Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Những Người An Nam Ở Paris Hay Sự Thật Về Đông Dương

Trong cuốn hồi ký "Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương", tác giả Phan Văn Trường với vai trò tự nhận mình là một người quan sát, đã nhanh chóng thấy được những bất công mà người Pháp đem lại cho người An Nam. Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương (tên gốc: Une Histoire de Conspirateurs Annamites à Paris ou la Vérité sur L’Indo-chine) mới ra mắt tại Việt Nam là một trong hai tác phẩm nổi bật nhất của luật sư – Tiến sĩ Luật Phan Văn Trường. Cuốn hồi ký này từng được xuất bản nhiều kỳ trên tạp chí La Cloche Fêlée (Chuông rè hay Chuông nứt) từ số ra ngày 30/11/1925 đến số ra ngày 15/3/1926. Năm 1928, tác phẩm được tổng hợp và xuất bản thành sách bởi nhà in Đông Pháp – Ng. kim-Dinh, Gia Định, sau đó được Nhà xuất bản L'insomniaque của Pháp in lại năm 2003. Bản tiếng Việt được dịch dựa trên bản in năm 1928 của nhà in Đông Pháp và cũng là cuốn sách tiếp theo trong Tủ sách Pháp ngữ – Góc nhìn sử Việt của Omega+. Phan Văn Trường là một trong những người có ảnh hưởng nhất trong số những trí thức An Nam từng có cơ hội sang Pháp, khi nhắc đến Phan Văn Trường, tầm ảnh hưởng của ông không kém những chí sĩ yêu nước như Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tất Thành. Tuy ít được nhắc đến, nhưng ông là người sớm nhìn ra tình cảnh khốn khổ của nhân dân An Nam khi là thuộc địa của Pháp, và chính ông cũng trải qua tình cảnh khổ đau, khốn khó và bị áp bức ngay trên đất Pháp. Khi ta đọc về tiểu sử của Phan Văn Trường sẽ thấy ông là một người con của đất Việt, một người được thừa hưởng truyền thống nho học của gia đình nhưng đã sớm tiếp thu tinh thần cách mạng dân chủ. Hay câu chuyện rằng Phan Châu Trinh, người bạn đồng chí đã cùng ông sát cánh vượt qua những khổ ải tù đày khi đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân An Nam. {keywords}   Vào cuối thế kỷ thứ 19, khi sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc và chế độ thuộc địa đã kéo dài một thời gian, các nước thực dân liên tiếp dùng chiêu bài "civiliser" (khai hoá văn minh) để thực hiện các cuộc xâm lược và bóc lột thuộc địa. Lúc này những người tự cho mình là khai hoá văn minh sử dụng các chính sách thuộc địa để dựng lên những vở bi hài kịch về chính trị. Trong cuốn hồi ký của mình, Phan Văn Trường với vai trò tự nhận mình là người quan sát, đã nhanh chóng thấy được những bất công mà người Pháp đem lại cho người An Nam, họ tự nói và viết về những khuyết điểm của người An Nam, còn mang đến những thứ văn minh phương Tây theo cung cách của những kẻ ban ơn.  Thế nhưng bản thân Phan Văn Trường là một người chính trực, và ông đã thẳng tay vạch mặt âm mưu nhồi sọ của thực dân Pháp qua chương VI và chương VII của cuốn sách Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương. Cuốn sách được ra đời nhằm mục tiêu chống lại thực dân Pháp và đòi quyền lợi cho dân An Nam ngay trên đất Pháp, mà cụ thể là Paris. Trong cuốn sách, tác giả Phan Văn Trường có nhắc tới nhiều vấn đề khiến bản thân ông và những người đồng chí hết lần này tới lần khác bị cản trở trong sự nghiệp, hoặc bị rơi vào vòng lao lý. Thế nhưng tính cách Phan Văn Trường là người hướng nội và thật khó cho ông để thực hiện những ý tưởng cách mạng của mình. Không tham gia vào các đảng phái, các cuộc bạo động, Phan Văn Trường dành hầu hết thời gian trong sự nghiệp của mình để làm trợ giảng cho môn tiếng An Nam tại ĐH Đông Phương của Pháp và theo học bằng Tiến sĩ Luật. Ông sống tại Paris để tiếp xúc nhiều hơn và thấu hiểu chính quyền thuộc địa và cũng là cơ hội để ông gặp gỡ những chí sĩ khác như nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp cùng Phan Châu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành. Ông là một trong bốn người ký tên bản "Revendications du peuple annamite" ("Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam" hay còn gọi là "Yêu sách của nhân dân Việt Nam") năm 1919  và được coi là "kiến trúc sư" của văn bản này.. Dù khi ấy ông đã tìm thấy được những người cùng chí hướng, thực hiện một vài phong trào ngay trong chính lòng của thực dân Pháp. Thế nhưng Phan Văn Trường không thực sự thành công với điều ấy, thời gian ở Paris ông thường xuyên bị bắt bớ, tra hỏi vô cớ và bị mật thám theo dõi. Đỉnh điểm là năm 1914 cho tới 1915, ông bị bắt giam vì tội "phá hoại an ninh nước Pháp", nhưng do không đủ bằng chứng để kết tội, thực dân Pháp phải thả và buộc ông phải về làm thông ngôn tại Toulouse. Cả một đời Phan Văn Trường sống trong sự liêm khiết và tinh thần bất khuất, dù mang quốc tịch Pháp nhưng lòng ông vẫn hướng về quê hương mình. Ông tin tưởng và theo đuổi cách mạng dân chủ mà bị chế độ thực dân vô cùng căm ghét. Ông dám mạnh dạn tuyên bố rằng ngay ở nước Pháp, xứ sở của tự do dân chủ mà ông còn bị bắt oan, vậy thì ở những vùng đất thuộc địa như An Nam, nằm dưới vòng sinh sát của nước Pháp thì tiếng kêu khóc lầm than của người dân oan nơi đó còn tới mức nào. Trong phần cuối cùng của cuốn sách, Phan Văn Trường thẳng tay tuyên bố, chính quyền thực dân sợ những bài báo tuyên truyền chống chủ nghĩa thực dân chứ không phải chống lại người Pháp, bởi vì xuyên suốt cả cuốn sách, chính ông cũng nhận ra rằng, ngay cả ở An Nam cũng có những người Pháp tốt, và ngay ở Paris, thủ đô của nước Pháp không phải ai cũng là thực dân. Vũ Vương *** Cuốn hồi ký từng được xuất hiện nhiều kỳ trên tạp chí La Cloche Fêlée (Chuông rè) từ số ra ngày 30.11.1925 đến số ra ngày 15.3.1926. Năm 1928, tác phẩm được tổng hợp và xuất bản thành sách bởi nhà in Đông Pháp - Ng.kim-Dinh, Gia Định; sau đó được một NXB của Pháp in lại năm 2003. Bản tiếng Việt này được dịch dựa trên bản in năm 1928 của nhà in Đông Pháp và cũng là cuốn sách tiếp theo trong Tủ sách Pháp ngữ - Góc nhìn sử Việt của OMEGA+. Tác giả Phan Văn Trường (1876 - 1933) được xem là một trong những luật sư đầu tiên của Việt Nam. Ông là một trong những người tiên phong kết hợp nghề luật và nghề báo. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là Pháp luật lược luận (nhà in Xưa - Nay, Sài Gòn, 1926). Trong tác phẩm Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương, tiến sĩ luật Phan Văn Trường thuật lại tỉ mỉ câu chuyện về những trí thức Việt Nam từng bôn ba ở “mẫu quốc” Pháp để tìm đường hướng mới cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc những năm đầu thế kỷ 20. Đi theo mạch nhiều câu chuyện của luật sư Phan Văn Trường - người chí sĩ đã sát cánh cùng nhiều nhân vật cách mạng hoạt động đấu tranh qua báo chí, độc giả thời hiện đại sẽ hiểu rõ hơn hành trạng của một số nhân vật lịch sử đầu thế kỷ 20, cũng như phần nào thấu suốt được lý do vì sao công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc phải chuyển sang một giai đoạn mới, qua các tư liệu chân thật và sinh động nhất. *** LỜI NGỎ Lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX đứng trước một bước ngoặt then chốt: Lựa chọn con đường giải phóng dân tộc nào cho phù hợp với xứ sở và bối cảnh lịch sử thế giới lúc bấy giờ. Để phần nào hiểu được những gì đã xảy ra trong quá khứ, để có thể lý giải những lựa chọn mà tiền nhân của đất nước đã phải thực hiện, chúng ta cần truy lại dấu chân của người đương thời, mà cụ thể là những trí thức Việt Nam từng bôn ba ở ngay chính mẫu quốc Pháp để tìm tòi những đường hướng đấu tranh giải phóng dân tộc. Bởi lẽ, bối cảnh của buổi đầu thế kỷ XX đó chính là sự lụi tàn của phong trào Cần Vương, cùng với đó là sự lỗi thời không thể chối cãi của đường hướng đấu tranh chống ngoại xâm như cha ông từng thực hiện chống lại các thế lực phương Bắc. Thực dân phương Tây không phải là các triều đình Trung Hoa quân chủ khi xưa, và do vậy phương hướng đấu tranh của người Việt cũng phải có sự điều chỉnh cho bắt kịp với thời đại, để thích nghi với đối thủ mới có trong tay sự vượt trội về khoa học-kỹ thuật-vũ khí. Phương hướng mới đó khởi từ lớp thanh niên trẻ sẵn sàng dấn thân chu du, học hỏi ở ngay chính quốc Pháp. Và một trong những tài liệu hữu ích để tìm hiểu hành trình này của thế hệ trẻ Việt Nam thời bấy giờ chính là Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương, hồi ký của Luật sư-Tiến sĩ Luật Phan Văn Trường, người được xem như luật sư đầu tiên của Việt Nam. Phan Văn Trường (1878-1933) sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học ở Đông Ngạc, Hà Nội. Kể từ khi sang Pháp học Luật năm 1908 cho đến năm 1923 khi trở về Tổ quốc, ông đã không ngừng trau dồi học hỏi nhằm tự trang bị cho mình hai “vũ khí” quan trọng là kiến thức về luật pháp và quốc tịch Pháp; có thể nói, đó chính là những công cụ hữu ích để ông tiến hành cuộc đấu tranh dài lâu bên những người đồng chí như Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền... hòng vận động, đòi hỏi quyền lợi cho người dân An Nam và các xứ thuộc địa, đấu tranh đòi quyền lợi giáo dục cho người dân bản xứ, cũng như chống lại những sách nhiễu của mật thám Pháp và trò vu khống của chính quyền thuộc địa... Hiểu được tầm quan trọng về mặt tư liệu của Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương, OMEGA+ trân trọng giới thiệu đến quý độc giả cuốn hồi ký của Luật sư Phan Văn Trường, cũng là cuốn sách tiếp theo trong “Tủ sách Pháp ngữ - Góc nhìn sử Việt”. Tuy nhiên, hiểu rõ được khoảng cách thời đại lên đến gần một thế kỷ có thể ít nhiều gây khó khăn cho chúng ta trong việc thấu hiểu một số quan điểm và cách nhìn nhận của cha ông khi xưa, OMEGA+ đã có những chú thích kỹ lưỡng ở những chi tiết này. Mong rằng tác phẩm sẽ góp phần giúp quý độc giả khám phá những chi tiết và sự kiện quan trọng của một thời, cũng như quan điểm của người trong cuộc, để ta có thể thấu suốt hơn những gì đã xảy ra, và cũng để hiểu cho người xưa. Trân trọng, CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH OMEGA VIỆT NAM Mời các bạn mượn đọc sách Chuyện Những Người An Nam Ở Paris Hay Sự Thật Về Đông Dương của tác giả Phan Văn Trường & Sity Maria Cotika (dịch) & Huỳnh Mai (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Độc Hành - Những Khám Phá Giá Trị Và Kỳ Lạ Trên Con Đường Tơ Lụa - Nguyễn Hoàng Bảo
"Bạn đã từng thấy đâu đó hình ảnh đoàn người cùng lạc đà thồ những kiện hàng nhẫn nại vượt biển cát mênh mông được thể hiện qua thơ, tranh ảnh, những câu chuyện thần thoại, những vở diễn trên sân khấu hay kịch bản điện ảnh chưa? Đó chính là sự biểu trưng hoàn hảo cho con đường huyền thoại xa xưa. Sau hai tháng dọc theo Con đường tơ lụa, tôi đã có những trải nghiệm đáng nhớ trong đời. Từ Kuwait, Iran của "vùng đất lửa" Trung Đông đến những đất nước gần như biệt lập ở Trung Á như Turkmenistan, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Tajikistan, và hàng loạt các điểm đến xa xôi mà đoàn thương nhân năm xưa đã phải trải qua với biết bao nhiêu câu chuyện huyền bí, ly kỳ. Và tôi, cũng trên Con đường tơ lụa năm nào, đã lang thang qua bao nhiêu làng mạc, thị trấn heo hút không bóng người, tận mắt chứng kiến những công trình kiến trúc cổ có tuổi đời hàng trăm thậm chí hàng ngàn năm, may mắn tham dự những lễ hội truyền thống của địa phương, được đắm mình với cuộc sống cư dân bản địa ở Trung Đông hay khắp các nẻo đường Trung Á. Quyển sách ra đời sau chuyến đi mười tháng, trong đó có bốn tháng tôi phải miệt mài vẫy bút để lưu lại những kỷ niệm tuyệt vời trong hành trình ấy. Quyển sách không viết theo kiểu tư liệu nghiên cứu lịch sử mà là quyển sách về du ký. Hành trình của chuyến đi sẽ được đúc kết thành những câu chuyện thông qua cảm xúc, nhận định về các vùng đất nằm trên vành đai Con đường tơ lụa. Tuy nhiên lịch sử lại là yếu tố quan trọng tạo nên sự biến đổi về văn hóa, tôn giáo, phong tục tập quán, kiến trúc và kể cả con người từng chịu ảnh hưởng bởi con đường giao thương cổ này và tôi đã sử dụng một số tư liệu lịch sử để người đọc dễ dàng hình dung hơn. Thông tin lịch sử được tôi ghi chép lại trong quá trình trò chuyện cùng các nhân vật, những tài liệu thu thập trên internet và những so sánh, nhận định và nhận xét mang tính chủ quan. Nếu các bạn chưa có dịp đặt chân trên Con đường tơ lụa, hãy tìm một điểm tựa và cùng tôi phiêu lưu qua những trang sách này. Ở đó, có những câu chuyện trải nghiệm về cuộc sống con người, về vùng đất qua nhiều đổi thay từ những thăng trầm của lịch sử và trên hết là những thử thách của bản thân trong suốt hành trình khám phá đơn độc. Những câu chuyện du ký của một lữ khách Việt đi tìm dấu vết lạc đà trên Con đường tơ lụa lẫy lừng trong quá khứ." Mời các bạn đón đọc Độc Hành - Những Khám Phá Giá Trị Và Kỳ Lạ Trên Con Đường Tơ Lụa của tác giả Nguyễn Hoàng Bảo.
Hồi Ký Quỳnh Dao - Chuyện Đời Tôi - Quỳnh Dao
N gày 9 tháng 4 năm 1988, tôi bay từ Đài Loan đến Bắc Kinh, mở đầu chuyến thăm cố quốc đầu tiên của tôi, sau 39 năm trời xa cách. Qua chuyến đi này, tôi đã viết một cuốn sách lấy tên là “Tình quê hương không bao giờ dứt”, tưởng đã nói đủ cảm xúc và những gì đã trải qua trong cuộc hành trình này, nên tôi không nhắc lại. Thời gian ở Bắc Kinh, có nhiều bạn bè và độc giả đến thăm tôi, mang theo các tác phẩm Quỳnh Dao và các bài viết về Quỳnh Dao do các nhà xuất bản ở đây ấn hành. Tôi vồ lấy đọc mới biết rằng những gì hơn nửa đời người tôi đã làm, đã trải, đều được sách vở báo chí ở đây nhắc đến, trong đó có nhiều vụ việc mà ngay chính bản thân tôi cũng không biết nữa. Tôi cứ đọc và càng đọc càng thấy mình xao xuyến, xúc động. Thì ra, ở đất liền, tôi có biết bao người bạn tốt, hằng quan tâm, theo dõi bước đi của mình. Tôi nghĩ, sau khi trở lại Đài Loan, thế nào tôi cũng viết một cuốn sách nói thật về cuộc đời mình để gởi sớm đến bạn đọc. Nguyện vọng này luôn đeo bám tôi, sau khi tôi đã về nhà, nhưng viết thế nào cho đúng là tôi trong đời thật, quả hết sức khó! Người trong gương là tôi mà không phải tôi; dưới con mắt người đời là tôi mà cũng không phải tôi, sau này số phận rong ruổi thế nào, tôi nào biết được, còn trước mắt, với tôi, vẫn là cuộc thăm dò, tìm kiếm, thử nghiệm vô tận... Thôi thì, điều có thể nói ra được là tất cả những gì đã đi qua đời mình vậy! Đời tôi đã đi qua như thế nào? Thật lạ lùng, dẫu bụi thời gian che phủ, trước mắt tôi lúc nào cũng hiện ra rõ mồn một biết bao giông tố bão bùng, biết bao cuộc tan hợp đẫm đầy nước mắt, tình yêu và lòng căm giận, khổ đau và cái chết rập rình suốt những năm tháng dài lưu lạc. Đã là con người, ai cũng có niềm vui và nỗi buồn, tôi cũng vậy, nhưng lại ở mức độ hết sức đậm đặc. Có thể nói quá khứ đời tôi là dòng hợp lưu của mồ hôi và nước mắt, cuồng vọng và nỗi đau, đoàn tụ và ly biệt, cô đơn và giẫy dụa, mâu thuẫn và day dứt, lỗi lầm và ân hận... Cứ vậy, tôi nhớ lại và sắp xếp mọi chuyện và ngỡ rằng đều là chuyện trong mơ, không phải của chính bản thân mình. Dù sao công việc cũng đã xong, tôi xin gởi đến bạn đọc - những người bạn lúc nào cũng dành cho tôi sự quan tâm và lòng yêu mến chân tình. Mời các bạn đón đọc Hồi Ký Quỳnh Dao - Chuyện Đời Tôi của tác giả Quỳnh Dao.
40 Ngày Sống Với Đối Phương - Richard Dudman
Nhà báo Richard Dudman, tác giả tập hồi ký "40 Ngày Sống Với Đối Phương - Câu Chuyện Của Một Nhà Báo Mỹ Bị Du Kích Bắt Giữ Ở Camphuchia" này, cùng hai nhà báo khác lái xe từ Sài Gòn đến Phnom Penh để săn tin về cuộc xâm nhập của Mỹ và lính Sài Gòn vào Campuchia, nhưng đã bị bắt vào sáng sớm ngày 7-5-1970 và được đưa vào vùng giải phóng ở Campuchia. Sau đó, trong 40 ngày, họ đã có dịp nếm trải một kinh nghiệm sống hiếm có, lạ thường, đầy cảm xúc, đầy tình tiết ly kỳ, gian nan và thú vị, cùng với các chiến sĩ du kích.  (Hồi ký của một nhà báo Mỹ cho thấy, trong khốc liệt và tàn bạo của chiến tranh, ai giữ được nguyên tắc "tính mạng con người cao nhất", người đó sẽ chiến thắng)​ Khoảng đầu năm 1994, khi đang làm việc tại tòa soạn Saigon Times - tờ báo tiếng Anh đầu tiên của Thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975, tôi nhận được cú điện thoại với giọng nữ rất nhẹ nhàng êm ái, từ Sở Ngoại vụ: “Anh có thể tiếp một nhà báo Mỹ được không?" Ai có thể chối từ với giọng nói như thế. Chỉ một giờ sau, Huỳnh Thị Thanh Hiền, cán bộ ngoại giao, và Richard Dudman, cựu Tổng Biên tập tờ Sant Louis Post - Dispatch, đã có mặt tại phòng khách Saigon Times. Ở tuổi 76, Dudman trông vẫn nhanh nhẹn và dí dỏm trong câu chuyện. Thanh Hiền nói, họ vừa trải qua một chuyến đi thú vị đến Tiền Giang. “Để làm gì?" Tôi hỏi. “Để viết lại một câu chuyện tuyệt vời của chiến tranh." Dudman trả lời. Câu chuyện đời ông đã thu hút tôi đến nỗi, năm 1996, khi thực tập tại báo Boston Globe và Patriot Ledger tôi đã tìm mọi cách để liên lạc và đến thăm nhà ông tại tiểu bang Maine gần đó. Sau đó, tôi viết nhiều về câu chuyện của ông đăng trên các báo Quốc tế (Bộ Ngoại giao), báo Tuổi Trẻ và Sài Gòn Giải Phóng. Trong khi viết những bài báo này, tôi cũng cố tìm gặp tướng về hưu Trương Văn Cao (Bảy Cao - lúc ấy là Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh tỉnh Tiền Giang, sau này về sống tại Bến Tre).​ Tất cả những điều đó đã được tường thuật lại một cách sinh động và tinh tế và được các nhà báo của Saigon Times dịch lại trong cuốn sách này.  *** SAU KHI BỊ "VIỆT CỘNG" BẮT (Hồi ký của một nhà báo Mỹ cho thấy, trong khốc liệt và tàn bạo của chiến tranh, ai giữ được nguyên tắc "tính mạng con người cao nhất", người đó sẽ chiến thắng) K hoảng đầu năm 1994, khi đang làm việc tại tòa soạn Saigon Times - tờ báo tiếng Anh đầu tiên của Thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975, tôi nhận được cú điện thoại với giọng nữ rất nhẹ nhàng êm ái, từ Sở Ngoại vụ: “Anh có thể tiếp một nhà báo Mỹ được không?" Ai có thể chối từ với giọng nói như thế. Chỉ một giờ sau, Huỳnh Thị Thanh Hiền, cán bộ ngoại giao, và Richard Dudman, cựu Tổng Biên tập tờ Sant Louis Post - Dispatch, đã có mặt tại phòng khách Saigon Times. Ở tuổi 76, Dudman trông vẫn nhanh nhẹn và dí dỏm trong câu chuyện. Thanh Hiền nói, họ vừa trải qua một chuyến đi thú vị đến Tiền Giang. “Để làm gì?" Tôi hỏi. “Để viết lại một câu chuyện tuyệt vời của chiến tranh." Dudman trả lời. Câu chuyện đời ông đã thu hút tôi đến nỗi, năm 1996, khi thực tập tại báo Boston Globe và Patriot Ledger tôi đã tìm mọi cách để liên lạc và đến thăm nhà ông tại tiểu bang Maine gần đó. Sau đó, tôi viết nhiều về câu chuyện của ông đăng trên các báo Quốc tế (Bộ Ngoại giao), báo Tuổi Trẻ và Sài Gòn Giải Phóng. Trong khi viết những bài báo này, tôi cũng cố tìm gặp tướng về hưu Trương Văn Cao (Bảy Cao - lúc ấy là Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh tỉnh Tiền Giang, sau này về sống tại Bến Tre). Anh Bảy, anh là ai? Không thể nào quên lần đầu tiên tôi gặp anh Bảy Cao, vào ngày 7 tháng 5 năm 1970, thời gian căng thẳng nhất cuộc đời tôi - Dudman nói. Khi ấy, Richard Dudman, phóng viên tờ Sant Louis Post - Dispatch được phân công đến Việt Nam để đưa tin chiến trường vào thời điểm Nixon mở rộng chiến tranh, tiến quân vào Campuchia để trả mối hận bị tấn công vào Tết Mậu Thân. Nước Mỹ thời gian đó như đứng bên bờ vực thẳm. “Tôi gặp Bảy Cao chỉ ba ngày sau khi bốn sinh viên Đại học Kent ở Ohio bị vệ binh quốc gia bắn chết trong một cuộc biểu tình phản chiến." Richard Dudman bồi hồi nhớ lại sự kiện đẫm máu, kéo theo làn sóng cuồng nộ ở khắp các khuôn viên đại học Hoa Kỳ. Nixon muôn tiêu diệt các căn cứ của Việt Cộng ở Campuchia nên hạ lệnh tấn công vào ngày 29-4. Ngay tức khắc, ngày 2-5 dân chúng và sinh viên Mỹ bắt đầu những cuộc biểu tình phản đối. Ngày 4-5 vệ binh quốc gia bắn thẳng vào sinh viên Kent: cuộc chiến tranh Việt Nam thực sự bắt đầu ngay trong lòng nước Mỹ. “Tôi bay đến Việt Nam cùng hai đồng nghiệp, mộl nam một nữ . Michael làm cho hãng tin Dispatch News Service (sau này nghe nói có trở lạl và bị chính quyền trục xuất vì vi phạmluật Việt Nam) và cô Elizabeth Pond của tờ Christian Science Monitor, bây giờ đang viết báo nghiệp dư ở Bonn Cộng hòa Liên bang Đức" Richard xúc động, nói trong hơi thở gấp. Vào sáng sớm 7-5-1970 cả ba nhà báo tự lái xe từ Sài Gòn đến Phnom Penh, dự định theo chân cuộc hành quân của Mỹ và lính Sài Gòn, dọc theo "xa lộ an toàn". Nhưng chỉ mới nửa đường, khi đang vượt qua thị trấn Svai Riêng, thì bị chặn lại: Họ bị bắt và được những khẩu AK-47 “hộ tống" đi sâu vào những cánh rừng già. “Tôi chợt nhận thấy mình đang rơi vào nguy hiểm chết người. Bao nhiêu tin tức về những người Mỹ khác bị phục kích và mất tích ở khu này đã làm tôi hoảng sợ" Richard Dudman thấp giọng như không còn nghe rõ. Ông còn là người cao tuổi nhất trong số ba "tù binh" mới. Chính vì vậy, cùng lúc đó, ông cảm thấy có trách nhiệm trấn an hai người đồng nghiệp. “Vâng, nếu còn sống chúng tôi sẽ có một thiên phóng sự tuyệt vời”. Nhưng, ám ảnh về cái chết vẫn không rời qua những buổi hỏi cung bất chợt do những du kích Khmer đỏ thực hiện dưới “con mắt" đen ngòm của AK. Rồi một ngày, cả ba bị ném lên phía sau một chiếc xe tải. “Một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đi qua những đường mòn rợp bóng cây, vào vùng giải phóngvới những cổng chào sặc sỡ, có cả ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh.” Trí nhớ của Richard Dudman dường như chưa bao giờ có tuổi. Đến giữa làng, họ bị bịt mắt dẫn đi theo lối ngoằn ngoèo, giữa hàng ngàn người phẫn uất với tiếng chửi mắng, và hình như, có người đã nhổ vào mặt họ. “Bọn chúng là điệp viên CIA " giọng người Việt nói đầy giận dữ. ''Không, chúng tôi là nhà báo quốc tế." Michael cố gắng thanh minh bằng vốn tiếng Việt sẵn có. Một cú đấm bất ngờ làm Michael khuỵu xuống. Rồi đến lượt Richard. Cuối cùng, họ nghe một giọng khác, nhẹ nhàng hơn: “Hãy cho họ uống nước” Và nói với hai nhà báo bị nghi ngờ: "Các anh không nên nói láo." Người này là một trung úy còn rất trẻ. Ông hỏi những câu ngắn gọn, nhưng rõ ràng và hứa sẽ trả tự do nếu cuộc điểu tra chứng minh họ là nhà báo, chứ không phải là gián điệp CIA giả dạng. Những hồi tưởng vẫn tiếp diễn bởi những khám phá bất ngờ. ''Chúng tôi di chuyển vào ban đêm, khi thì bằng xe hơi, khi thì xe đạp và phần lớn là cuốc bộ. Ban ngày dừng lại ngủ trong lều của nông dân” Richard nói. Những người đồng hành đã trở thành thân thiện từ lúc nào không hay. Đến ngày thứ 40 - Richard đếm từng ngày như một cách giết thời gian, bỗng người sĩ quan cao to hôm nào xuất hiện với đôi mắt và nụ cười nhân hậu. Ông nói: ''Tôi đã được lệnh thả các anh.” Đó là ngày 15-6-1970. Nhiệm vụ hoàn thành Vào năm 1972, chính nhà báo Dudman được chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mời đến Hà Nội. Sau đó, ông đã viết nhiều bài tường thuật trực tiếp từ Hà Nội kêu gọi dân chúng Mỹ phản đối cuộc chiến tranh tàn bạo mà Mỹ gây ra tại Việt Nam. Và từ ấy, ông ước mong được biết tên tuổi của người đã trả tự do cho ông và viết lại "thiên phóng sự tuyệt vời" như một phần thưởng vô giá của tình người mà ông từng nhận được. Ánh sáng hy vọng lóe lên vào tháng 12-1993, 18 năm sau, có người bạn của Richard Dudman là Tim Kinh gọi điện cho vợ ông báo tin: trên tờ Newsweek có bài báo nhắc tới ông. Chính ký giả David Hackworth của Newsweek đã pha đèn vào sương mù ký ức, khi ông trích lời một tướng Việt Cộng về hưu rằng, vào năm 1970, ông và các đồng chí của ông đã thả ba nhà báo Mỹ bị tình nghi là gián điệp vì "Họ ăn quá nhiều. Một trong ba người đã ăn gấp 10 lần khẩu phần của chúng tôi " Tướng về hưu Bảy Cao nói với Hackworth. Nhưng nỗ lực tiếp theo từ Trung tâm Báo chí Bộ Ngoại giao Việt Nam đã giúp Richard tìm ra địa chỉ tướng Bảy Cao, giúp ông làm xong công việc mà, nói như người Việt Nam, ông đã có thể an lòng nhắm mắt. Còn với Richard: “Chưa nói được tiếng cám ơn đó thì vẫn chưa trọn đạo làm người". Khi Richard thăm nhà Bảy Cao, có lần giữa câu chuyện hàn huyên, ông hỏi phòng vệ sinh, tướng Bảy Cao tự nhiên dẫn ông ra con kênh nghiêng bóng dừa trước căn nhà lộng gió. "Ồ, có lẽ, phòng vệ sinh nhà anh lớn nhất thế giới” Richard cười. Anh Bảy tỉnh bơ: “Anh đùa cũng như tôi, khi nói với Hackworth rằng các anh ăn quá nhiều, không chịu nổi, phải thả”. Bảy Cao cho biết cú đấm mà Richard nhận là vi phạm chính sách, nên người tung ra cú đấm phải bị kỷ luật: anh ấy đã bị giáng chức từ trung úy xuống trung sĩ. Bảy Cao ngậm ngùi : “Tôi bắt anh ấy đến xin lỗi các anh, nhưng không may anh ấy đã hy sinh vài ngày sau đó khi quân ngụy tấn công vào ngôi nhà nơi đã giữ các anh.” Richard nghĩ rằng cách mà Bảy Cao lý giải chiến thắng của Việt Nam cũng đơn giản: "Lúc đầu người ta nghĩ các anh là điệp viên, là kẻ thù, nên họ manh động. Nhiều ngườì trong số du kích có gia đình hoặc thân nhân bị lính ngụy hay Mỹ tàn sát. Hãy hiểu sự phẫn nộ của họ". Từ lâu, Richard vẫn mơ hồ rằng việc thả ông là do sự can thiệp quốc tế nào đó, nhưng tướng Bảy Cao đã tiết lộ: "Chúng tôi phải điện cho Hà Nội xin phép được trả tự do cho các anh. Tất nhiên Hà Nội đồng ý vì nhà báo không phải kẻ thù. Chính sách đó cũng sáng ngời như chính nghĩa của chúng tôi” Bảy Cao nói, giọng vẫn khỏe khoắn như ngày nào. Nhưng Richard hiểu rằng ông may mắn biết bao, bởi vì làm sao có thể trách được sự ngộ nhận của chiến tranh. Năm 2000, nhân kỷ niệm 25 năm chấm dứt chiến tranh Việt Nam, Richard Dudman đã thực hiện được ước mơ cao hơn: đưa bà Helen Dudman - vợ ông đến Việt Nam để cùng nói lời cám ơn, bởi chính bà mới là người “thọ ơn" nhiều nhất. Hạnh phúc lớn nhất của bà là người chồng mất tích trong vùng chiến sự, bỗng trở về nhà. Năm nay, 2005, kỷ niệm ba mươi năm giải phóng, chúng tôi muốn giới thiệu cuốn sách của Richard Dudman, sau khi được trả tự do. Tất nhiên, dưới mắt một nhà báo Mỹ đang bị bắt giữ, những nhận xét lúc đó "không dễ dàng", nhưng cuối cùng, tính nhân bản và vị tha giữa người với người luôn được chiếu sáng, không phải từ một phía, mà từ nhiều phía khác nhau, thậm chí phía đối địch.           Trần Ngọc Châu Mời các bạn đón đọc 40 Ngày Sống Với Đối Phương của tác giả Richard Dudman.
Chuyện của Paco - Larry Heinemann
Tên gọi James bắt nguồn từ cách gọi Jim hoặc Jack, hoặc đôi khi là Jake theo cách đùa cợt, một thói quen của dân hàng phố khi họ bắt chuyện người hoàn toàn không quen biết - chẳng hạn, khi họ hỏi thăm đường, hỏi giá vé xe buýt chính xác bằng tiền lẻ hoặc xin lửa để châm thuốc. Nhưng bởi vì Chuyện của Paco đòi hỏi ngôn ngữ trịnh trọng hơn ngôn ngữ vỉa hè đường phố nên tôi nghĩ James thì thích hợp hơn. Tôi cũng định nhắc tới câu nói giễu cợt: "Về nhà đi, James”2[1]. Khi tôi bắt tay vào viết câu chuyện này, một người bạn thân đã hỏi tôi James thực ra có phải là James Jones hay không3[2] - một nhà văn có sự nghiệp mà tôi rất ngưỡng mộ (và tôi nghĩ ông bị đánh giá quá thấp); ông mất vì một căn bệnh đau đớn kéo dài ngay trước khi cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi được xuất bản năm 1977. Tôi đã trả lời người bạn đó rằng không phải, rằng James không phải là James Jones, nhưng sự trùng hợp ngẫu nhiên này là sự trớ trêu quá kỳ lạ khiến tôi không thể cố tình không biết hoặc gạt bỏ. Nhưng rút cục tôi được biết hóa ra có rất nhiều James. Trong Kinh Thánh có hai thánh tông đồ mang tên này: James Nhỏ (là người em ruột hoặc em họ của Jesus ở Nazareth và là tác giả của thư truyền giáo của Thánh James gửi cho các Kitô hữu) và James Lớn. Có nhiều vua của nước Anh tên là James, trong đó James I là người đã cho dịch Kinh Thánh sang tiếng Anh cận đại. Có các “James” trong văn học - James Joyce, Henry James và người anh trai của ông là William James, và James Jones. Và chúng ta có thể kể thêm tướng cướp huyền thoại Jesse James, người em trai Frank James của gã, và băng cướp của nhà James; James Bowie và toàn bộ lính của ông đã thiệt mạng trong trận đánh tại Alamo (người anh trai đã tặng ông con dao săn/chiến đấu nổi tiếng vì được mang tên ông); diễn viên James Dean mà huyền thoại cá nhân đã góp phần định nghĩa thời kỳ hậu Thế chiến II. Hơn nữa, James còn là tên của người anh trai cả của tôi - tôi không gặp hoặc nhận được tin tức của anh ấy kể từ quãng năm 1970. Cuối cùng, tên của cha tôi là John, nhưng mọi người đều gọi ông là Jack - một tên riêng đôi khi thay cho James; ông mất chưa đầy hai tuần trước khi tôi xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay, Close Quarters (Giáp lá cà), cái chết của ông quả thực đã khiến cho sự kiện ăn mừng việc ra mắt cuon sách trở thành mâu thuẫn, ngược đời - một cảm giác mệt mỏi đến kiệt sức vì đau buồn xảy ra cùng thời gian với cảm giác nhẹ nhõm vì cất được gánh nặng. *** Larry Heinemann, sinh năm 1944 tại Chicago, Illinois, trong một gia đình thuộc tầng lớp bình dân. Sau khi học xong trung học, ông đi làm rồi học đại học. Ông bỏ học giữa chừng và bị gọi nhập ngũ (năm 1966). Từ tháng 3 năm 1967 đến tháng 3 năm 1968, ông là lính của Sư đoàn hộ binh số 25 tham chiến tại Củ Chi và Dầu Tiếng. Sau khi giải ngũ, Larry Heinemann theo học môn sáng tác (creative writing) tại Đại học Columhia ở Chicago và từ năm 1971 ông bắt đầu dạy môn sáng tác tại đại học này, cho tới khi ông xuất bản Chuyện của Paco (Paco's Story) năm 1986. Năm 1986, Chuyện của Paco được Giải thưởng Sách Quốc gia dành cho thể loại hư cấu (National Book Award for Fiction), vượt qua bốn nhà văn được đề cử khác trong đó có Toni Morrison là ngưòi được Nobel Văn học 5 năm sau đó. Hiện nay Larry Heinemann là tác giả thường trú (writer-in-residence) tại Đ ại học Texas A&M University, thành phố Co llege Station, bang Texas. Mời các bạn đón đọc Chuyện của Paco của tác giả Larry Heinemann.