Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Tình Của Hầu Tước Montespan

Vào thời Vua Louis XIV, các quý tộc có vợ được vì vua chuyên chế để mắt tới là cả một niềm vinh hạnh cho dòng tộc. Cái ngày mà Vị Vua-Mặt Trời này đưa cặp mắt tình đặt lên tấm thân ngọc ngà của nữ Hầu tước De Montespan, giới quý tộc ở Versailles đều chúc mừng sự may mắn của đấng phu quân. Nhưng đấy là họ chưa biết hết tính cách của Louis-Henri Pardailan, Hầu tước De Montespan! Là một người chồng hạnh phúc, yêu vợ đến mê muội, chàng không chịu nổi cảnh vợ mình rơi vào tay con người có quyền lực mạnh nhất toàn cầu hồi ấy. Nơi mà vợ chàng, người đàn bà đẹp nhất nước Pháp bấy giờ đã từng phải thốt lên với chồng : “Versailles là một thế giới khủng khiếp và sẽ chẳng có cái đầu nào không quay cuồng ở đó. Triều đình làm thay đổi cả những con người kiên định nhất”. Ngay từ lúc khám phá ra điều bất hạnh của mình, chàng đã dùng mọi phương tiện, từ cao ngạo, hỗn xược đến ti tiện để chứng tỏ cho nhà vua thấy rằng ông ta chỉ là kẻ đớn hèn, lấy cắp vợ của kẻ khác. Hầu tước đã trở thành trò cười cho thiên hạ khi chàng cho trang trí trên chiếc xe tuyệt mỹ của mình một cặp sừng nguy nga. Chàng từ chối tước hiệu, bổng lộc, những cơ hội đầy hứa hẹn mà nhà vua hứa ban tặng nếu chàng để mắt làm ngơ trước cuộc tình của Vua và vợ mình. Chàng từ chối hết thảy, đơn giản là chàng không rao bán vợ mình. Bất chấp những thủ đoạn đê tiện liên tiếp được Vua tung ra, đến những vu cáo phải đưa ra tòa xét xử, đến những ngày ngồi tù, gia tài đình đốn, suy kiệt, và cả những âm mưu ám sát, chàng vẫn cứ tiếp tục đeo đuổi lòng hận thù đối với con người đầy quyền lực hòng lấy lại vợ mình. Jean Teulé đã đằm mình vào trong quá khứ vinh quang của hoàng gia Pháp, bới tìm tất cả những thói thường diễn ra trong tầng lớp quý tộc. Những trò giả dối, đạo đức giả, lừa gạt tiền, tình… đằng sau những hào nhoáng là chất đầy những trò sa đọa, đàng điếm, con người luôn rình rập những thất thế của người khác để dè bửu, nhạo báng lẫn nhau. Tình cảm, tình thương yêu của con người đều được đem ra tính bằng chức tước bổng lộc. Tình vợ chồng mong manh… Gấp lại cuốn sách, chúng ta phần nào thấy được quá khứ của xã hội Pháp, nhưng phải chăng điều ấy giờ đây vẫn giữ nguyên giá trị của nó. Tác phẩm như một áng thơ ca, ca ngợi tình yêu, tình người bất diệt mà như tạp chí Nouvel Observateur đã viết: thật tài, đó như là một điều kỳ diệu của nền văn học Pháp. Bạn đọc có thể bị xáo trộn tâm hồn, bị đè nén, nhưng lại cười, cười với niềm hy vọng mạnh mẽ nhất. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Công ty CP sách An Tiêm.   Nhà Vua đã cho thúc trống dậy Nhà Vua đã cho thúc trống dậy Để nhìn tất thẩy các lệnh bà Và người đầu tiên Người nhìn thấy Đã khiến tâm hồn Người ngất ngây. Hầu tước, nói đi, ngươi biết người ấy chứ? Hầu tước, nói đi, ngươi biết người ấy chứ? Lệnh bà xinh đẹp đó là ai? Và Hầu tước đã tiếp lời: «Tâu Bệ hạ, đó chính là vợ tôi…» (Bài hát của Saintonge, thế kỷ XVII) *** Thứ bảy ngày 20 tháng giêng năm 1663, vào quãng mười một giờ khuya, lúc ra khỏi Palais - Royal, nơi Đại công tử - em trai Vua - tổ chức một đêm khiêu vũ rầm rộ, thì hai thanh niên, được sáu người khác theo sau, lao vội vã vào trong phố. Họ mắng chửi nhau trong ánh sáng lóa của lông mũ và đăng ten. - Fils de prêtre! - Cul-vert!* • Tác giả chơi chữ, đồng âm khác nghĩa. Fils de prêtre: đồ con cha xứ (hay cũng có thể hiểu là đồ quạ con, khi thóa mạ nhau).Cul-vert: đồ nô lệ vừa được giải phóng. Một người cao gầy nhỏng, môi loe hếch ngược phô hết cả hàm lợi, trong trang phục sặc sỡ, tô điểm kim cương lấp lánh, xô một tên nhỏ thó bụng phệ đội tóc giả đen làm ra vẻ ta đây to lớn vì đôi giầy của hắn cao hết sức. Đeo đầy nhẫn và vòng tay, tên này vừa đi loạng choạng trên gót giầy, vừa như ngạt thở: - Cul-vert à?! La Frette ư! Ta, hoàng thân xứ Chalais mà mi dám coi ta là nô lệ được giải phóng ư? - Ông hoàng của những kẻ ham tình dục đồng giới thì có, đúng thế, đồ đít xệ! Hệt như Đại công tử, mi thích công tử bột hơn là đàn bà ba hoa. Còn ta, ta ghét cay ghét đắng thói đồi bại Ytalia. Mi hả, mi qua Naples mà không cần dùng cầu*! • Ý chỉ bọn đồng tính luyến ái. (Tất cả chú thích trong truyện là của người dịch). - Ối! Trong suốt cuộc cãi cọ này, cánh cửa phòng khiêu vũ, đã khép lại, vẫn được đèn rọi rất sáng, ồn ã tiếng nhạc, bốc hơi nghi ngút, đầy những động tác cuồng loạn của các vũ công, còn đây, tám người bọn họ, hiện có mặt trong bóng đen băng giá của đường phố. Một tên gù, ngồi chồm hỗm sát một cái cột, cầm một ngọn đèn sáng được đặt trong một cái bong bóng lợn, treo nơi đầu gậy, liền đứng lên ngay, đi về phía họ và gọi gióng từ xa: - Một cây đèn soi đường đưa các ngài về nhà chứ ạ, thưa các Đại công tử?… Bị thọt, hắn đi khập khiễng, người lắc lư. Tóc ép sát tận da đầu, thắt lại sau gáy thành dây giếng, hắn đi vòng quanh họ với chiếc đèn lồng chiếu sáng từng khuôn mặt. Tên Chalais nhỏ bé giang tay tát La Frette, đầu người này lắc mạnh, phả ra một làn bụi phấn đậu tằm. Bị xỉ nhục, tên cao lớn ngậm miệng, mím môi trùm kín hai hàm răng mà hắn đã trang điểm theo lối Hà Lan - quệt bơ vào các lỗ răng sâu, răng cửa và răng nanh, và do vậy mà hắn phải bành miệng, nhe lợi để làm lạnh khối bột sữa nhão ấy, tránh cho nó khỏi chảy ra. Nhưng hiện giờ, đang cơn bực tức cao độ, hắn nghiến chặt môi thành hình đít gà và phồng má trong một mối oán giận nóng bỏng. Khi hắn mở miệng trở lại, ôi thôi lũ răng của hắn trôi đi: «Cậu đã thấy chưa hả, Sain-Aignan? Nó đã tát…» - Mi đã tát anh trai ta hả, cul-vert? Một hiệp sĩ cộc cằn ác độc mười chín tuổi, đội mũ đính nhiều lông dài chĩa tua tủa và một mắt bị chột do đậu mùa, đứng sững trước Chalais. Tên xách đèn lồng, chào hàng dịch vụ chiếu sáng di động cho cả hai bên, biện bạch hành động của mình: - Đêm tối, lũ bất lương, kẻ cướp đường và bọn con trai tồi tệ, thường rình rập khách qua đường đang hối hả trở về nhà… Tám thanh niên đeo tóc giả*, chia thành hai bang, diện mạo báng bổ, tạo những bộ mặt gớm ghiếc, giằng xé các mảnh vải lụa và ru-băng trên trang phục của nhau. Tên xách đèn lồng nâng cái bong bóng sáng của mình lên: Một trong số họ, người vừa bị rủa: «Flamarens, đồ tồi đàng điếm», có vẻ mặt nhợt nhạt. Hắn đã lấy bút vẽ tự họa những đường ven giả xanh lơ, màu của giới quý tộc và của máu tinh chất. Kẻ xách đèn lồng hạ chùm sáng xuống, những cặp giầy trên nền đường lát đá bắt sáng lấp lóa. Dầu bắt đầu bốc hơi: • Đeo tóc giả là biểu trưng rất thịnh hành của giới quý tộc trong thời Vua Louis XIV tại Pháp. - Năm sol một cuốc đê! Năm sol có là gì khi mà, như các ngài đây, đeo đế giày đỏ của những quý tộc gia chứ? Một lưỡi kiếm hiểm độc bốc mùi bội phản được rút ra lóe sáng, khoắng một nhát lên một khuôn mặt còn đang ngỡ ngàng: «Noirmoutier!» Kẻ bị rách mặt, tay kéo thanh kiếm, muốn xọc thủng Noirmoutier như một con lợn. Kẻ mà hắn gọi là d’Antin - «D’Antin, chớ có dính dáng vào đây nhé!» - dẫu vậy vẫn can thiệp vào trận ẩu đả đang có chiều hướng trở nên trầm trọng: «Ê, này, hãy cư xử cho đúng mực đi!» Tên xách đèn lồng nhẩy ngay theo ý anh ta: - Đúng thế, hãy cư xử cho đúng mực… khu rừng tối tăm nhất và ít người qua lại của Triều đình ở gần Paris là một nơi chắc chắn. La Frette nhổ thẳng đám bơ hơi quện trong những gốc răng sâu của mình vào mặt Chalais: - Đồ ruột rỗng, hẹn ngày mai trên bãi hoang tu viện nhé! D’Antin chết đứng người: - Bãi cỏ ư? Các người điên hết cả rồi! Các chỉ dụ đã… Nhưng tên La Frette cao lớn bị xúc phạm, đứng gần Saint Aignan, ra lệnh: - Arnelieu, Amolly, ta đi thôi. Bốn người đi về phía những ô cửa sổ sáng đèn của khu Tuilerie, bốn kẻ kia đi về hướng đối diện. Còn tên xách đèn lồng thì lỉnh mất, vừa ngúc ngoắc bước đi vừa đung đưa thân thể dọc theo phố Sain-Honoré. Ánh sáng trong cái bong bóng của hắn rọi lên một cái bóng gù và nhẩy nhót trên các bức tường trong khi hắn cố ghi nhớ: - La Frette, Saint-Aignan, Amilly, Arnelieu… và Chalais, Flamarens, d’Antin, Noirmou… ⁎⁎⁎ Vào lúc những tia sáng lờ mờ đầu tiên của buổi bình minh thầm lặng vừa tỏa lên trong lớp sương mù dầy đặc bao trùm hết cả bãi cỏ, và khi d’Antin nghe thấy tiếng giầy gắn khuyên bạc của hiệp sĩ Saint-Aignan bước lạo xạo trên những vũng nước đóng băng, thì anh ta quay sang bảo người đứng cạnh, là Noirmoutier, đưa cho mình lọ độc dược Schaffhouse, nó là chất tuyệt vời cho chứng bất tỉnh nhân sự. Paris yên ắng. Gà trống vẫn còn chưa cất tiếng gáy thì cánh xúc phạm Chalais, xếp thành hàng dài trước một dãy cây dẻ phủ đầy băng giá, phát hiện bóng dáng nhợt nhạt lờ mờ của bọn vô lại thuộc băng bị xúc phạm La Frette ló ra từ một cái kho chứa rơm khô mênh mông. Bọn chúng cũng vậy, gióng thẳng hàng tiến thẳng về phía kẻ thù của mình. Họ chẳng bao lâu nữa sẽ chạm mặt nhau, do cánh đồng cỏ rất nhỏ. Bên phải, những khu nhà sang trọng đang ngủ vùi. Bên trái, tu viện của dòng thánh Bru-nô với dãy hành lang và các am thầy tu mà có lẽ chẳng nên đánh động khi hét toáng những lời thóa mạ vô ích làm gì. Kiểu gì đi nữa thì cũng chẳng còn gì để nói với nhau. Họ không còn ở đoạn đó nữa rồi. Chuyện giờ liên quan đến một trận đấu tay đôi cho đến khi có kẻ hồn lìa khỏi xác đầu tiên và D’Antin cảm thấy không được khỏe dưới mái tóc giả xoăn tít nặng trịch trên đầu. Áo khoác hồng điều buông trên vai và mũ đen đội hếch lên kiểu catalogne, dẫu vậy anh ta vẫn chọn đứng trong tư thế đỏm dáng, tiến một chân lên và đặt tay cạnh sườn. Nhưng những ngón tay anh ta run lẩy bẩy. Kể từ lúc tuyên bố trận đấu tay đôi ban nãy, thì cặp mí mắt anh ta đã sưng mọng lên, một màu đỏ tấy thành quầng đã mọc trên trán, tai anh ta toát mồ hôi, một mụn ghẻ xuất hiện sau đầu, những chốc vẩy đụn lên ở cằm và dưới nách trái, khiến anh ta ngứa ngáy. Sự ngẫu nhiên đã xếp đặt cho tuổi trẻ chuyên sống trong sơn son thiếp vàng. La Frette sẽ đối đầu Chalais. Amilly sẽ được dành cho Flamarens. Noirmoutier sẽ đấu với Arnelieu, còn D’Antin nhìn thấy hiệp sĩ Saint-Aignan tiến thẳng về phía mình. Tóc xoăn kiểu Hy lạp, con người hình chim này, với những chiếc lông vũ dài và cặp mắt chột do lây bệnh từ lũ điếm trong các nhà thổ, ngắm nhìn đối thủ của mình từ trên xuống dưới, trong lớp sương mù mà không hề giảm bước, với một khuôn mặt tự tin không biểu lộ chút sợ hãi. Anh ta có vẻ thoải mái với cây kiếm trong tay sẵn sàng rửa danh dự cho anh mình. Anh ta tiến nhanh và chưng ra ánh thép của lưỡi kiếm. D’Antin tự hỏi khi nào thì hắn ta sẽ dừng lại, tập trung chú ý, nhưng kẻ kia tiếp tục tiến như thể hắn sẽ băng qua cả hàng cây dẻ. Tóc! D’Antin cảm thấy xương trên trán mình nát vụn do lưỡi kiếm xuyên thấu toàn bộ đầu mình, kéo theo đằng sau hộp sọ mớ tóc giả mà anh cố tóm lại, ngố thật… thật ngu khi chết như thế trong một buổi sáng giá lạnh và rớt thẳng lưng xuống trong chiếc quần bó màu xám ngọc trai, và bên dưới bằng lụa đỏ đã được người ta gắn chặt bằng nịt, khi mà tất cả xung quanh bạn, đã chuyển thành một cuộc tàn sát. Bên phải, ba người cùng cạ của anh rên rỉ trên cỏ ướt. Đám đối thủ bỏ đi. Tên Chalais nhỏ bé gượng đứng lên và bị sai mắt cá chân do cặp đế giầy quá cao. Hắn áp một tay lên bụng, nơi máu đang đổ xối xả. Flamarens vừa lê sau mình một chân dính máu, vừa nhẩy loi choi về phía cái bóng nhợt nhạt của một cỗ xe. Noirmoutier, vai rách nát, chạy về phía một con tuấn mã ở hướng ngược lại. Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Của Hầu Tước Montespan của tác giả Jean Teulé.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Daniel Ellsberg
Năm 1971, Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc từng tham chiến ở Việt Nam, đã cho công bố 7.000 trang tài liệu tối mật cho báo chí, tạo nên một làn sóng phản đối chiến tranh Việt Nam mạnh mẽ chưa từng có tại Mỹ. Nhận bằng tiến sĩ Kinh tế Đại học Harvard năm 1962, nhưng số phận lại đưa ông đến làm việc ở Bộ Quốc phòng và sau đó ông được phái sang chiến trường Việt Nam. Sau hơn 3 năm ở Việt Nam, làm việc cho cố vấn đặc biệt của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, năm 1967, Daniel trở về Mỹ, ông được phân vào nhóm nghiên cứu tối mật về hoạch định chính sách đối với Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng McNamara. Tại đây, ông đã được trực tiếp tiếp xúc với các tài liệu mật của Nhà Trắng và biết rõ kế hoạch muốn leo thang chiến tranh Việt Nam của Tổng thống, mặc dù bề ngoài Nixon và bộ sậu của ông ta ra sức nói dối để bao che cho hành động leo thang và kéo dài cuộc chiến của mình. Là một người yêu chuộng hoà bình và đã từng có thời gian tham chiến tại Việt Nam, hiểu rõ bản chất phi nghĩa của cuộc chiến, Dan đã đánh cược cả cuộc đời mình, sao chụp 7.000 trang tài liệu của Hồ sơ Lầu Năm Góc. Ông bắt đầu công việc này từ năm 1969 và đến năm 1971, ông đã đi đến quyết định làm chấn động nước Mỹ, công bố toàn bộ tài liệu trên tờ Thời báo New York. Dan đã từng nói: Lẽ ra, nếu tôi có thể đưa các tài liệu đó ra từ khi tôi mới vào làm việc tại Lầu Năm Góc và Nhà Trắng, vào năm 1964-1965, thì có thể những tài liệu đó đã góp phần ngăn chặn cuộc chiến". Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) là cuốn hồi ký của Daniel, xuất bản năm 2002, đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất, gây xôn xao nước Mỹ. Cuốn sách kể lại cuộc hành trình đi tìm sự thật của Dan và phanh phui những âm mưu dối trá của Tổng thống Nixon và Lầu Năm Góc về cuộc chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, (tháng tám năm 1964). Tháng Ba năm 2006, Daniel trở lại thăm Việt Nam, và được trao Kỷ niệm chương "Vì hoà bình hữu nghị giữa các dân tộc", tôn vinh những cống hiến không mệt mỏi của ông đã góp phần thức tỉnh dư luận về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Ông đã cho phép Nhà xuất bản Công an nhân dân dịch và xuất bản cuốn hồi ký của mình. Sau một thời gian làm việc, cuốn sách đã đến tay bạn đọc. Hy vọng cuốn sách sẽ giúp bạn đọc có một góc nhìn đa diện hơn về cuộc chiến và qua đó thấy rõ tâm lòng của một người ở phía bên kia chiến tuyến đối với đất nước nhỏ bé này. *** Tối ngày 1 tháng mười năm 1969, tôi rảo bước nhanh qua phòng bảo vệ của Công ty Rand[I] ở Santa Monica, tay xách một vali chứa đầy tài liệu tối mật mà tôi dự tính sẽ sao chụp trong đêm hôm đó. Số tài liệu này là một phần trong công trình nghiên cứu tối mật gồm 7.000 trang liên quan tới các quyết định của Mỹ ở Việt Nam, sau này được biết đến dưới tên gọi quen thuộc là Hồ sơ Lầu Năm Góc. Phần còn lại nằm trong két đựng tài liệu ở văn phòng của tôi. Tôi quyết định sao chụp toàn bộ và đưa ra công chúng bộ hồ sơ này, hoặc là thông qua các cuộc điều trần tại Thượng viện hoặc là qua báo chí nếu tôi thấy điều đó là cần thiết. Tôi tin rằng tôi có thể sẽ phải ngồi tù suốt đời vì việc làm này. Cuốn hồi ký này sẽ tập trung mô tả quá trình hành động công bố tài liệu của tôi. Trong 11 năm, từ giữa năm 1969 đến khi kết thúc cuộc chiến tranh vào tháng Năm năm 1975, tôi cũng như rất nhiều người Mỹ khác đặc biệt quan tâm tới sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Vào thời gian đó, thoạt tiên tôi nghĩ đó chỉ là một vấn đề, tiếp đến là một sự bế tắc, nhưng rồi sau đó là một thảm hoạ về đạo đức và chính trị và cuối cùng trở thành một tội ác. Ba phần đầu của cuốn sách tương ứng với ba giai đoạn phát triển về nhận thức của tôi. Những sai phạm và hành động sau đó của tôi đã phản ánh quá trình thay đổi nhận thức đó. Khi nhận thức cuộc xung đột chỉ là một vấn đề tôi đã cố gắng góp sức để giải quyết nó, khi nhận ra sự bế tắc, chúng ta (Nước Mỹ - ND) đã cố gắng tư giải thoát mà không gây phương hại tới lợi ích của quốc gia khác, và tôi đã nỗ vạch trần và chống lại cuộc chiến khi ý thức mách bảo nó đã trở thành một tội ác với hy vọng chấm dứt nó càng sớm càng tốt. Qua quá trình nhận thức trên, tôi đã vận dụng nhiều cách khác nhau nhằm tránh khả năng chiến tranh leo thang lên cao hơn. Nhưng gần đến giữa năm 1973, khi tôi phải ra trước Toà án liên bang vì nhũng hành động của tôi vào cuối năm 1969, tôi đã nói không ai, kể cả tôi, thành công trong mục đích và cố gắng của mình. Những nỗ lực nhằm chấm dứt cuộc xung đột - cho dù nó được nhìn nhận như là một cuộc kiểm nghiệm bị thất bại, một vũng lầy hay một sai phạm về mặt đạo lý - dường như cũng chẳng thấm vào đâu so với những cố gắng để chiến thắng trong cuộc xung đột đó. Vì sao? ... Mời các bạn đón đọc Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam của tác giả Daniel Ellsberg.
Những Câu Chuyện Tâm Linh - Gary Zukav
Đây là một quyển sách tập hợp những câu chuyện có thật về hành trình khám phá nội tâm của tôi. Trong đó, đôi khi tôi dùng tên thật của những nhân vật, đôi khi tôi thay bằng những tên gọi khác. Có lúc tôi kể chuyện theo đúng như những gì đã xảy ra trong thực tế, và đôi khi tôi kết hợp nhiều câu chuyện lại làm một. Thi thoảng các câu chuyện không kể lại những sự việc đúng y như chúng xảy ra, nhưng các câu chuyện đó cũng là có thật. Người Lakota, một tộc người thổ dân châu Mỹ, truyền lưu câu chuyện về một phụ nữ cưỡi con nghé màu trắng. Bà là người đã cho bộ tộc của họ cái tẩu thiêng. Một ngày kia, có phóng viên hỏi một cụ già Lakota rằng cụ có tin câu chuyện về người phụ nữ kỳ lạ này là thật hay không. Cụ trả lời: - Tôi không biết nó có thật sự xảy ra đúng theo cách mọi người truyền tụng hay không, nhưng tự bản thân anh có thể hiểu là chuyện đó có thật. Và bạn cũng có thể nhận thấy tất cả những câu chuyện trong quyển sách này đều là thật. Bạn cần nhìn sâu vào bên trong tâm hồn mình để chứng thực điều đó. Mọi câu chuyện về linh hồn, từ quyển sách này hay bạn nghe được ở đâu đó, đều đòi hỏi bạn phải nhìn vào nội tâm mình để biết xem nó có thật hay không. Điều này có thể thật với người này, nhưng lại không thật đối với người khác. Đó là cách tiếp cận của quyển sách về Những câu chuyện tâm linh. Chẳng hạn, có người cho rằng Vũ Trụ ở trạng thái chết, “trơ ỳ” và mọi sự việc trong cuộc sống đều xảy ra tình cờ, ngẫu nhiên. Nhưng người khác, trong đó có tôi, lại nghĩ Vũ Trụ rất sống động, thông thái và đầy lòng trắc ẩn. Nhìn nhận Vũ Trụ chết là một câu chuyện. Nhìn nhận Vũ Trụ sống động lại là một câu chuyện khác. Vậy thì theo bạn, câu chuyện nào là có thật? Chính bạn phải quyết định điều đó. Mỗi câu chuyện trong quyển sách này đều mang đến cho bạn cơ hội để quyết định xem nó có là thật đối với bạn hay không. Cụ già người Lakota nói rằng chính bản thân bạn có thể tự suy xét xem khi nào một câu chuyện là thật, nhưng trước khi suy xét, bạn phải biết về câu chuyện đó trước đã. Có nghĩa là bạn phải suy nghĩ về nó và, thậm chí quan trọng hơn, khám phá xem bạn cảm nhận gì về nó. Bạn có thể đọc tất cả những câu chuyện này trong vài ngày, theo thứ tự, hoặc chọn đọc từng câu chuyện riêng rẽ tùy thích. Vì có tới năm mươi hai câu chuyện, cho nên bạn có thể đọc mỗi tuần một câu chuyện và dành ra thời gian để ngẫm nghĩ về nó. Ngay cả nếu bạn đọc hết tất cả chỉ trong một ngày, bạn vẫn có thể đọc lại chúng, mỗi tuần một câu chuyện chẳng hạn, để có thêm thời gian suy ngẫm về từng câu chuyện. Tôi yêu thích Những câu chuyện tâm linh. Đối với tôi, bất kỳ câu chuyện nào khiến tôi hiểu rõ giá trị bản thân và giá trị của bạn, cũng như khiến tôi hạnh phúc khi biết rằng tất cả chúng ta cùng tồn tại bên nhau kể cả khi mọi việc trở nên khó khăn, thì tất thảy đều là Những câu chuyện tâm linh. Bất kỳ câu chuyện nào giúp tôi quý trọng Trái Đất và nhìn nhận Trái Đất như một Người Bạn Lớn, cũng là Những câu chuyện tâm linh. Tôi hạnh phúc khi chia sẻ Những câu chuyện tâm linh này với các bạn. Mời các bạn đón đọc Những Câu Chuyện Tâm Linh của tác giả Gary Zukav.
Hồ Quý Ly - Nguyễn Xuân Khánh
Bằng nghệ thuật tái hiện khoáng đạt, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã lật lại lịch sử thời kỳ cuối đời nhà Trần, góp thêm tiếng nói khám phá xã hội và con người Hồ Quý Ly - một nhân vật mà hơn 600 năm qua vẫn còn nhiều tranh cãi về ông. Hơn thế, cuốn tiểu thuyết còn là bức tranh đẹp về Thăng Long ngàn năm văn hiến với những địa danh cổ nổi tiếng, những cảnh sinh hoạt thôn dã, những lễ hội dân gian, những phong tục tốt đẹp...được lưu truyền hay đã bị mai một theo năm tháng. *** Hồ Quý Ly (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tự Lý Nguyên, là hoàng đế sáng lập nhà Hồ Việt Nam. Ông trị vì được 1 năm thì trao ngôi cho con là Hồ Hán Thương để lên ngôi làm Thái thượng hoàng, cho đến khi ông bị bắt qua nhà Minh sau khi bị thua trận vào năm 1407. Về dòng dõi Hồ Quý Ly, sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển VII chép: ...Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, vốn là người Triết Giang bên Trung Quốc, thời Hậu Hán (947-950) được vua Hán cử sang làm Thái thú Châu Diễn (tức vùng Diễn Châu, Nghệ An). Đến thời loạn mười hai sứ quân, họ Hồ dời vào hương Bào Đột (nay là xã Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An) và trở thành một trại chủ. Đến thời Lý, trong họ có người lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn rồi lấy họ Lê làm họ của mình. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Liêm, khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ... *** Hội thề Đồng Cổ là ngày lễ lớn của Thăng Long. Nó được cừ hành vào ngày mồng bốn tháng tư hàng năm. Đó là một lễ hội thuần Việt rất được dân kinh đô xem trọng ở thời Lý Trần, tiếc rằng đã bị các triều vua sau này nho hoá bỏ mất.  Sách cổ chép rằng vua Lý Thái Tông, thủa còn là thái tử, phụng mạng vua cha đi đánh Chiêm Thành, năm Canh Thân (1020), khi đến vùng Đan Nê, An Định, Thanh Hoá, đóng quân dưới chân một quả núi. Canh ba đêm ấy, trong cõi mộng mung lung, nhà vua chợt thấy một dị nhân, mình cao tám thước, mày râu cứng nhọn, mặc áo giáp, tay cầm binh khí, đến trước cúi đầu tâu rằng: “Tôi là Thần núi Đồng Cổ, nghe tin thái tử đem quân đi dẹp giặc phương Nam, tôi xin theo giúp phá giặc, để lập chút công nhỏ”. Thái từ cả mừng vỗ tay khen ngợi rồi tỉnh dậy. Sau đó tiến quân đánh chiếm quả nhiên toàn thắng. Khi trở về qua núi Đồng cổ, thái tử sửa sang lễ tạ rồi rước thần vị về kinh đô Thăng Long. để giữ dân, hộ nước. Đền thờ lập sau chùa Thánh Thọ, thuộc địa phận thôn Đông, phường Yên Thái (làng Bưởi).  Khi Lý Thái Tổ chết, thái tử lên ngôi vua, tức vua Lý Thái Tôn. Đêm nằm mộng thấy thần Đồng Cổ đến báo rằng: “Ba vị em vua là Vũ Đức Vương, Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương âm mưu làm phản”. Lúc vua tỉnh dậy. Sai Lê Phụng Hiểu dàn quân bố trí phòng bị. Sự việc xảy ra quả đúng như giấc mộng. Loạn ba vương được dẹp tan. Đến đây, vua xuống chiếu xây đàn thề ở miếu Đồng Cổ, và hàng năm cứ đến mồng bốn tháng tư thì trăm quan hội họp làm lễ ăn thề.  Năm nay, ông vua già Trần Nghệ Tông cho mở hội thề to hơn mọi năm. Tháng hai, viên quan coi việc tế lễ đã cho thợ đến sửa sang miếu thờ, cạo rêu, quét vôi, tô tượng, thay những câu đối cũ. xây dựng lại những chỗ đổ nát, sửa sang cây cối, trồng hoa, lát đường... và soát xét lại đồ tế khí. Đồ tế khí ở đây có hai thứ có thể gọi là linh vật của đất nước.  Thứ nhất là chiếc chuông chùa Yên Tử. Hồi vua Trần Thái Tôn bỏ nhà lên núi Yên Tử định cắt tóc đi tu, quan thái sư Trần Thủ Độ kéo cả triều đình lên theo, cầu xin vua về cho hợp lòng dân. Việc đi tu của vua không thành. Khi vua chia tay, Phù vân quốc sư nghĩ phải có cái duyên hạnh ngộ lớn thì mới có một ông vua lên tận chốn núi cao hẻo lánh này để tìm Phật. Ông bảo nhà vua: “Trong núi không có Phật. Phật ở trong lòng người”. Tuy nhiên, để kỷ niệm cái duyên kỳ ngộ ấy, phù vân quốc sư tặng nhà vua Đại Hồng Chung ở chùa Vân Yên đem về kinh đô.  - Tâu bệ hạ. Đây là chiếc chuông quý truyền mấy trăm năm suốt triều nhà Lý. Đại Hồng Chung ít khi dùng đến, chỉ dùng vào dịp đầu xuân. Mỗi năm khi chuông rung lên là mây mù ùn ùn kéo đến. Mây trắng che kín đầu Yên Từ. Chuông gọi mây xong lại gọi mưa. Khi hồi chuông dồn dập binh boong ngân nga lần thứ hai thì những hạt nước li ti nằm trong mây sữa run rẩy, rồi chúng bay lượn quấn quít với nhau và thành những hạt to rơi xuống. Mưa rào. Đó là phật lộ. Mong rằng tiếng chuông của đức Phật từ bi được vang lên trên kinh thành Thăng Long. Mong rằng nước mưa của Phật từ bi sẽ nhuần thấm trong lòng người dân kinh kỳ.  Chiếc chuông Yên Tử đem về được treo ở chùa Thánh Thọ. Mấy năm trước, nhà sư Phạm Sư Ôn tập họp dân lưu tán đói khát nổi loạn. Giặc thày chùa kéo về kinh thành Thăng Long đốt phá. Ông vua già Trần Nghệ Tông, ông vua trẻ Trần Thuận Tôn và cả hoàng gia phải rời kinh đô đi lánh nạn. Đội cấm quân phía hữu kinh thành đóng binh ở chùa Thánh Thọ. Đội quân này đã gây cho quân nổi loạn nhiều thiệt hại. Tức giận, toán giặc thày chùa đã tàn phá, đốt trụi khu chùa thắng cảnh đẹp nhất Thăng Long. Cũng may khi giặc rút, nhân dân đã chữa cháy, cứu được tháp chuông. Giặc thày chùa mà lại đốt chùa. Ông vua già thở dài, và chẳng lẽ để chiếc chuông linh thiêng nằm chơ vơ giữa hoang phế, nên ông đã sai mang chuông đến đền Đồng Cổ.  ... Mời các bạn đón đọc Hồ Quý Ly của tác giả Nguyễn Xuân Khánh.
Yến Huyết - Nguyễn Khắc Phục
Mùa cưới rộ lên ở Hàm Dương. Thành phố bỗng trở nên vô cùng quyến rũ. Khắp nơi nhuốm đầy vẻ diễm tình, từ những làn sóng biển màu lục đến nụ cười của du khách. Giữa lúc đó, người ta đồn rầm lên chuyện “Ma Nữ” xuất hiện trên đảo Phu Thê, một hòn đảo nhỏ ở eo biển phía bắc thành phố, cách bờ khoảng hơn nghìn mét. Ngày nước ròng có thể lội ra đảo câu cá, mò trai vọp và cầu gai. Trên đảo, khách sạn Na-ga đang được xây dựng dở dang với những ngọn tháp mô phỏng kiểu tháp Chàm cổ. Đùng một cái, xảy ra những vụ bê bối trên công trường, việc thi công khách sạn phải đình chỉ… Người ta quả quyết rằng, đêm nào cũng thấy một người đàn bà mặc áo trắng xõa tóc đi lại trên cái khách sạn bị bỏ hoang, đúng giờ tý, từ bốn ngọn tháp tối tăm cất lên tiếng than khóc rền rĩ, ai oán của những bóng ma. Rồi người đàn bà mặc áo trắng bay lên sân thượng, cười rú từng cơn hú gọi cuồng phong. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, tiếng gió hú, tiếng sóng biển gầm thét làm thành bản hòa tấu của đêm tối và chết chóc. Ma Nữ là ai vậy? Thực ra đó chỉ là một người đàn bà chạy trốn cái bầu không khí sống động của mùa cưới thành phố, đêm đêm lén lút đổ bộ lên đảo Phu Thê… Nàng không tới đấy để ngắm trăng. Nàng cũng chẳng tìm kiếm cái gì ở đấy. Nàng chỉ trở lại với cái thiên đường xa xưa, ngắn ngủi, nguyên sơ và nồng nhiệt của nàng. Mười tám tuổi, chỉ một đêm duy nhất tại thiên đường đó, nàng đã bước từ cuộc đời trinh nữ lên kiếp đàn bà. Để rồi cái thiên đường ấy bị bỏ hoang mãi mãi. Nàng từ đâu đó trong thành phố, lầm lũi ngược sông núi, băng qua rừng thông, rồi một mình một bóng, tiếp tục cuộc độc hành trong đêm. Nàng cười vô cớ trong lúc trèo từng bậc thang xoáy ốc lên đỉnh tháp. Ngọn tháp chưa kịp đúc mái, thành thử nàng gần như mặt đối mặt với khoảng không rợn người. Nàng vội tựa lưng vào vách bê-tông nhám lạnh để trấn tĩnh. Gió lộng lau khô những giọt mồ hôi đầm đìa trên mặt lúc nàng trèo lên tháp và bây giờ, nó lại rũ tung mớ tóc nàng. Nàng rùng mình nhìn xuống mặt biển hun hút, thảng thốt vì cảm giác kinh dị xâm chiếm tâm trí nàng. Nàng ngồi bệt xuống sàn tháp, lẩn trốn cái chiều sâu vừa hiện thể trong cặp mắt mở to chứa đựng nỗi chống chuếnh của mình. Dưới chân nàng là vực thẳm vô định. Trên đầu nàng, bầu trời đêm vần vũ đầy hăm dọa... Mấy giây sau, nàng chậm rãi đứng dậy, mon men đến sát hàng lan can sắt tạm thời - cái giới hạn mong manh giữa nàng và khoảng trống. Gió thốc ngay vào mặt, bất giác nàng bíu chặt lấy lan can như sợ bị gió cuốn đi. Nàng cố dò dẫm tìm một điểm tựa nào đó cho đôi mắt nàng khỏi thất lạc trong bóng tối mịt mù. Càng khuya gió biển càng mạnh lên, thổi dạt đi ánh trăng vốn mỏng mảnh, yếu đuối. Trên mặt biển chỉ còn lại chút hồi quang nhỏ nhoi của đêm trăng ngà. Nàng lạnh, da mặt hứng gió quá lâu đã dại hẳn đi và mất luôn cảm giác nhức buốt. Cái lạnh còn ngấm cả vào đôi mắt của nàng khiến chúng sáng lên thứ ánh sáng của khối chì bị chém sạt một góc... Nỗi sợ hãi dần dà tiêu tan. Mất nó, tâm hồn nàng càng trở nên trống rỗng như một đoàn va-gông phế thải nằm trên nhánh ray phụ của một ga xép. Nàng không còn chủ ý nào rõ rệt. Mọi giác quan của nàng tạm thời tê liệt dưới ánh trăng, trong gió rét, nhưng tận cùng linh hồn nàng lay động một nỗi khát khao tự giải thoát. Nàng như một con chim sa xuống bãi lầy, đôi cánh mỏng của nó dính bùn bê bết, hai chân nó thì lại quá mảnh khảnh, không đủ sức lấy đà cho nó cất mình lên. Con chim đáng thương ấy thuộc loài yến huyết. Loài yến không nhả rãi ra làm tổ như những loài yến khác, mà đúc tổ bằng máu tự tim mình! Trong ký ức của nàng, bao giờ hình ảnh Võ Dinh cũng hiện lên dịu dàng và khốc liệt… Mời các bạn đón đọc Yến Huyết của tác giả Nguyễn Khắc Phục.