Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vòng Luân Hồi (H. K. Challoner)

Chú giải mở đầu cho Ấn bản thứ nhất của Cyril Scott

Tôi cảm thấy tác giả của quyển Các Vị Cai Quản Bảy Cõi (Regents of the Seven Spheres) chỉ cần một ít lời giới thiệu của tôi; tuy nhiên, tôi được yêu cầu viết một vài nhận xét mở đầu về chủ đích chính của quyển sách mới này. Trong tác phẩm trước đây, các minh họa về tương lai được các Thiên

Thần (Devas) tạo ấn tượng; còn “Vòng Luân Hồi” đặc biệt bàn nhiều về quá khứ, liên quan đến chân lý căn bản của huyền linh học, tức Thuyết Nghiệp Quả và Luân Hồi, mà chỉ có một mình thuyết đó mới giải thích được các bất bình đẳng về cá tính và số phận con người một cách hợp lý nhất. Tuy nhiên mặc dù là đạo sinh huyền linh học và thậm chí người thế tục đi nữa, cũng đều có thể chấp nhận các triết lý này như các sự kiện hiển nhiên, chúng thường gây bối rối về căn nguyên đối với các tác động của chúng. Thực ra các nguyên nhân đặc biệt gì đã tạo ra các hậu quả đặc biệt đó? Tại sao cái quả đặc biệt này lại xảy đến do cái nhân đặc biệt nọ? Các giải bày về vấn đề này sẽ được tìm thấy trong kho tàng minh triết thiêng liêng (theosophical literature). Hiện nay, lần đầu tiên, có nhiều điều bí ẩn và rắc rối luôn luôn nảy sinh liên quan với ý tưởng về sự luân hồi, gây hoang mang cho tâm trí của các tư tưởng gia đủ hạng, và được giải đáp một cách rõ ràng.

Nhờ được sự hướng dẫn thích hợp, tâm thức cao của tác giả được hồi cố trở lại qua một loạt các kiếp sống đã được mô tả với sự sống động của kinh nghiệm hiện tại và được chỉ ra cho thấy mối liên hệ đích thực của chúng với nhau về nhân và quả. Một số trong các kiếp sống này, có thể nói đã diễn ra rất tàn khốc, hãi hùng, đáng để ý nhất là những kiếp sống nào được mô tả là có các thực hành về ma thuật (black magic). Nhưng ở đây tôi xin nhắc độc giả nhớ rằng nhiều nhà trước tác ở lĩnh vực huyền linh học thực ra có hàm ý cho thấy rằng lòng can đảm và sức mạnh của ý chí, dù theo các đường lối sai trái, cũng có thể có sức mạnh đáng kể đối với điều thiện khi được đổi thành việc phụng sự vị tha cho nhân loại dưới sự dẫn dắt của các Huấn sư. Còn những ai, qua suốt các kiếp sống của mình, do thiếu quyền biến (initiative) ngay cả đối với tội lỗi đi nữa, cũng có thể trở thành thiếu các tính chất đáp ứng, chính các tính chất này sẽ làm cho họ trở thành những kẻ đồng cộng tác (Co-workers) dũng cảm với các Đấng Cao Cả.

Tóm lại, đây là một quyển sách có thể được xem như sự sống của Từng Cá Nhân (Everyman), và nếu các tội lỗi cùng với các sai hỏng thuộc kiếp trước của cá nhân đó được tiết lộ một cách trung thực, thì tiềm năng mở ra từ lúc người đó đặt chân lên Thánh Đạo được chỉ rõ bởi nhân vật có thẩm quyền về kinh nghiệm cá nhân đã nói ra Tìm mua: Vòng Luân Hồi TiKi Lazada Shopee

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Vòng Luân Hồi PDF của tác giả H. K. Challoner nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Những lời dạy từ các Thiền sư Việt Nam xưa [pdf]
Sách này để kính dâng 3 vị Thầy Thích Tịch Chiếu , Thích Thiền Tâm , và Thích Tài Quang; dâng cha mẹ  vô lượng kiếp ; hồi hướng  tới một vị cư  sĩ đang xin Đức Quan Âm  cứu giúp, và vô lượng  chúng sanh . Tịch ChiếuThiền Tâmcha mẹvô lượng kiếphồi hướngvị cưQuan Âmvô lượngchúng sanhNgười biên soạn  mang ơn  chư vị tiền bối  đã dịch cổ văn  sang ngôn ngữ  Việt hiện đại , đặc biệt  mang ơn  các Thiền sư  Thích Thanh Từ, Trí Siêu Lê Mạnh Thát và sử gia Trần Đình Sơn đã in các sách mà tác phẩm  này đã dựa vào  để tham khảo .biên soạnmang ơntiền bốicổ vănngôn ngữhiện đạiđặc biệtmang ơnThiền sưtác phẩmdựa vàotham khảoCư Sĩ  Nguyên GiácCư Sĩ
DÒNG TÊN SỬ LƯỢC [pdf]
Lịch sử luôn luôn là một bài học sống động và quý giá. Tìm hiểu về Dòng Tên, chúng tôi thấy lịch sử Dòng cũng mang những bài học sống động và quý giá. Chúng tôi đã cố ghi chép lại đây đó một số điều, đôi khi thêm một vài suy nghĩ. Tập này thành hình như một vài góp nhặt chưa hệ thống, chưa hoàn chỉnh và chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Ước mong một bản khác đây đủ hơn và mạch lạc hơn sớm được những nhà chuyên môn cho chào đời, nhờ đó Dòng được nhiều người biết, yêu và theo, để tôn vinh Thiên Chúa hơn. Lịch sử luôn luôn là một bài học sống động và quý giá. Tìm hiểu về Dòng Tên, chúng tôi thấy lịch sử Dòng cũng mang những bài học sống động và quý giá. Chúng tôi đã cố ghi chép lại đây đó một số điều, đôi khi thêm một vài suy nghĩ. Tập này thành hình như một vài góp nhặt chưa hệ thống, chưa hoàn chỉnh và chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Ước mong một bản khác đây đủ hơn và mạch lạc hơn sớm được những nhà chuyên môn cho chào đời, nhờ đó Dòng được nhiều người biết, yêu và theo, để tôn vinh Thiên Chúa hơn.
Thiền sư Khương Tăng Hội - Sơ tổ của Thiền tông Việt Nam và Trung Hoa
Thiền sư Khương Tăng Hội, người đầu tiên mang đạo Phật vào Trung Quốc và Việt Nam!. Đạo Phật truyền vào Việt Nam bằng con đường hàng hải. Đây chính là thể thức giao tiếp, của các nước lân cận thời ấy. Người dân qua lại, giao hảo bằng những đoàn thương thuyền, để trao đổi hàng hóa cần dùng như, tơ lụa, quế, tiêu, các vật dụng hàng ngày. Trên những đoàn thương thuyền ấy, đã mang theo các nhà Sư Ấn Độ, để họ tụng kinh cầu nguyện sự bình an. Đây là quan niệm và cũng là niềm tin tôn giáo, được khẳng định một cách tích cực, trong những sinh hoạt hàng ngày, của dân hàng hải thương nghiệp này. Từ đây, chúng ta hiểu được rằng, đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam, từ thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch. Con đường hoằng pháp của chư Tăng đơn giản, không nhu cầu, phương tiện to tát, mà chỉ được xem như là người thương lái trong đoàn hàng hải, nhưng họ có một niềm tin kiên cố. Chư Tăng có thể tụng kinh, niệm Phật thắp hương, đốt trầm trên những con thuyền đó. Nếp sống tâm linh ấy, đã in sâu vào tâm thức người dân Ấn Độ. Đời sống tâm linh này, đã được sinh hoạt thường nhật, dù nơi quê hương Ấn Độ hay Việt Nam thời bấy giờ. Chính vì sự sinh hoạt tâm linh này, mà người Việt Nam mới biết đến đạo Phật. Ngoài tinh thần văn hóa Phật giáo, người Việt Nam cũng đã học thêm được nhiều điều khác, của nền văn hóa dân gian, cách trồng cấy, lương thực, thảo dược, y học, vân vân, nhờ vậy mà đời sống xã hội, đã có một bước tiến xa hơn. Trong những đoàn người thương lái ấy, có Thân phụ Tổ Sư Khương Tăng Hội, đã đến Giao Chỉ, lưu lại và lập nghiệp nơi đây, có lẽ vì tìm ra vùng đất mới thích hợp, cho nếp sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc, thân sinh Ngài đã lập gia đình với một người phụ nữ Việt. Năm Ngài 10 tuổi, cả hai bậc sinh thành đều khuất núi, kể từ đó Ngài chịu cảnh mồ côi. Mặc dù tuổi còn nhỏ, nhưng hẳn là có túc duyên, nên Ngài quyết chí xuất gia, tu học đạo giác ngộ, mà chính Thân phụ Ngài thuở sinh tiền cũng đã tu tập, trong vai trò người cư sĩ Phật tử. Sự hiện diện của Ngài trong bối cảnh lịch sử thời ấy, đã minh thị một cách hùng hồn rằng. Cây Phật Giáo Việt Nam đã ăn sâu mọc rễ vững chắc, trên mảnh đất Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3, sau Tây Lịch. Qua giá trị lịch sử ấy, đã cho ta cái nhìn tường tận và hiểu biết chính xác, để biết rằng Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam, sớm hơn Phật Giáo có mặt trên đất nước Trung Quốc!. Phật Giáo Việt Nam, tiếp nhận trực tiếp từ Phật giáo Ấn Độ, Ngài Khương Tăng Hội đã đi tu từ năm mười tuổi, và khi trưởng thành, Ngài đã mang tinh thần Thiền học Việt Nam, sang truyền giáo nơi vùng Giang Tả, thời Ngô Tôn Quyền xưng Đế. Ngài mở cuộc Đông Du, vào năm Xích Ô thứ mười, mới đến Kiến Nghiệp. Ngài dừng chân tại đây, lập ngôi nhà tranh trú ngụ, dựng tượng Phật để thờ, và bắt đầu cho công trình hoằng pháp.
Thiền Đốn Ngộ - Thích Thanh Từ
Đốn ngộ không phải là chóng ngộ, nhanh ngộ mà là nhắm vào cái gốc của mọi vấn đề là chỗ khởi sinh các niệm, tức nhân tâm, mà công phu, một lần hết sach vô minh, nên gọi là đốn. Nó đối lập với các pháp thiền tiệm, tức kiểm soát từng niệm một, không cho niềm tà khởi sinh, như ngồi lặt lá. Đốn ngộ không phải là chóng ngộ, nhanh ngộ mà là nhắm vào cái gốc của mọi vấn đề là chỗ khởi sinh các niệm, tức nhân tâm, mà công phu, một lần hết sach vô minh, nên gọi là đốn. Nó đối lập với các pháp thiền tiệm, tức kiểm soát từng niệm một, không cho niềm tà khởi sinh, như ngồi lặt lá.