Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sô Cô La Chạy Trốn - Dorothy Koomson

Sô-cô-la chạy trốn không phải là một câu chuyện cổ tích, nữ chính gặp nam chính rồi yêu nhau say đắm mà ở đó có sự đấu tranh, giằng xé trong tư tưởng một thời gian để đến với nhau. Tác giả đã xây dựng các nhân vật rất thực, có ưu, khuyết điểm, chẳng ai hoàn hảo cả, họ có thể mắc những sai lầm lớn vì không vượt qua được nỗi sợ hãi của mình cũng như chính bản thân mình.  Đôi khi, bạn đọc bắt gặp hình ảnh của mình trong câu chuyện, bởi chúng ta từng chạy trốn trong hành trình của cuộc đời. Bởi chạy trốn bao giờ cũng dễ dàng hơn nhiều so với việc chạm đến và cảm nhận. Nhiều lúc bạn không dám yêu vì sợ bị phản bội, không dám thử bay lên cao vì sợ cảm giác rơi xuống đất, không dám nói vì sợ bị từ chối…  Đọc xong cuốn sách, chúng ta nhận ra rằng chạy trốn không bao giờ là giải pháp cho mọi chuyện. Chạy trốn chỉ giúp bạn an toàn trong nhất thời nhưng bạn sẽ không bao giờ biết được cảm giác khi được làm một điều gì đó trọn vẹn. Mà chúng ta “hãy chấp nhận nỗi đau và xem mọi thứ có thể lấp lánh đến thế nào khi em nhìn nó từ phía khác!” như lời khuyên của anh trai Amber dành cho cô. *** Mày đang trôi trên một biển sô-cô-la. Sô-cô-la ấm, ngọt, đầy khoái cảm... sô-cô-la êm ái, mượt mà, dìu dịu. Biển sô-cô-la vỗ lên thân thể mệt mỏi, trần truồng của ta. Trùm phủ. Vuốt ve. Mang đi mọi đau đớn và âu lo. Mọi thứ, thế giới, thực tại, con người, đều đã được xô hết đi bằng biển sô-cô-la dập dìu trên da thịt. Yên bình, nhẹ... “Anh... ờ, đi nhé.” Nghe chẳng giống miền cực lạc sô-cô-la của mình tí nào. Tôi hé mở một bên mắt ngái ngủ, kiểm tra xung quanh. Ồ. Hóa ra không phải tôi đang trôi trên một đại dương kem sữa gốc ca cao nào cả. Mà sự thật là tôi đang gập người trên sofa, chân co tận ngực, trán tựa đầu gối, chiếc áo choàng tắm màu trắng sữa quấn quanh mình trần. Chẳng cần gương cũng biết mặt tôi đang dúm dó vì thiếu ngủ; đôi mắt đen nâu còn đầy vết ngủ nghê; và mái tóc đen dài tới cằm vốn gọn gàng giờ bù xù trông như gai với tua, chẳng khác gì một tượng sắt kiểu Gothic. Không, có cố cũng không thể xa thiên đường hơn thế này được nữa đâu. Nhất là khi có một tên đàn ông đang đứng trong phòng khách của tôi và lèm bèm chuyện đi với ở. Như một ả đang tiến gần giá treo cổ, tôi nhỏm đầu dậy và quay sang nhìn hắn. Greg đã quần áo chỉnh tề: áo chui đầu xanh sẫm, rộng thùng thình bên dưới một áo khoác dài tới gối. Quần jeans xanh. Túi màu đen đeo trên người. Đã mặc quần áo. Đầy đủ. Ngạc nhiên gì chứ? Nếu hắn sắp đi, chả lẽ lại mặc quần lót đứng đó? Greg cũng nhìn tôi, rõ ràng đang đợi tôi mở miệng. Đáp lại tuyên bố ở đi của hắn. Tôi câu giờ bằng cách hạ chân xuống, cẩn thận không thể hở thứ gì dưới lớp áo choàng, rồi tôi bắt đầu nghịch một cái gai tóc trên đầu, xoắn nó quanh ngón trỏ trong lúc cố tiếp xúc bằng mắt mà không phải nhìn vào Greg. Tôi phải xử lý sao đây? Lâu lắm tôi mới phải làm việc này, tôi quên xừ mất phải làm sao rồi? Nên tỏ ra tự nhiên chăng? Hay chán chường? Quan tâm? Nghiêm túc? Tuyệt vọng? Rồi còn màn phát biểu nữa. Tôi phải nói gì? “Chào nha, cảm ơn đã ngủ với em?” hay “Biến đi và đừng bao giờ bén mảng đến phòng ngủ của tôi nữa?” Rồi còn bữa sáng thì sao? Tôi khá chắc chắn là nên mời ăn sáng. Nhưng mà thế thì phải mất thêm cả tiếng đồng hồ nữa. Chắc hắn chẳng muốn kéo dài thêm vụ này bằng bữa sáng đâu nhỉ. Hay là có? Nhưng nếu hắn bỏ đi bây giờ thì đến thứ Hai tôi biết phải làm sao? Bọn tôi sẽ xử sự ra sao nếu cứ để mọi thứ lửng lơ trong không khí thế này? Quá nhiều câu hỏi cần trả lời đến nỗi tôi nghĩ nhẽ phải có người viết một quyển sách hướng dẫn cách hành xử trong những trường hợp thế này ấy chứ, nhờ? Một quyển Hướng dẫn nhỏ cho Những Sai lầm lớn hay gì đó. Đảm bảo kiếm bộn tiền. Có lẽ tôi nên thỏa hiệp. Không ăn sáng, cũng không chỉ ra cửa... Taxi! Tôi sẽ “đãi” hắn taxi về nhà. Nếu tôi làm thế, hắn sẽ còn lẩn quẩn ở đây đủ lâu để một trong hai đứa bật ra câu “Chuyện này chưa bao giờ xảy ra, OK?” Rồi chúng tôi sẽ cũng đồng ý không bao giờ nhắc lại nữa. Không bao giờ. Và rồi hắn sẽ cư xử đúng mực và bỏ về. Tôi hắng giọng, cố buộc mình phải nhìn vào mắt Greg. Lọn tóc quấn quanh ngón trỏ của tôi chặt đến đau tức. “Anh có muốn em gọi anh một cái taxi?” Tôi hỏi, giọng nhẹ nhàng và bình thản. Chẳng ai biết thật ra tôi đang khó thở, và sẽ còn tiếp tục khó thở cả sau khi hắn đi. “Không, anh cứ thế đi thôi. Đi khỏi đây thôi,” Greg trả lời nhưng không rục rịch. “Anh chắc chứ?” tôi khăng khăng. Hắn gật đầu và vẫn không cử động, rõ là không biết phải cử động làm sao. “Thật đấy, chả ngại gì đâu,” tôi nói. “Anh cứ đứng đó, em chỉ vào anh và bảo ‘Anh là một cái taxi.’ Dễ mà. Em làm vậy suốt.” Hắn chỉ đứng đó nhìn tôi chằm chằm. Tôi cũng nhìn hắn chằm chằm. Ừ thì ăn sáng vậy! ... Mời các bạn đón đọc Sô Cô La Chạy Trốn của tác giả Dorothy Koomson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Quỷ Phong Lưu
... Ai ở Sài Gòn lâu năm, hẳn nhớ cái khoảng nằm giữa hai đầu dduongf Catinat và Charner, ngó ngau mặt bến tàu Nam Vang, trước kia làm gì có tòa nhà hùng tráng tối tân của chú Hòa dựng lên, làm đại khách sạn Mejectic, như ta trông thấy bây giờ. Mười lăm năm về trước, chỗ ấy là mấy căn phố lầu kiểu xưa, gần đến tuổi khai tử, chú Hòa cho mấy hãng mướn làm kho chứ hàng, tối đến cảnh tượng tối tăm, tiều tụy. *** Đào Trinh Nhất (1900-1951), tự Quán Chi, là nhà nhà văn, nhà báo Việt Nam giữa thế kỷ 20. Khi viết văn, viết báo, ông ký nhiều bút hiệu: Nam Chúc, Viên Nạp, Hậu Đình, Tinh Vệ, Bất Nghị, Vô Nhị, Hồng Phong, Anh Đào, XYZ.... Ông được người trong giới cầm bút đánh giá là người có cách làm việc nghiêm túc, thận trọng và là người đã biết dùng ngòi bút nghệ thuật làm sống lại nhiều tư liệu đã mai một trong lịch sử cận đại Việt Nam Đào Trinh Nhất sinh năm Canh Tý (1900) tại Huế. Nguyên quán tại xã Thượng Phán, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Ông là con trưởng Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng giáp) Đào Nguyên Phổ. Vợ là Lương Thị Hòa, con gái Lương Ngọc Quyến và là cháu nội Lương Văn Can. Thuở nhỏ, Đào Trinh Nhất theo học chữ Hán ở quê nhà, sau lên Hà Nội học chữ Pháp và chữ quốc ngữ. *** Tác phẩm: Vốn là nhà báo viết văn, cho nên hầu hết các tác phẩm của Đào Trinh Nhất đều đăng từng kỳ trên báo rồi sau mới in thành sách. Theo thống kê chưa đầy đủ, sau 30 năm cầm bút (1921-1951), ông đã để lại khá nhiều tác phẩm như sau: Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ.(Thụy Ký - Hà Nội, 1924) Đông Châu liệt quốc (dịch, Sài Gòn, 1928) Thần tiên kinh (Dịch của A lan Kardec, 1930) Cái án Cao Đài (Sài Gòn, 1929) Việt sử giai thoại (Hà Nội, 1934) Nước Nhựt Bổn ba mươi năm duy tân (Đắc Lập, Huế, 1936) Phan Đình Phùng, một vị anh hùng có quan hệ đến lịch sử hiện thời (Cao Xuân Hữu, Hải Phòng, 1936; Đại La, Hà Nội, tái bản 1945; Tân Việt, Sài Gòn, tái bản 1957) Việt Nam Tây thuộc sử (Đỗ Phương Huế, Chợ Lớn, 1937) Ðông Kinh nghĩa thục (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938) Ngục trung thư (Đời cách mạng Phan Bội Châu) (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938; Tân Việt, Sài Gòn tái bản, 1950) Vương An Thạch (Hà Nội, 1943; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1960) Cô Tư Hồng (tiểu thuyết, Trung Bắc Tân Văn Chủ nhật, 1940; Trung Bắc Thư xã, Hà Nội, 1941) Chu Tần tinh hoa (dịch, Hà Nội, 1944) Lê Văn Khôi (1941-1945) Con trời ngã xuống đất đen (Hà Nội, 1944) Chu Tần tinh hoa (1944) Vương Dương Minh-Người xướng ra học thuyết lương tri và tri hành hợp nhất (Hà Nội, 1944; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1950) Kẻ bán trời Con quỷ phong lưu Bùi Thị Xuân Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 (Quốc Dân thư xã, Hà Nội, 1946; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1957). Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, ông mới dịch được nửa bộ, đang đăng báo thì từ trần (Bốn Phương xuất bản, Sài Gòn, 1950) Mời các bạn đón đọc Con Quỷ Phong Lưu của tác giả Đào Trinh Nhất & Nguyễn Quang Thắng.
Đóng Cửa Dạy Chồng
Đào Trinh Nhất (1900-1951), tự Quán Chi, là nhà nhà văn, nhà báo Việt Nam giữa thế kỷ 20. Khi viết văn, viết báo, ông ký nhiều bút hiệu: Nam Chúc, Viên Nạp, Hậu Đình, Tinh Vệ, Bất Nghị, Vô Nhị, Hồng Phong, Anh Đào, XYZ.... Ông được người trong giới cầm bút đánh giá là người có cách làm việc nghiêm túc, thận trọng và là người đã biết dùng ngòi bút nghệ thuật làm sống lại nhiều tư liệu đã mai một trong lịch sử cận đại Việt Nam Đào Trinh Nhất sinh năm Canh Tý (1900) tại Huế. Nguyên quán tại xã Thượng Phán, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Ông là con trưởng Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng giáp) Đào Nguyên Phổ. Vợ là Lương Thị Hòa, con gái Lương Ngọc Quyến và là cháu nội Lương Văn Can. Thuở nhỏ, Đào Trinh Nhất theo học chữ Hán ở quê nhà, sau lên Hà Nội học chữ Pháp và chữ quốc ngữ. *** Tác phẩm: Vốn là nhà báo viết văn, cho nên hầu hết các tác phẩm của Đào Trinh Nhất đều đăng từng kỳ trên báo rồi sau mới in thành sách. Theo thống kê chưa đầy đủ, sau 30 năm cầm bút (1921-1951), ông đã để lại khá nhiều tác phẩm như sau: Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ.(Thụy Ký - Hà Nội, 1924) Đông Châu liệt quốc (dịch, Sài Gòn, 1928) Thần tiên kinh (Dịch của A lan Kardec, 1930) Cái án Cao Đài (Sài Gòn, 1929) Việt sử giai thoại (Hà Nội, 1934) Nước Nhựt Bổn ba mươi năm duy tân (Đắc Lập, Huế, 1936) Phan Đình Phùng, một vị anh hùng có quan hệ đến lịch sử hiện thời (Cao Xuân Hữu, Hải Phòng, 1936; Đại La, Hà Nội, tái bản 1945; Tân Việt, Sài Gòn, tái bản 1957) Việt Nam Tây thuộc sử (Đỗ Phương Huế, Chợ Lớn, 1937) Ðông Kinh nghĩa thục (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938) Ngục trung thư (Đời cách mạng Phan Bội Châu) (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938; Tân Việt, Sài Gòn tái bản, 1950) Vương An Thạch (Hà Nội, 1943; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1960) Cô Tư Hồng (tiểu thuyết, Trung Bắc Tân Văn Chủ nhật, 1940; Trung Bắc Thư xã, Hà Nội, 1941) Chu Tần tinh hoa (dịch, Hà Nội, 1944) Lê Văn Khôi (1941-1945) Con trời ngã xuống đất đen (Hà Nội, 1944) Chu Tần tinh hoa (1944) Vương Dương Minh-Người xướng ra học thuyết lương tri và tri hành hợp nhất (Hà Nội, 1944; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1950) Kẻ bán trời Con quỷ phong lưu Bùi Thị Xuân Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 (Quốc Dân thư xã, Hà Nội, 1946; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1957). Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, ông mới dịch được nửa bộ, đang đăng báo thì từ trần (Bốn Phương xuất bản, Sài Gòn, 1950) Mời các bạn đón đọc Việt Nam Tây Thuộc Sử của tác giả Đào Trinh Nhất & Nguyễn Quang Thắng.
Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2
Đào Trinh Nhất (1900-1951), tự Quán Chi, là nhà nhà văn, nhà báo Việt Nam giữa thế kỷ 20. Khi viết văn, viết báo, ông ký nhiều bút hiệu: Nam Chúc, Viên Nạp, Hậu Đình, Tinh Vệ, Bất Nghị, Vô Nhị, Hồng Phong, Anh Đào, XYZ.... Ông được người trong giới cầm bút đánh giá là người có cách làm việc nghiêm túc, thận trọng và là người đã biết dùng ngòi bút nghệ thuật làm sống lại nhiều tư liệu đã mai một trong lịch sử cận đại Việt Nam Đào Trinh Nhất sinh năm Canh Tý (1900) tại Huế. Nguyên quán tại xã Thượng Phán, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Ông là con trưởng Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng giáp) Đào Nguyên Phổ. Vợ là Lương Thị Hòa, con gái Lương Ngọc Quyến và là cháu nội Lương Văn Can. Thuở nhỏ, Đào Trinh Nhất theo học chữ Hán ở quê nhà, sau lên Hà Nội học chữ Pháp và chữ quốc ngữ. *** Tác phẩm: Vốn là nhà báo viết văn, cho nên hầu hết các tác phẩm của Đào Trinh Nhất đều đăng từng kỳ trên báo rồi sau mới in thành sách. Theo thống kê chưa đầy đủ, sau 30 năm cầm bút (1921-1951), ông đã để lại khá nhiều tác phẩm như sau: Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ.(Thụy Ký - Hà Nội, 1924) Đông Châu liệt quốc (dịch, Sài Gòn, 1928) Thần tiên kinh (Dịch của A lan Kardec, 1930) Cái án Cao Đài (Sài Gòn, 1929) Việt sử giai thoại (Hà Nội, 1934) Nước Nhựt Bổn ba mươi năm duy tân (Đắc Lập, Huế, 1936) Phan Đình Phùng, một vị anh hùng có quan hệ đến lịch sử hiện thời (Cao Xuân Hữu, Hải Phòng, 1936; Đại La, Hà Nội, tái bản 1945; Tân Việt, Sài Gòn, tái bản 1957) Việt Nam Tây thuộc sử (Đỗ Phương Huế, Chợ Lớn, 1937) Ðông Kinh nghĩa thục (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938) Ngục trung thư (Đời cách mạng Phan Bội Châu) (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938; Tân Việt, Sài Gòn tái bản, 1950) Vương An Thạch (Hà Nội, 1943; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1960) Cô Tư Hồng (tiểu thuyết, Trung Bắc Tân Văn Chủ nhật, 1940; Trung Bắc Thư xã, Hà Nội, 1941) Chu Tần tinh hoa (dịch, Hà Nội, 1944) Lê Văn Khôi (1941-1945) Con trời ngã xuống đất đen (Hà Nội, 1944) Chu Tần tinh hoa (1944) Vương Dương Minh-Người xướng ra học thuyết lương tri và tri hành hợp nhất (Hà Nội, 1944; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1950) Kẻ bán trời Con quỷ phong lưu Bùi Thị Xuân Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 (Quốc Dân thư xã, Hà Nội, 1946; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1957). Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, ông mới dịch được nửa bộ, đang đăng báo thì từ trần (Bốn Phương xuất bản, Sài Gòn, 1950) Đào Trinh Nhất Tác Phẩm gồm có: Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Lịch Sử Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Triết Học Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2 gồm có: Liêu Trai Chí Dị Lê Văn Khôi Mời các bạn đón đọc Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2 của tác giả Đào Trinh Nhất & Nguyễn Quang Thắng.
Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1
Đào Trinh Nhất (1900-1951), tự Quán Chi, là nhà nhà văn, nhà báo Việt Nam giữa thế kỷ 20. Khi viết văn, viết báo, ông ký nhiều bút hiệu: Nam Chúc, Viên Nạp, Hậu Đình, Tinh Vệ, Bất Nghị, Vô Nhị, Hồng Phong, Anh Đào, XYZ.... Ông được người trong giới cầm bút đánh giá là người có cách làm việc nghiêm túc, thận trọng và là người đã biết dùng ngòi bút nghệ thuật làm sống lại nhiều tư liệu đã mai một trong lịch sử cận đại Việt Nam Đào Trinh Nhất sinh năm Canh Tý (1900) tại Huế. Nguyên quán tại xã Thượng Phán, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Ông là con trưởng Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng giáp) Đào Nguyên Phổ. Vợ là Lương Thị Hòa, con gái Lương Ngọc Quyến và là cháu nội Lương Văn Can. Thuở nhỏ, Đào Trinh Nhất theo học chữ Hán ở quê nhà, sau lên Hà Nội học chữ Pháp và chữ quốc ngữ. *** Tác phẩm: Vốn là nhà báo viết văn, cho nên hầu hết các tác phẩm của Đào Trinh Nhất đều đăng từng kỳ trên báo rồi sau mới in thành sách. Theo thống kê chưa đầy đủ, sau 30 năm cầm bút (1921-1951), ông đã để lại khá nhiều tác phẩm như sau: Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ.(Thụy Ký - Hà Nội, 1924) Đông Châu liệt quốc (dịch, Sài Gòn, 1928) Thần tiên kinh (Dịch của A lan Kardec, 1930) Cái án Cao Đài (Sài Gòn, 1929) Việt sử giai thoại (Hà Nội, 1934) Nước Nhựt Bổn ba mươi năm duy tân (Đắc Lập, Huế, 1936) Phan Đình Phùng, một vị anh hùng có quan hệ đến lịch sử hiện thời (Cao Xuân Hữu, Hải Phòng, 1936; Đại La, Hà Nội, tái bản 1945; Tân Việt, Sài Gòn, tái bản 1957) Việt Nam Tây thuộc sử (Đỗ Phương Huế, Chợ Lớn, 1937) Ðông Kinh nghĩa thục (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938) Ngục trung thư (Đời cách mạng Phan Bội Châu) (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938; Tân Việt, Sài Gòn tái bản, 1950) Vương An Thạch (Hà Nội, 1943; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1960) Cô Tư Hồng (tiểu thuyết, Trung Bắc Tân Văn Chủ nhật, 1940; Trung Bắc Thư xã, Hà Nội, 1941) Chu Tần tinh hoa (dịch, Hà Nội, 1944) Lê Văn Khôi (1941-1945) Con trời ngã xuống đất đen (Hà Nội, 1944) Chu Tần tinh hoa (1944) Vương Dương Minh-Người xướng ra học thuyết lương tri và tri hành hợp nhất (Hà Nội, 1944; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1950) Kẻ bán trời Con quỷ phong lưu Bùi Thị Xuân Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 (Quốc Dân thư xã, Hà Nội, 1946; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1957). Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, ông mới dịch được nửa bộ, đang đăng báo thì từ trần (Bốn Phương xuất bản, Sài Gòn, 1950) Đào Trinh Nhất Tác Phẩm gồm có: Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Lịch Sử Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Triết Học Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1 gồm có: Cô Tư Hồng Kẻ Bán Trời Bùi Thị Xuân Đóng Cửa Dạy Chồng Con Quỷ Phong Lưu Mời các bạn đón đọc Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1 của tác giả Đào Trinh Nhất & Nguyễn Quang Thắng.