc của mẹ tôi. Sau này khi lớn lên, nhìn những nếp nhăn trên mặt mẹ, vẻ gầy guộc dầu dãi của mẹ, tôi vẫn nghĩ đó là dấu vết những năm tháng mẹ nuôi tôi, những năm tháng mà “nước mắt mẹ dài hơn nước mắt con”. Tôi sống quặt quẹo cho đến năm lên ba thì bị giáng một trận ốm kịch liệt. Một buổi chiều tháng mười ảm đạm, bệnh tôi đã hết phương cứu chữa. Mẹ bế tôi từ trong buồng ra đặt trên cái chõng kề cửa sổ. Tôi thôi khóc, mắt lờ đờ và mồm ngáp như cá đớp mồi khan, bụng chướng lên như cái trống. Chị Lụa năm ấy lên sáu, thấy tôi há mồm liền cầm củ khoai chấm vào: - Em ơi dậy chị cho ăn khoai. Mẹ tôi ngồi canh chừng ủ rũ. Bố tôi lặng lẽ sắp sẵn một manh chiếu, ba cái lạt tre, cái thuổng cái cuốc dựng đầu hè cùng với một bó đuốc. Chờ tôi tắt thở là bố mượn người đưa tôi đi. Trên lớp da bụng căng như mặt trống, ông bác tôi viết vào một chữ “Sát”, chữ nho có nghĩa là giết. Làm vậy là khi tôi chết rồi biến thành ma thì cũng tìm đường cuốn xéo đừng quay lộn về đầu thai vào gia đình làm khổ cha mẹ nữa. Vào thời ấy ở một làng quê hẻo lánh, chuyện thuốc thang thật khó khăn. Bố mẹ tôi đã bán một sào ruộng hiếm hoi của mình để cứu tôi, nhưng lúc này thì coi như tôi sắp vỡ nợ cha mę. Vào đúng lúc ấy, trời nhá nhem tối, có một người lạ vào nhà tôi. Ông khách kỳ dị mặc bộ quần áo nâu cũ, vai khoác cái bị cói, đầu đội cái nón rách úp sụp xuống mặt. Trông chẳng khác gì một người ăn mày, thuở ấy ăn mày không thiếu. Ông khách vào ngõ là đi sục luôn vào nhà. Bố tôi sửng sốt, nhưng khi chủ khách nhận ra nhau thì lập tức khép kín cửa lại. Ông khách thăm tôi rồi nói vội: - Cho tôi cái bát và ít nước. Ông moi trong người ra một khúc gỗ đen bóng bằng đầu ngón tay cái, rồi mài vào bát nước vối. Bố tôi lấy đũa cả ngáng mồm tôi cho ông khách đồ bát nước ấy vào. Ông khách lấy tay xoa nhẹ bụng tôi. Cái bàn tay mầu nhiệm của ông khách bí ẩn đã làm cho cái bụng căng cứng của tôi bỗng chốc mềm ra và sôi lên ùng ục như biển động. Rồi tất cả những thứ gì chứa trong cái bụng ấy được tống ra ngoài làm nồng nặc cả ba gian nhà. Cái thằng tôi do quá thiết tha với cuộc đời đã cựa mình, mở mắt và cất tiếng khóc. Có lẽ đó là tiếng khóc mà bố mẹ tôi nghe một cách sung sướng kể từ sau tiếng khóc chào đời của tôi. Chị Lụa níu tay mẹ tôi: - Không chôn em nữa chứ mẹ? Mẹ tôi mắng chị qua nước mắt: - Mày chỉ dại mồm dại miệng. Chị vui lên, em sẽ sống và ăn khoai với chị. Bố tôi bê nồi cơm nguội và một đĩa thức ăn xoàng xĩnh bày mâm mời ông khách ăn. Ông vừa bỏ nón để lộ cái đầu trọc, ngồi lên giường bê bát cơm thì nghe phía nhà lý trường có hồi trống thúc gọi tuần đinh một cách hối hả, ông khách đặt bát cơm xuống nhìn bố tôi. Bố tôi nói khẽ: - Để lắng xem thế nào đã anh. Ông khách ngần ngừ một lát rồi vớ vội cái nón: - Tôi phải đi. Bố tôi lo lắng vặn nhỏ ngọn đèn. Ông khách đeo bị, đưa cho bố tôi cục gỗ mài cho tôi uống ban nãy: - Anh cầm lấy. Đây là miếng kỳ, vị thuốc quí của gia đình tôi còn lại, anh giữ lấy mà dùng cho cháu. Mẹ tôi xúc động: - Ơn anh đã cứu cháu. - Tôi chịu ơn anh chị nhiều, dịp khác tôi lại về. Bố tôi còn kịp đổ ít cơm nguội vào trong bị và đưa ông khách ra cửa sau. Trước khi từ giã, ông nói: - Dạo này bọn chó đánh hơi gớm lắm, anh phải cần thận. Bố tôi mở rào cho ông khách đi ra, xóa vết chân rồi quay vào nhà, chưa kịp nói gì thì lý trưởng đến. - Chào cụ lý. - Bố tôi lễ phép mời lão ngồi. - Nhà có chuyện gì đấy ? - Lý trưởng vừa hỏi vừa đảo mắt nhìn khắp nhà. Biết ông khách đã đi thoát, bố tôi bình tĩnh. - Dạ thưa cụ, nhà có thằng cháu ươn người, đã tưởng là không qua được, nhưng may mà bệnh cháu đã chuyển. - Thuốc gì mà chuyển? Mẹ tôi đã bưng lên một đĩa trầu, đỡ lời: - Thưa cụ, cùng quá cũng vơ nhăng vơ quàng mớ rễ mớ lá, may nhờ phúc cụ lý nó lại hợp với bệnh cháu. - Tôi làm gì mà phúc với đức. - Lão lý vẫn chân ngồi chân đứng, tai ngóng ra ngoài ngõ, lão vớ miếng trầu nhai rồi nói lúng búng: - Đêm hôm tôi cũng đi dạo một vòng, thấy nhà có việc tôi ghé vào, thôi tôi về. Bố tôi tiễn lý trưởng ra ngõ. Lão nói nhỏ: - Anh phải biết rằng nếu tôi không đánh hồi trống gọi tuần đinh thì sự việc đã khác. Tại sao tôi lại đánh trống, anh hiểu chứ ? - Đội ơn cụ. - Ơn huệ gì. Liệu đấy, đầu anh không giữ được đã đành, mà tôi rồi cũng không còn chỗ đội nón vì anh đấy. Quá lắm thì tôi không thể dung được đâu. - Dạ. - Dạo này có túng bấn lắm không? - Sống ra sao mà cụ chẳng biết, cũng cố chèo chống cho qua. - Này, Nhật vào Đông Dương rồi anh biết không ? - Dạ. - Làng trên đã có truyền đơn của Việt Minh rồi đấy, bao giờ thì đến lượt làng này? - Dạ. - Ối giời ơi! - Lão lý phát cáu - Anh cứ vờ vờ vịt vịt. Thời buổi rối như mớ bòng bong, chẳng biết đâu mà lần. - Cụ lại nhà.   Sau trận ốm ấy, tôi thay đổi hẳn. Tôi khỏe lên và ăn trả bữa. Bây giờ thì bố mẹ lại vất vả lo cho tôi ăn. Tôi ăn không biết no, biết chán. Lúc nào cũng ăn được, lúc nào cũng quấy khóc đòi ăn. Lên năm, lên sáu vẫn thế. Ăn ở nhà, rồi mò đi ăn chực hàng xóm. Ăn chực một bát lại đòi hai. Trẻ con trong xóm cho em ăn thường dọa: “Mày không ăn, thằng Đen đến nó ăn hết bây giờ”. Thằng Đen chính là tôi. Tên tôi là Hòe kia, nhưng vì tôi đen nên người ta gọi như thế. Sau này người ta vẫn gọi tôi là thằng Hòe đen. Bố tôi đi làm thuê, hôm nào làm ở trong làng mà tôi biết, tôi cũng mò đến. Mùa gặt, tối về bố tôi trục lúa cho nhà chủ, tôi đến nằm ở gốc rơm đánh một giấc, và lạ lùng thay khi làm lúa xong, thợ gặt dọn mâm bát ăn cơm là tôi vùng dậy ngay, tỉnh như sáo mon men kiếm một bát cơm. Một lần ăn xong, hai bố con về nhà, tôi nói líu ríu, bố tôi giận: - Lần sau tao cấm mày đi. - Sao thế bố ? - Sao nữa, lần sau mày theo đi tao đập chết. - Rồi bất ngờ bố tôi thở dài dịu giọng - miếng ăn nhục nhã lắm con ơi!   Mời các bạn đón đọc Phía Núi Bên Kia của tác giả Xuân Sách.
Đầu Xanh Tuổi Trẻ
Review Nguyễn Hữu Cát:   Không hiểu sao khi đọc xong “Crôtcaia” – một truyện ngắn giả tưởng của Dostoevsky, tôi cứ luôn ao ước (như Pautopsky) được nhìn vào đôi mắt của nhà văn, nơi câu chuyện được sinh ra. Chẳng biết khi đặt bút viết những lời kết, có dòng lệ nào lăn chảy trên gương mặt gày gò của ông hay không và đôi mắt màu nâu xám có ánh lên tia nhìn buồn bã, thương cảm và bàng bạc niềm u uẩn không? Chỉ biết rằng nếu được nhìn vào đôi mắt ông, có thể tôi sẽ hiểu được nhiều điều bên dưới những con chữ kia. Phải, truyện ngắn này gây cho tôi một ấn tượng đặc biệt, một xúc cảm mạnh mẽ và một chấn động kinh hoàng. Nó giống như một cơn mộng mị mà khi tỉnh dậy ta còn bàng hoàng không biết là thực hay là mơ? Dostoevsky thích tạo ra mâu thuẫn và những điều bí mật, thậm chí “những điều kỳ quặc” trong kết cấu tiểu thuyết của mình và cho rằng không nhất thiết một tác phẩm phải trình bày tuần tự, sáng rõ để người ta hiểu ngay từ lúc ban đầu. Ông có thiên hướng kích thích người đọc phải săn tìm những điều bí mật ẩn sâu trong tác phẩm. Chính vì thế, ông thường tạo kịch tính ngay ở đầu, ngay ở phần mở đầu tiểu thuyết với những câu hỏi hóc búa. Ông cũng làm như thế với những truyện ngắn của mình. Từ hình thức tự do không giới hạn của tiểu thuyết chuyển sang hệ thống chặt chẽ và khép kín của truyện ngắn, Dostoevsky đã đạt đến đỉnh cao mới của nghệ thuật viết truyện. “Crôtcaia” (hay “Người đàn bà nhẫn nhịn”) là một truyện ngắn bi kịch có sức mạnh phi thường, nó đạt tới độ tự chiếu sáng, vừa trong sáng, mực thước như một họa phẩm chân dung của Rembrant thời Phục hưng, vừa sâu sắc, súc tích như một thi phẩm tình yêu của Puskin. Đọc truyện “Crôcaia” ta có cảm giác như bước vào một căn phòng tối, xa lạ, không nhìn thấy gì và không biết gì hết. Đến khi quen với bóng tối, mắt ta trở nên tinh hơn và bắt đầu nhận biết được các sự vật. Dostoevsky đã phá hủy hình thức bền vững của truyện ngắn cổ điển, ông đưa người đọc đến ngay một sự cố bất thường rồi sau đó phát triển số phận và nhân cách của nhân vật trong giới hạn của sự căng thẳng tinh thần mà nhân vật phải đối đầu. Nói cách khác, nội dung và tính kịch của truyện ngắn được khép kín trong vòng tròn độc nhất của “tai biến nội tâm”. Tất cả được tập trung, xâu chuỗi, đắp nổi cho hình tượng nhằm làm nổi bật cái chấn động tinh thần dữ dội ở nhân vật. Tấn bi kịch của câu chuyện được nhà văn gỡ nút ngay từ sự gợi mở ban đầu: Một người chồng đau khổ, trên bàn của anh ta là thi thể người vợ, trước đó mấy giờ cô ấy lao mình ra ngoài cửa sổ tự tử. Anh ta đang trong cơn bối rối, hoảng loạn, và muốn hiểu chuyện gì đã xảy ra, cố gắng “tập trung mọi ý nghĩ vào một điểm”. Đoạn kết của câu chuyện được đặt thành đoạn mở đầu đã xác định cấu trúc vòng tròn của truyện ngắn. Đó là kiểu “truyện ngắn xoáy trôn ốc”, các đường xoáy của nó tách ra dần điểm xuất phát nhưng điểm gỡ nút ở cuối đường xoáy lại được đặt ngay lên phần đầu. Chương đầu tiên có tên gọi: “Tôi là ai và nàng là ai”. Nhà văn bắt đầu đưa người đọc dõi theo tiểu sử của nhân vật nữ chính trong truyện, số phận bất hạnh của cô cùng tính cách của một tâm hồn non trẻ bị xúc phạm và đè nén trước những bước đi thô bạo của cuộc đời. Mồ côi cha mẹ từ năm mười hai tuổi, cô phải sống trong sự ghẻ lạnh của hai bà dì và gần như trở thành nô lệ cho họ. “Chẳng có tội gì họ cũng đánh đập nàng, cũng đem miếng cơm, manh áo ra mà chửi nàng. Kết cục là họ có ý định đem bán nàng đi”. Thế là Crôtcaia lúc bấy giờ sắp bước sang tuổi mười sáu phải tìm mọi cách thoát thân bằng việc đăng báo tìm việc làm hoặc chốn nuôi ăn. Để có tiền trả công quảng cáo, cô đã phải đem đến tiệm cầm đồ những vật rẻ tiền của cha mẹ: một đôi hoa tai bạc mạ vàng, một cái huy chương bong nước mạ, một viên đá chạm, bức tượng thánh cổ có cái khung bằng bạc… Trong những thứ đó, bức tranh thánh là một hình ảnh nghệ thuật đầy sức ám ảnh mà chúng ta sẽ thấy trong phần cuối cùng của vở bi kịch và đóng vai trò quyết định trong việc hình thành ý đồ sáng tác của Dostoevsky. Đan lồng với câu chuyện số phận của nhân vật nữ là câu chuyện tiểu sử của ông chủ hiệu cầm đồ – sau này là chồng của cô và là người kể lại toàn bộ tấn bi kịch. Đó là một người đã luống tuổi, nghiêm nghị và lãnh đạm với mọi người. Ông ta bị đuổi khỏi trung đoàn và bị sỉ nhục là hèn nhát, không dám nhận lời thách đấu với kẻ thù đã nói xấu cấp trên của mình. Nhưng bản thân ông ta không chấp nhận sự xúc phạm này, dũng cảm coi thường dư luận và sự kết tội bạo ngược. Thế là “từ một người cao thượng ông ta trở thành một người cho vay nặng lãi”. Toàn bộ không gian câu chuyện đều dành hết cho hai nhân vật này. Mặc dù kết cấu của truyện ngắn là tính cô đọng nhưng hai nhân vật này đều được miêu tả khá cặn kẽ qua bút pháp của nhà văn. Như một nghệ sĩ nhiếp ảnh bậc thầy, Dostoevsky nắm bắt những khoảnh khắc đáng ghi nhớ ở nhân vật, làm sống động những vẻ đẹp chợt hiện ra. Ông đặc biệt chú ý đễn những biểu hiện đa dạng trên nét mặt con người, bởi “chỉ trong những khoảnh khắc hiếm hoi, nét mặt con người mới thể hiện rõ đặc điểm cơ bản của mình” (tiểu thuyết ” Đầu xanh tuổi trẻ”). Trên nét mặt Crôcaia thể hiện một nỗi u uẩn, sự kinh ngạc nhiều khi thành hãi hùng trước những cơn bão tham tàn của cuộc đời và cả sự cao thượng của một tâm hồn thơ trẻ. Vóc dáng bề ngoài của cô không quá đặc biệt nhưng vẫn gây chú ý và thiện cảm tới người đọc: vóc người mảnh dẻ, tóc vàng, đôi mắt màu xanh, to đẹp, và trầm ngâm. Cái nhìn nhiều khi nghiêm khắc và nụ cười luôn chứa đựng hoài nghi. Toàn bộ con người Crôtcaia cho tôi cái cảm giác về một sự lắng đọng và chưa định hình của đường nét. Nó giống như bức tranh vừa được phác thảo bằng bút chì. Bên cạnh đó, chân dung tự họa của nhân vật kể chuyện giúp ta hình dung rõ nét hơn mặc dù chỉ là những nét khái quát: đó là một sĩ quan về hưu của một trung đoàn lừng danh, một người có vóc dáng cân đối, cao đẹp và có học thức. Cái nút lãng mạn của câu chuyện mà từ đó tấn bi kịch xảy ra chính là mối quan hệ của người cho vay nặng lãi với cô gái nghèo đáng thương. Cô gái lấy người cho vay nặng lãi. “Thực ra cô ta chẳng biết nhờ cậy vào ai”. Cái ý nghĩ “năm nay tôi bốn mươi mốt tuổi còn nàng vừa đến tuổi mười sáu” đã mê hoặc người kể chuyện – “đó là cảm giác không cân đối, ngọt ngào quá, ngọt ngào quá”. Thế nhưng thực tế, cuộc sống vợ chồng của họ thì ra sao? Có ngọt ngào không? Chính trong lúc bắt đầu một cuộc sống mới với người vợ trẻ, ông ta đòi hỏi một tình cảm lớn, phác thảo những suy nghĩ, mở ra những ý định và những dự kiến thầm kín. Ông ta “tạo ra cả một hệ thống”, một sự nghiêm khắc, giá lạnh, kìm hãm niềm hăng say của tuổi trẻ, một quá trình tính toán nhưng điều độ, lịch thiệp nhưng hết sức tiết kiệm. Và điều quan trọng nhất chính là sự tiết kiệm, ông ta cần có ba chục ngàn để đến sống vĩnh viễn ở Crưm. Tuy nhiên, câu chuyện về cuộc sống vợ chồng của họ tự nó “đi bước đầu tiên”. Một sự im lặng bao trùm, một sự lạnh lung khó hiểu, ngoài những cơn cãi cọ thì giữa họ là một khoảng lặng. “Nổi loạn và độc lập” – đó là những gì bắt đầu manh nha trong tâm tính Crôtcaia, “nàng phản kháng không phải là sự nghèo khổ, mà dường như là tính tằn tiện trong việc tiết kiệm” của chồng. Mối bất hòa của họ tăng lên khi nàng đột nhiên nghĩ ra cách trả tiền theo cách riêng của mình, đánh giá các đồ gửi cao hơn giá trị và đã không được sự chấp nhận của chồng, vốn là người tiết kiệm và ghét thói xa xỉ. Thế là Crôtcaia nổi loạn. Dostoevsky đặt tiêu đề cho chương này là “Người đàn bà nhẫn nhịn vùng lên”. Cô ta quyết định trả thù người làm ơn nhưng cũng là người làm khổ cô ta. Để trả thù, cô tìm đến người bạn cũ của chồng, viên sĩ quan Ephimovich, kẻ khởi xướng việc đuổi chồng cô ra khỏi trung đoàn và đã hẹn hò với hắn ta. Nhưng ngay trong buổi hẹn hò đầu tiên của họ, người chồng đã theo dõi họ từ gian phòng bên cạnh với khẩu súng lục trong túi. Dostoevsky đã diễn tả một cách ngắn gọn và hàm súc cuộc gặp gỡ này như một đoạn phim ngắn. Nhân vật nữ “trong phim” đã tạo ra cao trào khi chính cô đã tỏ ra là một người cao thượng, một kẻ vô tội, “cơn thịnh nộ làm cho trái tim nàng thốt ra những lời cay độc” trước tên Ephimovich. Điều này đã khiến người chồng tin tưởng vào sự trong sạch của nàng. Anh ta phá ngang vở kịch bằng cách mở tung cửa và đưa Crôtcaica đi. Thế nhưng, bi kịch lại nối tiếp bi kịch, một xung đột mới tiếp ngay sau sự kết thúc của xung đột trước. Đỉnh điểm của câu chuyện bắt đầu khi người thiếu phụ trẻ dí mũi súng vào thái dương người chồng đang ngủ. Nhưng thực ra ông ta không hề ngủ. Ông ta biết hết chuyện gì đang diễn ra. “tôi nghe thấy tất cả, mặc dù lúc đó là thứ im lặng chết chóc, nhưng tôi nghe thấy thứ im lặng đó”. Mắt họ đã giao nhau chính trong khoảng khắc chết người đó. Một hành động co giật đã khiến ông ta mở mắt và bốn mắt họ gặp nhau. Tại sao ông ta không chống cự lại? “Cuộc sống của tôi còn để làm gì nữa sau khi con người mà tôi say đắm đã nâng khẩu súng chĩa vào tôi?”. Hóa ra ở thẳm sâu tâm hồn người cho vay nặng lãi nghiêm khắc và lãnh đạm này vẫn ẩn giấu một tình cảm lớn lao, câm lặng và vô vọng. Dostoevsky đã tạo dựng một tấn bi kịch nghẹt thở ngay ở điểm trung tâm của câu chuyện. Một bước ngoặt bất ngờ của một mưu đồ đã được vẽ ra nhưng mờ khuất trong cuộc khủng hoảng sâu sắc của những biến động nội tâm. Và từ đây, câu chuyện đột ngột rẽ sang một hướng khác. Đúng hơn là rơi vào một khoảng ngưng dài mà tính kịch của nó chỉ tiếp tục khi có sự bột phát và chấn động mới ở tâm hồn nhân vật. Phần thứ nhất của câu chuyện dừng lại ở cuộc ly hôn giữa đôi vợ chồng trẻ. “Cô ta đã thắng nhưng không được tha thứ”. “Yêu đời vì đời, và mơ mộng vì tình yêu thực tại“, làm khổ mình vì mình và yêu thương kẻ khác cũng vì mình, nhân vật của Dostoevsky nhiều khi khiến chúng ta không thể hiểu nổi. Họ hiền hậu, vô tâm, lãnh đạm, hoặc ác nghiệt chăng? Không hoàn toàn! “Họ là những người của sự bắt đầu lại“(Xvaig). Họ luôn bị kích động và rối loạn. Họ như đến từ thế giới khác, họ thờ ơ với tất cả, coi khinh tất cả và chẳng trông mong điều gì. Dường như Dostoevsky đã không thể như các nhà văn khác ( Dicken chẳng hạn) chỉ ra cho các nhân vật của mình cái thi vị dưới lớp tro của cuộc sống hàng ngày đơn điệu và bắt họ hãy an lạc trong chính bản thân mình. Các nhân vật của ông thường hay nổi loạn, “ý chí của họ phủ nhận cõi hạ giới này và ngang nhiên bất bình với cuộc đời trước mắt” và điều đáng sợ hơn là họ chối bỏ những gì là thân thiết với mình, sẵn sang bùng cháy như một ngọn lửa. Ở hai nhân vật chính của câu chuyện này, ta có cảm giác niềm căm phẫn luôn giống tình yêu và tình yêu luôn giống niềm căm phẫn. Với họ, mỗi oán thán là một lỗi lầm, và mỗi nhún nhường là một biểu hiện yếu đuối. Họ ngấm ngầm đối đầu nhau, không ai phục ai, không ai nhường ai. Tuy nhiên, cuộc giằng co này đã bị phá vỡ ở phần tiếp của câu chuyện trong một xung đột tâm lý mới. Đỉnh điểm của tấn bi kịch sẽ hòa lẫn với đoạn kết của nó. Tình yêu của người chồng đối với Crôtcaia là sự căm phẫn đã được biến đổi, là lòng thương hại chuyển hóa từ nỗi khỉnh bỉ, là sự hờn dỗi, báo thù, hành hạ, song xen vào tất cả, có một thứ tình cảm ấm nóng nguyên sơ, một tình yêu say đắm chân thành vẫn luôn im lìm, ấp ủ nhựa sống bên trong con người ông ta. Chính hạt giống tinh thần ấy đã đánh vỡ sự lạnh lùng đông cứng trong tâm hồn người cho vay nặng lãi. Ông ta “không thể kìm hãm cơn hào hứng đã sôi động trong trái tim”, “toàn bộ con người tôi xốn xang và thế là tôi té xỉu dưới chân nàng. Đúng là tôi đổ vật vào chân nàng. Nàng đứng phắt dậy, nhưng tôi đã huy động một sức mạnh phi thường dang cả hai tay ôm chặt nàng lại”. Hành động của người chồng là biểu hiện “đầy say mê đến mức độ đau khổ” những cơn dằn vặt đầy ẩn ức đã chất chứa trong lòng ông bấy lâu. Ông ta cứ nhắc đi nhắc lại từng phút một: “anh sẽ không đòi hỏi bất cứ điều gì nơi em, em không phải trả lời anh bất cứ câu gì, em hoàn toàn không phải để mắt đến anh, chỉ cần cho anh được đứng nơi góc nhà nhìn em là đủ, em hãy biến anh thành một thứ đồ vật, thành một con chó con của em”. Rồi ông ta rủ cô đi về miền Nam, đi Pháp, “mà cái chủ yếu là phải đi Bulônnhơ, đi Bulônhơ!”. Ông ta tin rằng Bulônnhơ là tất cả, rằng ở đấy sẽ có một cái gì kết thúc trọn vẹn, và “tình hình sẽ khác hẳn“. Thế nhưng chính trong cái thời điểm ông ta đang cao hứng, đang tràn trề hi vọng, đang tin tưởng một cách nhiệt thành rằng “màn khói sắp rơi xuống” thì tai họa cuối cùng chín muồi, mọi thứ đột nhiên sụp đổ. Cơn bộc phát nội tâm và niềm say mê muộn màng của người chồng đã chẳng đem đến một tia sáng nào. Crôtcaia đã từ chối những tình cảm mãnh liệt đến với mình. Nàng cầm trong tay vật thiêng liêng – bức tranh thánh mà cha mẹ để lại – nhảy qua cửa sổ giữa đôi tay giang rộng của Thần chết. Vụ tự tử này nằm trong sự tương phản nội tại của sự kiện, sự kết hợp bất thường giữa nỗi tuyệt vọng và niềm tin, giữa hủy diệt và cơ hội phục sinh, giữa cái chết và tình yêu. Cái kết cục bi kịch đã tháo tung ra mọi quan hệ thầm kín và rắc rối. Người chồng gắng sức biện bạch bằng sự ngẫu nhiên. Chính điều này là lý do mà ngay từ sự xuất hiện ban đầu, ông ta đã đem lại cho tôi ấn tượng về sự ngu dại. Tuy nhiên, sau đó tôi phải thay đổi ngay cách nhìn của mình, chính sự ngẫu nhiên cay đắng đã đẩy ông ta vào cơn đau khổ cùng cực, khiến cho tâm hồn ông ta bị vỡ tung ra thành nhiều mảnh. “Điều chủ yếu, điều đáng giận là tất cả những chuyện ấy lại là ngẫu nhiên, một thứ ngẫu nhiên đơn giản, dã man và hủ lậu!”. Ông ta gào lên: “Ôi man rợ, man rợ! Vô lý! Không có lẽ! Không thể thế được!” Sự trùng hợp quái ác nào đây, cơn điên loạn cùng cực nào đây, địa ngục tăm tối nào đây, lỗi lầm mù quáng nào đây? Hay tất cả chỉ là trò chơi tàn nhẫn của định mệnh, là sự trêu cợt cố ý của tạo hóa? Nhân vật gần như phát điên, ông ta đang trong sự đày ải của ý thức, trong những đau khổ giằng xé, trong những cơn sốt, những cơn co thắt. Kẻ cô đơn giờ đây đã mất hết mọi thứ, ông ta chẳng còn thiết tới những luật lệ nữa, tự nguyện dứt bỏ mọi quy luật của cuộc sống. “Người ta bảo rằng mặt trời làm sống dậy vũ trụ. Bao giờ mặt trời mọc lên, các vị thử nhìn mà xem, đó chẳng phải là một xác chết hay sao? Tất cả đều chết, khắp nơi là những xác chết”. Đối với con người đang vấp phải những chấn động dữ dội trong tinh thần thì mọi cái đều đã tiêu ma. Còn gì níu kéo nữa đâu? Thiên nhiên, tín ngưỡng, đạo đức, tình yêu, lòng vị tha…? Cái gì có thể lấp đầy sự trống rỗng của tâm hồn ta khi người con gái ta yêu đã rời bỏ ta, rồi ta sẽ ra sao? Ta đã chết niềm tin vào cuộc sống với những nguyên tắc và quy luật của nó, ta còn có thể làm gì đây, còn có thể làm gì khi chính chúng đã xúc phạm ta??? Có thể nói,”Crôtcaia” là một mẫu mực xuất sắc về độc thoại nội tâm của Dostoevsky. Thông qua quá trình nhận thức mọi biến cố đã xảy ra bằng cách “cố gắng tập trung mọi ý nghĩ vào một điểm” và cách lập luận, suy nghĩ biện chứng phức tạp của người kể chuyện, nhà văn đã ghi lại tư tưởng hỗn loạn, tuyệt vọng của con người đau khổ khiếp sợ trước sự cô độc của mình. Ở đây có một cái gì thầm lặng và khó đoán định. Một cái gì gần như là chân lý. Sự khủng hoảng thế giới quan, những chấn động tư tưởng và sự sụp đổ tinh thần phải chăng là tấn bi kịch muôn đời của con người? Muốn viết được một câu chuyện có sức hấp dẫn nghệ thuật đặc biệt, nhà văn “cần phải dự trữ một hoặc một vài ấn tượng mạnh mẽ mà con tim tác giả đã thể nghiệm thực sự” (Dostoevsky). Tất cả những gì được truyền tải qua các hình tượng nghệ thuật đều mang trên mình nó dấu ấn những xúc động, tình cảm, khát vọng của nhà văn, những cơn “lắng đọng trong câm lặng” và cả “những giây phút hào hển của những khoảnh khắc bi tráng”. Nhà văn phải hóa thân thành hình tượng đã tưởng tượng ra. Điều này không hề dễ dàng. Ở tác phẩm này, Dostoevsky đã phải hóa thân vào hai nhân vật, khi là cô gái nhu mỳ mười sáu tuổi với tâm lý thơ trẻ, với những cơn bộc phát cảm xúc, thốt nhiên bừng giận, thốt nhiên hổ thẹn, khi thì trở thành người đàn ông cho vay nặng lãi với những cơn kịch biến trong tư tưởng và tâm hồn. Trong những lần hóa thân ấy, cái được nhận thức và cái được thể nghiệm đã kết thành một hợp chất hữu cơ. Tuy nhiên, phạm vi của cái được nhận thức và chiều sâu của cái được thể nghiệm nhiều khi không hề trùng khớp với nhau. Chính điều này đã tạo nên vẻ bí mật cho các nhân vật của Dostoevsky mà chính ông cũng không thể lường hết được rốt ráo cái chiều kích khôn lường của tâm hồn nhân vật và chụp cho nó cái khung. Bóng dáng của chúng không phải khoan thai bước từng bước vững chãi trên “đại lộ của đời thương” mà chập chờn trong cuộc dấn thân miên man vào “mê lộ của cái khác thường”, trong bóng tối, ảo giác, với những nỗi ám ảnh, những cơn khô kiệt, những cuộc hủy diệt, nổi dậy, tan rã. Ở Crôtcaia và người đàn ông cho vay nặng lãi, chúng ta nhìn thấy một sự bùng cháy bên trong, sự bùng cháy tưởng như có thể đè nát ý thức nhân vật và ở đỉnh điểm của nó có khả năng đưa đến nỗi đau khổ vô bờ bến. Mọi thể chế, quy phạm của truyện ngắn cổ điển dường như đánh mất mình ngay trong tác phẩm này của Dostoevsky. Ông đã đặt toàn bộ cuộc đời con người vào hình thức nhỏ bé của truyện ngắn, chỉ ra ranh giới giữa vĩnh cửu và thân xác phù sinh của họ, thông qua những mâu thuẫn, giằng xé để đi đến đường biên tột cùng của sự nổi loạn. Và tất cả được thể hiện bằng những phương pháp và nguyên tắc sáng tạo cao nhất của nhà văn. “Crôtcaia” đã đem đến cho tôi nhiều suy nghĩ mới mẻ, nhiều ấn tượng lạ lẫm về cuộc sống và chiều sâu thế giới tinh thần con người. Tác phẩm đã không cho phép tôi quên tình cảm cao thượng của sự nhún nhường, những đày ải của sự câm lặng và nỗi đau có thể đến từ những điều ta không thể ngờ. Có lẽ chưa từng có truyện ngắn nào khiến tôi phải thổn thức nhường ấy, nào biết đó là nỗi thổn thức của riêng tôi hay là nỗi thổn thức của cả cuộc sống đây…? (24/01/2013) *** Dostoievski: tiếp tục Ngập ngừng, tôi định viết tiếp bài ở kia, rồi tôi lại thôi, chờ đợi tiếp. Chờ đợi cái gì thì tôi không rõ. Cuốn tiểu thuyết Thằng ngốc là một trong những gì gây choáng ngợp nhất mà Dostoievski từng viết, sự choáng ngợp bắt đầu từ dòng đầu tiên, khi đoàn tàu hỏa từ hướng Vacsava bắt đầu chạy vào địa phận Saint-Petersburg. Một cuốn tiểu thuyết Nga khác cũng mở đầu bằng đoàn tàu: Anna Karenina, nhưng tất nhiên cuốn sách ấy rất khác so với Thằng ngốc. Dostoievski đã đọc, dường như rất kỹ, Anna Karenina, và có ghi lại vài điều; chưa bao giờ Dostoievski và Tolstoy gặp nhau: họ từ chối gặp nhau. Tôi cũng ngập ngừng, sau ba tập sách dày (xem ở kia), tức là đến 1864, mãi không quyết định được là có tiếp tục không. Nếu tiếp tục, thì tức là sau (ngay sau) Balzac, tôi sẽ đọc (trong đó một số là đọc lại, nhưng cũng có những thứ lần đầu tiên đọc: điều này rất quan trọng, tôi sẽ còn trở lại sau) hết sạch Dostoievski. Nếu "theo" các bản dịch của André Markowitz, cụ thể là theo ấn bản trong tủ "Thesaurus" của nhà xuất bản Actes Sud, thì tổng cộng có năm tập to; sau khi xơi tái xong ba tập đầu, tôi đã đi đến quá nửa. Tôi ngập ngừng rất lâu (lâu hơn "mức bình thường" của tôi nhiều). Vả lại, vì trước đó tôi đã đọc "lẻ" Karamazov (trong ấn bản cũng của Actes Sud nhưng không thuộc hệ thống năm tập "Thesaurus") nên thành thử tôi đã đi xong đoạn đầu và cuốn tiểu thuyết lớn nhất của đoạn cuối: ta nhớ Karamazov in năm 1880, đó chính là tác phẩm lớn cuối cùng của Dostoievski, sau đó chỉ còn một "đít cua", một bài phát biểu về Pushkin nữa, rồi Dostoievski chết. Cuối cùng, tôi cũng quyết định. Tôi quyết định nhảy xuống nước. Tôi đọc (lần này, vẫn là đọc lại) cuốn tiểu thuyết lớn ngay trước Karamazov: Trong tiếng Việt, tác phẩm này hay được gọi là Đầu xanh tuổi trẻ. Đây là cả một sự kinh dị lớn lao. L'Adolescent (Đứa thiếu niên) là một niềm kinh dị. Đọc lại nó, tôi bắt đầu hiểu tại sao tôi (từng) ngập ngừng đến thế. Tôi đã dự cảm được, ở lần đọc lại cuốn tiểu thuyết này, tôi sẽ thấy. Thấy gì? Đứa thiếu niên là một sự hội tụ của một điều rất quan trọng. Điều này liên quan đến cả Dostoievski lẫn độc giả siêu hạng nhất của Dostoievski: Bakhtine. Đứa thiếu niên (1874-1875) cho thấy một điều đối với tôi đã tường minh hơn bao giờ hết: thời điểm viết cuốn tiểu thuyết này, Dostoievski đã nhìn thấy. Đã nhìn thấy điều then chốt nhất, chính là điều làm cho Dostoievski trở nên quan trọng như vậy (tôi muốn nói: gây phiền nhiễu lớn đến vậy; bởi vì không nhà văn nào gây nhiều trắc trở cho đọc như Dostoievski; đọc Dostoievski chính xác là độ không của đọc: tôi nghĩ là tôi nhìn thấy một điều rất quan trọng, có biểu nghĩa rất lớn, ở việc trong suốt cuộc đời Roland Barthes hết sức tránh nhắc đến Dostoievski; bởi vì phải tránh thôi). Tôi hình dung Bakhtine cũng nhìn thấy như vậy; nói đúng hơn, Bakhtine đã theo chuyển động của Dostoievski (chuyển động thuộc loại khó hình dung nhất - chính vì vậy văn chương Dostoievski gây phiền nhiễu khủng khiếp đến vậy) và đến chỗ chuyển động trở nên tường minh, nói ngắn gọn, đến chỗ chuyển động chạm đến cấu trúc. Những điều tôi vừa nói chắc chắn trông có vẻ trừu tượng (nhưng cả ở đây, tôi cũng thấy chúng hết sức cụ thể), tôi sẽ còn quay lại, một cách kỹ càng: cụ thể hơn nữa, tôi sẽ dựng lại câu chuyện Bakhtine đọc Dostoievski. Bakhtine đã nhìn thấy gì? Đứa thiếu niên, trước hết, là khi Dostoievski nghịch với một điều: sự trùng tên. Ai từng đọc cuốn sách này còn nhớ thằng bé nhân vật chính khi đi học rất khốn khổ vì trên giấy tờ nó mang họ "Dolgorouki" tức là giống họ một gia đình "ông hoàng" cực kỳ danh giá; không một ai không hỏi nó có phải là "prince" hay không, nhưng về danh nghĩa nó lại là con của một cựu nông nô (mặc dù sự thật thì nó là con một người danh giá hơn nhiều, Versilov). Chưa hết, Dostoievski còn tạo ra hai gia đình cùng là "prince" nhưng hoàn toàn không liên quan gì đến nhau, và đều có họ Sokolski. A, nhưng tại sao lại có lắm "prince" như thế? Ta nhớ, nhân vật chính của Thằng ngốc cũng chính là một "prince", và các "prince" xuất hiện ở khắp mọi nơi trong (gần như) mọi tác phẩm của Dostoievski. Đó là vì xã hội Nga hồi đó rất nhiều "prince". Tôi đã phải đọc hàng đống thứ để cố tìm hiểu tại sao lại có lắm "prince" Nga như vậy; ở một khía cạnh khác, một nhân vật trong Karamazov (chuyện "một nhân vật" là hết sức quan trọng, tôi sẽ còn quay trở lại) cũng phát biểu đầy khinh miệt rằng người Ba Lan quái nào cũng là "bá tước" hết: điều này rất đúng: trong một câu chuyện của Balzac nhân vật chính là một quý tộc Ba Lan, Laginski, và đó cũng là một bá tước (xem ở kia). Tôi nhắc ngay đến Balzac là vì Đứa thiếu niên, trong mắt tôi, là cuốn tiểu thuyết rất Pháp (cuốn tiểu thuyết "rất Anh" của Dostoievski, chắc nhiều người biết, là Những kẻ tủi nhục); thậm chí tôi còn nghĩ là tôi thấy âm hưởng Balzac trong Đứa thiếu niên: một nhân vật phụ, bạn học của thằng bé nhân vật chính tên là Lambert, một học sinh, và tên là Lambert, đương nhiên ta nghĩ đến Louis Lambert của Balzac, không những thế, trường mà bọn trẻ con theo học trong Đứa thiếu niên tuy ở Nga nhưng lại là trường của một người Pháp, Touchard; nếu điều tôi vừa nói là "quá yếu" thì vẫn còn một điều nữa tuyệt đối không thể chối cãi: Đứa thiếu niên có (một trong những) chủ đề chính là chủ đề không thể balzacien hơn: tiền. Nói thêm về sự trùng tên: suýt thì ta còn có thêm một sự trùng tên quái đản nữa, nếu nhân vật (phụ) Akhmakova được Dostoievski viết thành (Anna) Akhmatova. Nhảy xuống nước rồi, tôi thấy không có lý do gì để không tiếp tục. Dưới đây là một tác phẩm ngắn, nó nằm xen vào giữa Đứa thiếu niên và Karamazov: Mời các bạn đón đọc Đầu Xanh Tuổi Trẻ của tác giả Dostoievski.