Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xứ Tuyết

Xứ tuyết  là tiểu thuyết của văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari, được khởi bút từ 1935 và hoàn thành năm 1947. Trước khi xuất bản dưới dạng ấn phẩm hoàn chỉnh, tác phẩm đã được đăng tải thành nhiều kỳ trên nhật báo. Xứ tuyết được đánh giá là quốc bảo của nền văn học Nhật Bản. Cùng với Ngàn cánh hạc và Cố đô, Xứ tuyết đã mang lại cho tác giả giải thưởng Nobel văn học vào năm 1968, nhân kỷ niệm 100 năm (1868-1968) hiện đại hóa văn học Nhật Bản với công cuộc cải cách Minh Trị. Xứ tuyết mang âm hưởng truyền thống lữ hành của các thi nhân văn sĩ Nhật Bản từ xa xưa. Câu chuyện theo bước chân của chàng trai trẻ Shimamura du hành ngoạn cảnh và tắm suối nước nóng. Shimamura, sinh ra và lớn lên ở một khu phố thương mại của Tokyo, đã lập gia đình, nhưng lại say mê với cái đẹp như bị một huyền lực điều khiển, vì vậy chàng đam mê theo học nghệ thuật vũ đạo Tây phương và hoạt kịch. Là một chàng trai tài tử nhàn rỗi thiếu thành khẩn với chính mình, lại có đôi lúc khát vọng tự tìm hiểu bản thân thôi thúc, nên chàng thích lên miền núi một mình và đã ba lần lên xuống xứ tuyết phía Bắc Nhật Bản trong ba mùa khác nhau Xuân - Thu - Đông. Trong lần thứ nhất vào thời điểm mở cửa mùa leo núi, mùa xuân bắt đầu với chồi non xanh thẳm và hương thơm ngát, chàng gặp nàng ca kỹ (geisha) Komako. Komako là một cô gái đại diện cho vẻ đẹp tràn trề nữ tính, mạnh mẽ, tương phản giữa thánh thiện và trần tục, giữa tỉnh táo và đam mê, giữa vẻ đẹp sáng ngời nét thơ ngây bên ngoài và sức trầm lắng của nội cảm. Cảm giác mà nàng đem lại cho Shimamura là sự tươi mát và thanh sạch tuyệt vời. Trong những đêm khi mà nàng giúp vui tiệc tùng bằng cách đánh đàn samisen cho những khách du hành, uống rượu say và mệt lả, nàng về bên Shimamura với sự nồng nhiệt khiến chàng rung động đến tận tơ lòng. Con tàu đưa Shimamura vượt qua đường hầm đến xứ tuyết lần thứ hai để gặp lại Komako vào mùa đông, vài tuần trước khi mở mùa trượt tuyết. Trong ánh sáng mờ ảo, Shimamura mê mẩn ngắm khuôn mặt người thiếu nữ ngồi đối diện với chàng ngời lên trên tấm kính cửa sổ toa tàu, với vẻ đẹp vừa huyền ảo vừa siêu phàm, với sự duyên dáng kỳ lạ của khuôn mặt trôi qua phong cảnh ban đêm. Cô gái đó, chàng còn gặp lại ở vùng băng tuyết, chính là Yoko. Một ca kỹ với vẻ đẹp trong trắng và xa vời, mong manh và mờ ảo, tin cậy và thơ ngây ngay cả trong cách nàng thể hiện tình cảm với Shimamura, với giọng nói "truyền cảm, trong thanh và đẹp đến não lòng", khiến chàng mỗi lần tiếp xúc là mỗi lần khám phá thêm một nét quyến rũ nơi nàng. Rồi những ngày đầu mùa thu với lá phong đỏ thắm, Shimamura lại rời Tokyo để đi nghỉ ở xứ tuyết. Ở đó, giữa hai người con gái xứ tuyết, trong khung cảnh của một vương quốc mà cảnh sắc, con người, phong tục, lối sống đều hồn hậu, chất phác và dịu dàng, chàng mẫn cảm sâu sắc trước cái đẹp nhưng lại đắn đo lưỡng lự giữa hai mối tình, một nặng về thể xác, một nặng về tâm hồn. Say đắm Komako nhưng trong Shimamura luôn hiện diện ánh sáng kỳ ảo lóe lên từ Yoko. Xúc cảm tình yêu của chàng dành cho Yoko ngày càng lớn dần khi chàng cảm nhận được cái mờ ảo và mong manh của vẻ đẹp khó diễn tả ấy, một vẻ đẹp chàng khao khát theo đuổi và nắm bắt cả đời. Trong khi Komako càng đến bên chàng thân thiết, gần gũi, mãnh liệt và hy sinh bao nhiêu, thì cứ mỗi lần rời xa xứ tuyết chàng lại thấy nàng biến mất không còn lưu lại chút dư tình trong tâm trí. Tình yêu của Shimamura với Komako bắt đầu chớm những giận hờn đầu tiên. Komako hoang mang không biết Shimamura còn yêu mình thật hay không, còn chàng cũng không sao hiểu nổi sự lạnh lùng của lòng mình, tại sao mình không thể sống được mãnh liệt, trọn vẹn và hy sinh trong dâng hiến không đòi hỏi chút gì trả lại như nàng. Đúng vào lúc Shimamura quyết định rời xa trạm nước nóng ở xứ tuyết để tránh cơn bão lòng và cắt đứt duyên nợ một cách lặng lẽ thì mọi sự đã kết thúc trong bi thảm. Trong một buổi chiếu bóng tại một nhà kho gần nơi chàng ở, một đám cháy dữ dội đã xảy ra. Mặt đất rừng rực trong tia lửa và tàn tro bốc cao lên tận bầu trời đêm, một bầu trời với dải Ngân Hà lóng lánh trong ánh sáng đẹp một cách ma quái. Yoko, người yêu thuần khiết và mối tình lý tưởng của chàng đã chết trong đám cháy đó. Khi chàng chạy tới thì thấy thân hình bất động của Yoko với gương mặt thanh tú và thánh thiện trên đôi tay Komado, còn Komako thì lời nói như mê sảng và vẻ mặt như sắp hóa điên. Chàng lảo đảo ngẩng mặt lên trời và có cảm giác dải Ngân Hà trôi tuột vào trong người chàng với tiếng gầm thét dữ dội. *** Trong “Xứ tuyết”, thiên nhiên Nhật Bản hiện lên giản dị và tĩnh mịch, mong manh và u huyền. Những tác phẩm của Yasunari Kawabata đã giữ một vị trí đặc biệt trong văn học cận-hiện đại Nhật Bản nói riêng và cho cả nền văn học Nhật Bản nói chung. Trong bộ ba tác phẩm giúp Kawabata dành giải Nobel văn học (Ngàn cánh hạc, Cố đô, Xứ tuyết), tiểu thuyết Xứ tuyết thể hiện quan niệm thẩm mỹ trong truyền thống của người Nhật Bản. Đó là bài thơ về cảnh sắc thiên nhiên, là bài ca về tình yêu, cũng là nơi tìm lại vẻ đẹp Nhật Bản. Nhóm sinh viên khoa Ngữ văn trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã thực hiện nghiên cứu khoa học “Thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản trong quan niệm Kawabata”, thông qua tiểu thuyết Xứ tuyết của ông. Biên tập viên Sóng Trẻ xin lược trích chương 2 của báo cáo khoa học, “Vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản” ở bài đăng này. Vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản Trong Xứ tuyết, thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp xuất phát từ chính những quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata. Cái đẹp phong phú của tự nhiên hiện ra từ chính vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên xứ tuyết. Thiên nhiên xứ tuyết là một bài thơ Haiku bằng văn xuôi dung hợp trong đó những quan niệm thẩm mỹ nổi bật nhất của Kawabata. Từ đặc trưng của các nguyên lý thẩm mỹ và nội dung cụ thể của tiểu thuyết Xứ tuyết, chúng tôi tiến hành phân loại và tìm hiểu vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ của Kawabata với 4 nội dung: 1. Thiên nhiên mang vẻ đẹp giản dị, gần gũi với cuộc sống (Wabi) 2. Thiên nhiên mang vẻ cô đơn, tĩnh mịch và dấu ấn thời gian (Sabi) 3. Thiên nhiên trong cảm nhận về sự mong manh, u buồn (Aware) 4. Thiên nhiên mang vẻ đẹp u huyền (Yugen) 1. Vẻ đẹp giản dị, gần gũi với cuộc sống 1.1. Thiên nhiên với những sự vật nhỏ bé Trong cảm nhận của Shimamura, bên cạnh những giây phút thiên nhiên hiện ra với vẻ lung linh kì ảo thì đó là hình ảnh thiên nhiên với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc: “Lưng chừng dốc trên lùm cỏ cao và đám bụi rậm, là một bụi tre lùn rậm rạp mà cành tỏa ra mọi phía. Gần ngay cửa sổ, có một vuông vườn với những luống khoai lang, củ cải, khoai tây vươn thẳng. Mảnh vườn thật bình thường lại rực rỡ ánh ban mai khiến Shimamura được hưởng lần đầu tiên thứ màu xanh tươi tắn lạ, như được đánh bóng lên trong buổi sáng mát lành”. Hình ảnh bụi tre, vườn tược với những luống khoai lang, củ cải… giống như những biểu tượng của một làng quê hồn hậu, giản dị. Vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của vùng đất phương Bắc băng giá hiện lên từ chính những hình ảnh giản dị này. Thiên nhiên xứ tuyết dường như mất đi cái lạnh lẽo, cô đơn trong mỗi trận bão tuyết mà trở về với vẻ đẹp thường ngày. Hình ảnh thiên nhiên phương Bắc đối lập với sự hoa lệ, ồn ào của Tokyo chính là những gì mà người lữ khách Shimamura đang tìm kiếm. Dường như có một sự cách biệt rất lớn giữa cuộc sống thành thị và thiên nhiên ở xứ tuyết. “Đó cũng là khoảng cách giữa hai cõi: thế giới loài người đang chìm đắm trong chiến tranh, trong lối sống chạy theo dục vọng tầm thường, tâm hồn chai sạn do ảnh hưởng của nền công nghiệp cơ khí hiện đại và thế giới thiên nhiên hoang sơ, trinh bạch còn lưu những giá trị truyền thống”. Qua nhận định trên của TS. Nguyễn Thị Mai Liên, vẻ đẹp Wabi hiện lên trong hình ảnh thiên nhiên xứ tuyết cũng chính là giá trị của cái đẹp theo quan niệm thẩm mỹ Nhật Bản – cái đẹp đơn sơ, giản dị. [...] 1.2. Thiên nhiên trong nhịp sống thường nhật Thiên nhiên xứ tuyết hiện lên trong nhịp điệu cuộc sống thường ngày, phập phồng hơi thở của cuộc sống con người. Thiên nhiên thấp thoáng bóng dáng của con người, của những ngày sống đơn điệu mà đẹp đẽ, yên bình. Trong xứ tuyết, vẻ đẹp của ngày mùa, của những bông lúa hiện lên với tất cả những gì thanh bình, ấm áp. Đó là cuộc sống con người, cuộc sống của vùng núi phía Bắc – một cuộc sống giản đơn êm ả bên cạnh sự lạnh lẽo, dữ dội của những ngày tuyết phủ: “Lúa khô cũng phơi trên sào trước nhà yoko trong cánh đồng thoai thoải ngăn cách với đường. Một dãy dài treo thành một bức rèm giữa đám cây hồng, trước bức tường trắng bao quanh khu vườn đến tận lỗi vào nhà bên cạnh, một dãy khác, ở góc phải, men theo rìa cánh cổng trước vườn, chìa ra một góc để lấy lối đi lại. Trong đồng lúa, những cây khoai sọ vẫn đang xanh tốt, tàu khỏe, lá cứng cáp; ngược lại, những đóa thược dược và những hoa hồng thì đã héo tàn. Chiếc ao sen nuôi cá vàng lấp lõ phía sau những tầng lúa…”. Vẻ đẹp giản dị của thiên nhiên xứ tuyết đã tái hiện nguyên vẹn nhịp sống thường ngày của con người nơi đây. Đó là những vẻ đẹp vẫn luôn tồn tại trong đời sống, vẻ đẹp của mỗi ngày trôi qua ở vùng đất phương Bắc. Nhưng dưới con mắt của Shimamura, nó hiện ra tràn đầy hơi thở, tràn đầy sức sống, nhịp sống chảy trôi, tràn đầy bóng dáng của con người. 2. Vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch và dấu ấn thời gian 2.1. Thiên nhiên mang vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch Sabi được Kawabata khơi dậy trong thiên nhiên Xứ tuyết giống với vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch trong mỹ học Nhật Bản trung đại với những vần thơ của Basho. “Tác phẩm không chỉ mang phong cách haiku mà còn gợi nhớ đến tập nhật kí du hành của Basho là Oku no hosomichi (Con đường sâu thẳm). Cả hai đều tìm kiếm cái đẹp trong sâu thẳm thiên nhiên ở tận phương Bắc: Oku của Basho và Xứ tuyết của Kawabata. Cả hai đều tìm kiếm cái tố phác chưa bị những hội chợ phù hoa làm vẩn đục”. Nhận định trên đây của Nhật Chiêu đã đặt vẻ đẹp ấy trong sự đối sánh với những “Hội chợ phù hoa” của phương Tây. Có thể nói, vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch của thiên nhiên là vẻ đẹp dường như ngưng đọng trong không gian xứ tuyết, không pha lẫn sự ồn ào, náo nhiệt mà trái lại là vẻ đẹp của sự yên tĩnh, thâm trầm. Sabi với vẻ cô đơn, tĩnh mịch hiện lên trong thiên nhiên xứ tuyết là hình ảnh những cây bá hương và sự yên tĩnh của những khu rừng bá hương. “Thân của những cây bá hương ở đằng sau phiến đá cô ngồi vút lên thẳng tắp, cao đến nỗi anh phải ngửa người ra, tựa lưng vào phiến đá, mới dõi mặt được đến tận ngọn cây. Bầu trời bị che khuất bởi một lớp gần như màu đen những hàng cây mọc sít, những cành cây và những lớp lá kim xanh thẫm dày đặc. Yên tĩnh và thanh bình như một bài thánh ca”. Sự cô đơn, tĩnh mịch của rừng cây được gợi tả bằng những cảm nhận nhãn quang về màu sắc: đen, xanh thẫm. Những gam màu tối ấy khiến thiên nhiên xứ tuyết không hiện lên rực rỡ, thanh khiết mà cô đơn, trầm lặng, tĩnh mịch. “Những cây bá hương phủ một làn voan trắng mỏng nổi lên trên nền tuyết, dù không hề trộn vào nhau vẫn tạo thành một khối sẫm, mà cây nào cây ấy, hiện ra với dáng nét riêng biệt rõ ràng”. Những cây bá hương vào mùa thu hiện lên với màu trắng. Tuy không phải là những gam màu tối mà Shimamura đã cảm nhận khi lần đầu ngắm nhìn những cây bá hương nhưng sắc trắng này vẫn mang lại cho thiên nhiên một vẻ đẹp cô đơn. Sự mờ ảo lẫn vào khu rừng bá hương cũng chính là vẻ cô đơn, tĩnh mịch không lời của thiên nhiên xứ tuyết. Có thể nói, Sabi với vẻ đẹp không lời của sự cô đơn và tĩnh mịch đã hiện lên nguyên vẹn trong thiên nhiên xứ tuyết. Sự tĩnh mịch gần như ngưng đọng của thiên nhiên xứ tuyết khiến cho cảm nhận về thời gian ở đây dường như không trôi chảy. Đó cũng chính là vẻ đẹp mà thời gian đã ban tặng cho thiên nhiên nơi đây. 2.2. Thiên nhiên cổ sơ mang dấu ấn thời gian Những thiên tiểu thuyết của Yasunari Kawabata thường xuất hiện vẻ đẹp của thiên nhiên trong cảm quan về thời gian. Trong Xứ tuyết, dấu ấn thời gian hiện lên rõ nét qua hệ thống những biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên. Từ đó, Sabi lại được cảm nhận dưới vẻ đẹp được tạo nên từ thời gian trôi chảy – vẻ đẹp cổ sơ mang màu dấu ấn thời gian. Trước hết, vẻ đẹp cổ sơ hiện lên từ những hình ảnh biểu tượng của thiện nhiên xứ tuyết. Trước hết, vẻ đẹp đó hiện ra từ hình ảnh con tàu. Ngay từ đầu tác phẩm, con tàu đã hiện lên với tư cách là một phương tiện đến với xứ tuyết – một vùng đất gần như riêng rẽ, tách biệt: “Còn các toa tàu cũ kĩ, chúng như đã trút bỏ trong đường hầm bộ áo lóng lánh của sương giá tuyết băng. Tàu chạy xuống một thung lung, ở đây, những khoảng tối hơi nhuốm màu hoàng hôn và ngập đầy những vực thẳm xen giữa các ngọn núi chồng lên nhau”. “Con tàu với ba hoặc bốn toa cũ rích và cổ lỗ, chẳng giống gì những đoàn tàu nhanh ở các chuyến lớn trung tâm, khiến ta tưởng như đang ở trong một con tàu của xứ sở khác hoàn toàn xa lạ”. Con tàu của xứ tuyết cũng mang dáng vẻ của vùng đất này – đó là dáng vẻ của cổ sơ, cũ kỹ trên nền băng tuyết. Con tàu cổ lỗ này giống đã đi xuyên thời gian, xuyên qua quá khứ để đưa con người đến đây. Kawabata đã đặc biệt khắc họa hình ảnh “con tàu của xứ sở hoàn toàn khác lạ” như một vật thể thuộc về vùng đất xứ tuyết, thuộc về thiên nhiên cổ sơ. Tiếp đến, vẻ đẹp cổ sơ, cũ kỹ từ sự trôi chảy thời gian hiện lên trong những ngôi nhà ở xứ tuyết với bóng dáng của những mái nhà, mái chùa với vẻ cũ kĩ của lớp bụi thời gian. Khu suối nước nóng mà Shimamura chọn làm điểm nghỉ ngơi với những dãy hành lang hiện rõ thời gian mà nó tồn tại: “… Mỗi bước chân anh trên lớp sàn gỗ cũ kĩ làm kính ở các cánh cửa ra vào rung lên”. Lớp sàn gỗ là dấu ấn của thời gian, là lớp thời gian đã bao trùm lên xứ tuyết. Âm thanh của những cánh cửa là tiếng kêu của thời gian. Dường như đó là vẻ đẹp tích tụ theo dòng chảy của thời gian, vẻ đẹp ngưng đọng từ quá khứ. Vẻ đẹp cổ sơ của thiên nhiên xứ tuyết còn hiện lên qua hình ảnh những mái nhà, mái chùa với những lớp lợp cũ kĩ: “… Một ngôi nhà cũ, mái đã trĩu xuống với một cửa sổ sơn đã bong vì mưa nắng... Phần lớn lợp bằng gỗ, có chẹn đá, các mái nhà trông như những dãy giống nhau, các hòn đá song song với con đường, những hòn đã to, tròn và nhẵn, trắng xóa những tuyết ở phía bóng râm và sáng loáng ở phía có nắng, đen như mực, chúng bóng loáng không hẳn vì ướt mà chủ yếu vì chúng được bào nhắn bởi băng giá, gió mưa”. Vẻ đẹp của những ngôi nhà, những mái gỗ chẹn đá được Shimamura nhìn nhận dưới những tác động của thời gian. Thời gian đã làm những ngôi nhà, những chiếc mái trở nên cũ kĩ, hao mòn nhưng chính thời gian cũng tạo nên vẻ đẹp cổ kính đặc trưng của những ngôi nhà xứ tuyết. Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, của thời gian đã đi qua vùng đất này, của “mưa nắng”, “băng giá” và “gió mưa”. Đó cũng chính là Sabi, là vẻ đẹp hiện lên từ những gì cũ kĩ, hoen gỉ. [...] Thiên nhiên mang vẻ đẹp Sabi trong Xứ tuyết còn hiện lên dưới cảm thức thời gian (ảnh: internet) Trong tác phẩm của Yasunari Kawabata, rất ít khi thời gian chính xác được đề cập trong các chi tiết truyện. Tuy nhiên, thời điểm mùa trong năm luôn được thể hiện rõ nét qua những đặc trưng, dấu ấn của mùa. Điều này giống với cách gợi cảm thức thời gian trong thơ Haiku. Khi Basho viết: “Một đám mây hoa/ Chuông đền Ueno vang vọng/ Hay đền Asakusa” thì thời điểm mùa xuân hiện lên chính từ hình ảnh “Đám mây hoa” đó. Điều này cho thấy sự gắn bó giữa thơ Haiku Nhật Bản và Kawabata trong quan niệm về thời gian. Những dấu hiệu về thời gian trong ngày hay dấu hiệu về mùa trong Xứ tuyết cũng là một yếu tố khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật trong tác phẩm và đặc biệt, nó thể hiện rõ dấu ấn thời gian trong nguyên lý thẩm mỹ Sabi. “Cái đẹp của tuyết, cùa các mùa và phụ nữ luôn luôn lấp lánh qua từng trang văn, đẹp như thơ”. [...] 3. Vẻ đẹp u buồn, mong manh Trong cảm nhận của người Nhật Bản, vẻ đẹp của thiên nhiên có lẽ cũng đi liền với sự buồn bã, mong manh. Điều này thể hiện ở chính việc lựa chọn quốc hoa của đất nước này, đó là hoa anh đào. Hoa anh đào đẹp nhất là khi chúng nở rộ, nhưng dù hoa có nở đẹp đến đâu đi chăng nữa thì nó vẫn mang một nỗi buồn phảng phất bởi một lẽ, anh đào sẽ rụng vào đúng lúc nó nở rực rỡ nhất. Như vậy, ngay từ trong cảm quan của mình, người Nhật đã đã để cho hai khái niệm “đẹp” và “buồn” song hành với nhau. Ngay cả với thiên nhiên, cái đẹp cũng gắn với cái buồn. Đây cũng chính là một trong những quan niệm thẩm mỹ truyền thống của Nhật Bản. […] 3.1. Thiên nhiên trong sự lạnh giá Thiên nhiên xứ tuyết mang một sự lạnh giá đến gay gắt. Tuyết ở đây rơi rất nhiều và mạnh, “tuyết rơi nhiều đến nỗi các đoàn tàu luôn bị những khối tuyết lở chặn lại”. Không chỉ có tuyết bao phủ “dày hai, ba mét, đôi khi đến hơn bốn mét” mà ở nơi đây, nhiệt độ cũng xuống rất thấp: “năm ngoái, nhiệt độ ở đây xuống đến hơn hai mươi độ âm”. Khí hậu khắc nghiệt đã tạo cho xứ tuyết một cái lạnh không giống với bất kì một nơi nào khác, “sờ vào vật gì, ta cũng thấy nó lạnh khác lắm”. Xứ tuyết lạnh giá tạo nên một vẻ buồn man mác. Sự lạnh lẽo ấy thấm hết vào cảnh vật, khiến chúng cũng trở nên khác biệt với Shimamura. Cái lạnh của xứ tuyết không chỉ thể hiện trực tiếp ở khí hậu nơi đây mà còn thể hiện gián tiếp qua sự hòa hợp của ánh sáng, bóng tối. Cứ mỗi lần sáng, tối lồng vào nhau, là một lần tạo cho người ta cảm giác hoài vọng, nuối tiếc và u buồn. Bóng tối đang hiện hữu thì ánh sáng cũng xuất hiện. Ngay khi đang nồi trên tàu, dưới con mắt tinh tế của Shimamura hay của chính Kawabata, bầu trời đêm hiện lên và để lại ấn tượng thật đặc biệt: “Phía trên những quả núi, hoàng hôn còn để lại vài vệt đỏ sậm muộn màng và ở tít xa, trên đường chân trời, còn có thể nhận ra được mấy ngọn núi tách biệt”. Bóng đêm đã bao trùm lên xứ tuyết nhưng ở đằng xa, ánh sáng vẫn còn hiện hữu. Dù có ở trong toa tàu hay bên cánh cửa sổ, Shimamura vẫn luôn cảm nhận được sự xen kẽ sáng tối này. […] Cũng chính từ căn phòng mình, Shimamura nhìn thấy “ở đáy thung lũng, nơi thường tối sớm, đã bắt đầu tối. Nhô cao ở bên ngoài vùng tối, các ngọn núi ở đằng kia rực rỡ nắng chiều, chúng như gần hơn bởi chúng tương phản với những hõm tối và màu trắng của chúng như ánh lân quang dưới bầu trời đỏ ối”. Và Shimamura “cảm thấy mỗi lúc một buồn”. Bóng tối và ánh sáng cùng nhau xuất hiện trên khung cảnh thiên nhiên xứ tuyết, sự tồn tại song song của cả bóng tối lẫn ánh sáng làm cho thiên nhiên như lạnh hơn, tạo nên một khung cảnh băng giá đầy u buồn, hoài vọng. 3.2. Thiên nhiên mang vẻ đẹp mong manh Trong quan niệm của người Nhật Bản, cái đẹp và cái hư vô, mong manh luôn đi cùng với nhau. Điều này được thể hiện khá rõ qua thơ Haiku. Nhà thơ Shiki đã từng viết: “Đẹp lạ lùng Ai mà không ghen tị Lá đỏ rời cành phong” Vẻ đẹp mong manh ấy hiện lên trong Xứ tuyết là thiên nhiên ngập trong sắc trắng. Màu trắng cũng là màu sắc được nhắc tới khá nhiều trong Kinh Phật. Màu trắng là biểu tượng của sự tinh khiết, thanh cao và cũng là màu của sự hư ảo. Trong Xứ tuyết, rất nhiều lần tác giả nhắc tới sắc trắng. Có khi, cảnh vật trở nên mềm mại hơn khi được che phủ bởi sự nhẹ nhàng của tuyết: “Xa xa, trên các ngọn núi, tuyết trông như một lớp kem mềm mại được bao phủ một làn khói nhẹ”. Tuyết cũng làm cho mọi thứ trở nên nặng nề, chật hẹp và cô đơn: “Sự chật hẹp của cái thung lũng bé xíu bị ép chặt giữa những ngọn tuyết phủ dày. Nơi đây chẳng khác gì một cái túi tối om, một cái hốc xiết bao đơn độc giữ lòng núi hẻo lánh này”. [...] Thiên nhiên xứ tuyết là nơi “cư ngụ” của những kiếp phù du như những loài côn trùng. Màu xanh của loài bướm đêm đã gây một ấn tượng cho anh. Với anh, đó là “màu xanh ngỡ ngàng, đơn độc, ngược ngạo thay, nhuốm màu chết chóc”; “nó rơi xuống như một chiếc lá khô, chậm và nhẹ buông rơi, lúc lên lúc xuống, trước khi chạm đất” hay lời tự hỏi “không biết con côn trùng đã chết chưa”. Chúng chỉ là những sinh mệnh mang kiếp phù du, bay lượn trong không trung rồi lìa đời nhanh chóng. Cuộc đời của những kiếp phù du luôn là như vậy. Cõi đời này sẽ không lưu lại được gì từ những vẻ đẹp ấy. [...] 4. Vẻ đẹp u huyền, kì ảo Trong các tác phẩm của Kawabata, thiên nhiên thường xuyên xuất hiện trong gương. Thiên nhiên qua những tấm gương hiện lên rất sống động nhưng cũng manh đầy vẻ siêu thưc, huyền ảo. Thiên nhiên vẫn luôn là bí ẩn mà con người luôn muốn tìm kiếm và chinh phục. Thông qua chiếc gương soi, thiên nhiên bỗng trở nên kỳ ảo hơn, khó nắm bắt hơn bao giờ hết. Với Xứ tuyết, Shimamura không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp u huyền con người mà còn cảm nhận được cả vẻ u huyền của thiên nhiên nơi xứ tuyết. Gương phản chiếu hình ảnh của tuyết, làm cho tuyết kỳ ảo hơn rất nhiều: “Tuyết bỗng sáng rực thêm nữa trong gương, chẳng khác gì ở đó có một đám cháy băng giá”. Tấm gương khiến cho lớp tuyết trắng “bỗng sáng rực”, đây vừa là hình ảnh tự nhiên của tuyết nhưng cũng lại là hình ảnh tuyết được “cải biến” trong thế giới gương soi. Từ trong gương soi, thiên nhiên đã đổi khác. Thiên nhiên không chỉ hiện lên với vẻ đẹp tự thân của nó mà vẻ đẹp ấy còn được nhân lên, đưa con người vào một thế giới mới với những khung cảnh vừa thực mà vừa hư: “Trong bầu trời đêm, phía trên những quả núi, hoàng hôn còn để lại vài vệt đỏ sậm, muộn màng và ở tít xa, trên đường chân trời, còn có thể nhận ra được mấy ngọn núi tách biệt”. Thiên nhiên trong gương soi được Shimamura cảm nhận không chỉ với hình ảnh đơn lẻ mà nó còn hòa vào vẻ đẹp của con người xứ tuyết. Thiên nhiên và con người như soi chiếu vào nhau: Cảnh đêm và điểm sáng đều được Shimamura nhìn qua tấm kính của toa tàu. Chúng ở phía xa và ở đằng sau, chúng mang những cái đẹp lung linh và huyền ảo. Shimamura cảm nhận được những vẻ đẹp ấy và anh cũng không thể rời mắt khỏi Yoko: “Anh bàng hoàng khi một ánh lửa tít xa trong núi bỗng lóe sang ở giữa gương mặt đẹp của người đàn bà trẻ, khiến cho vẻ đẹp không thể nào tả xiết ấy đạt đến đỉnh điểm”. Trong tấm gương soi, thiên nhiên và con người cùng tồn tại, vẻ đẹp thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp con người. Chính và thế mà vào một buổi sáng, khi nhìn thấy vẻ đẹp của Komako hiện lên trong gương và trên nền tuyết, Shimamura đã nhớ lại vẻ đẹp của Yoko được phản chiếu lại trên cửa kính của toa tàu. Vẻ đẹp của Komako cùng với vẻ đẹp của tuyết trắng tạo nên một điểm nhấn cho bức tranh. Ở đây, tuyết trắng như làm nền cho Komako. Cụ thể hơn, vẻ đẹp của tuyết làm nổi bật đôi má đỏ hồng của cô. Shimamura hay chính Kawabata đã “mượn những chiếc gương soi để tạo lập nên một thế giới huyền ảo chưa từng có nhưng lại làm cho chúng ta tin tưởng vào đấy”. Thiên nhiên trong gương soi mang một vẻ đẹp của sự hư ảo, của sương khói bao phủ và của tuyết trắng. Chính bản thân Shimamura cũng giống như một chiếc gương. Ở đó ta có thể nhìn thấy sự mơ hồ của anh cũng giống như lúc anh nhìn thấy sự mơ hồ, kì ảo của thiên nhiên qua tấm gương.   Mời các bạn đón đọc Xứ Tuyết của tác giả Yasunari Kawabata.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lăng Mộ Bạo Chúa
Vốn đã không dễ dàng gì khi là Apollo, nhất là khi ngươi bị biến thành người phàm và trục xuất khỏi Olympus. Trên con đường khôi phục 5 nhà tiên tri cổ xưa và giành lại sức mạnh thần thánh của mình, Apollo (kiêm Lester Papadopoulos) phải đối mặt cả những thắng lợi cùng bi kịch. Giờ ngài tiếp tục chuyến hành trình tới Trại Jupiter ở Bay Area, San Francisco, nơi những á thần La Mã đang sẵn sàng sát cánh bên nhau lần cuối một cách liều lĩnh chống lại những tên Hoàng đế La Mã của Tam đầu chế. Hazel, Reyna, Frank, Tyson, Ella, và nhiều người bạn cũ khác sẽ cần sự giúp đỡ của Apollo để sống sót qua cuộc tấn công dữ dội này. Không may, đáp án cho sự bảo trợ lại nằm trong lăng mộ đã bị lãng quên của một kẻ chuyên quyền người La Mã...một người còn tệ hơn bất cứ tên hoàng đế nào Apollo đã gặp phải. The tyrant's tomb - phần 4 của Series Những thử thách của Apollo vừa được phát hành, là một độc giả yêu thích những bộ truyện của Rick Riordan, mình sẽ không thể bỏ lỡ. Toàn bộ là do mình tự đọc và dịch, sẽ có sai sót mong mọi người bỏ qua  Dịch giả meandlo *** Làm sao để trừng phạt một vị thần bất tử? Bằng cách biến vị thần ấy thành kẻ phàm trần. Sau khi khiến cho cha mình - thần Zeus nổi giận, Apollo bị tống cổ khỏi đỉnh Olympus. Yếu ớt và mất phương hướng, thần giáng xuống thành phố New York trong bộ dạng một cậu thiếu niên tầm thường. Giờ đây, thiếu những quyền năng thần thánh, vị thần bốn ngàn năm tuổi phải học cách sống sót trong thế giới hiện đại cho tới khi tìm được cách nào đó lấy lòng Zeus trở lại. Nhưng Apollo có quá nhiều kẻ thù là các vị thần, lũ quái vật và cả những kẻ phàm trần. Tất cả đều ao ước được thấy cựu thần Olympus bị tiêu diệt mãi mãi. Apollo cần được giúp đỡ, và thần chỉ biết có duy nhất một nơi để tìm đến…một vùng đất của các á thần hiện đại có tên gọi Trại Con Lai. Bộ sách Những thử thách của Apollo gồm có: Sấm Truyền Bí Ẩn Lời Tiên Tri Hắc Ám Địa Cung Rực Lửa Lăng Mộ Bạo Chúa ,,, *** Rick Riordan là tác giả có sách bán chạy nhất do tờ New York Times bình chọn cho bộ truyện dành cho trẻ em: Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus và bộ Tiểu thuyết trinh thám dành cho người lớn Tres Navarre. Ông có 15 năm giảng dạy môn tiếng Anh và Lịch sử ở các trường trung học cơ sở công và tư ở San Francisco Bay Area ở California và Texas. Ông cũng từng nhận giải thưởng Giáo viên ưu tú đầu tiên của trường năm 2002 do Saint Mary’s Hall trao tặng. Rick Riordan hiện đang sống ở San Antonio, Texas cùng vợ và hai con trai. Ông dành toàn bộ thời gian cho sáng tác. *** Không có thức ăn ở đây Meg ăn hết đống cá Thụy Điển rồi Hãy ra khỏi xe tang của ta ngay TA TIN VÀO VIỆC HOÀN TRẢ những thi thể. Nghe có vẻ giống một nghĩa cử lịch sự đơn giản, phải không nào? Một chiến binh hy sinh, ngươi nên làm những gì có thể để đưa xác họ về được với người thân cho đám tang. Có thể ta đã quá cổ lỗ sĩ. (Ta đã hơn 4000 năm tuổi rồi). Nhưng ta cảm thấy thật vô lễ nếu xử sự không phải phép với thi hài người đã khuất. Chẳng hạn như Achilles trong trận chiến thành Troy. Là một tên kinh tởm thật sự. Hắn cho kéo xe ngựa chở thi thể của vị tướng thành Troy Hector xung quanh tường thành thị trấn suốt mấy ngày liền. Cuối cùng ta đã phải thuyết phục Zeus gây sức ép đối với tên bắt nạt to đầu này đưa thi thể Hector về với gia đình để anh ta được mai táng tử tế. Ý ta là, thôi nào. Hãy có một chút kính trọng đối với người ngươi đã chém giết chứ. Rồi đến thi thể của Oliver Cromwell. Ta không phải là 1 fan hâm mộ người đàn ông này, nhưng mà trời. Đầu tiên, người Anh chôn cất ông với sự tôn kính. Rồi chúng quyết định rằng chúng ghét ông ta, vậy là chúng đào ông ta lên và "hành quyết" xác thịt ông. Rồi đầu ông rơi xuống cái đỉnh đồi cao, treo lủng lẳng trên đó hàng thập kỉ và bị đưa đẩy hết nhà sưu tầm này đến nhà sưu tầm khác gần ba thế kỉ như một quả cầu tuyết lưu niệm ghê tởm. Cuối cùng, vào năm 1960, ta thì thầm vào tai vài người có tầm ảnh hưởng, Đủ rồi. Ta là thần Apollo, và ta ra lệnh cho ngươi hãy chôn cái thứ đó đi. Ngươi làm ta kinh tởm. Khi đến lượt Jason Grace, người bạn đã ngã xuống và cũng là người em của ta, ta sẽ không để những việc như thế xảy ra. Ta sẽ đích thân hộ tống linh cữu của cậu tới trại Jupiter và đưa tiễn cậu với tất cả sự kính trọng. Đây hóa ra lại là một yêu cầu phù hợp. Với tất cả những con ngạ quỷ tấn công bọn ta và mọi thứ. Hoàng hôn khiến vịnh San Francisco biến thành một cái vạc đồng nóng chảy khi máy bay tư nhân của bọn ta hạ cánh tại sân bay Oakland. Ta nói máy bay tư nhân của bọn ta; chuyến đi đặc quyền này thật ra là một phần món quà từ người bạn Piper McLean và người bố ngôi sao điện ảnh của cô. (Mọi người nên có ít nhất một người bạn có bố mẹ là ngôi sao điện ảnh.) Chờ bọn ta ở bên cạnh đường băng là một bất ngờ khác, hẳn nhà McLean đã bố trí: 1 chiếc xe tang đen bóng bẩy. Meg McCaffrey và ta duỗi thẳng chân trên mặt đường khi nhân viên máy bay buồn rầu đưa linh cữu của Jason ra khỏi khoang chiếc Cessna. Quan tài màu nâu đỏ bóng loáng dường như ánh lên sắc đêm. Bia mộ bằng đồng được đặt cố định lấp lánh ánh đỏ. Ta ghét việc nó đẹp đến thế. Cái chết không nên đẹp như thế này. Nhân viên đưa nó vào trong xe, rồi chuyển hành lí của bọn ta vào ghế sau. Không có gì nhiều nhặn lắm: balo của Meg và ta, cung và ống tên cả ukulele, cùng 1 vài quyển vở nháp vẽ và một áp phích bọn ta thừa kế từ Jason. Ta kí vài giấy tờ, nhận lấy những lời chia buồn từ đoàn bay, bắt tay với người làm tang lễ tử tế đã trao cho ta chìa khóa của xe tang và đi mất. Ta nhìn vào đống chìa khóa, rồi nhìn Meg McCaffrey, người đang nhai đầu một cái kẹo cá thụy điển. (Swedish Fish - 1 loại kẹo hình cá có nhiều màu sắc và hương vị). Máy bay đã được chất đống bởi nửa tá hộp kẹo dẻo đỏ này. Không còn nữa. Meg đã một tay đưa hệ sinh thái cá thụy điển tới bờ vực sụp đổ. Mời các bạn đón đọc Những thử thách của Apollo Tập 4: Lăng Mộ Bạo Chúa của tác giả Rick Riordan.
Lời Tiên Tri Hắc Ám
Làm sao để trừng phạt một vị thần bất tử? Bằng cách biến vị thần ấy thành kẻ phàm trần. Sau khi khiến cho cha mình - thần Zeus nổi giận, Apollo bị tống cổ khỏi đỉnh Olympus. Yếu ớt và mất phương hướng, thần giáng xuống thành phố New York trong bộ dạng một cậu thiếu niên tầm thường. Giờ đây, thiếu những quyền năng thần thánh, vị thần bốn ngàn năm tuổi phải học cách sống sót trong thế giới hiện đại cho tới khi tìm được cách nào đó lấy lòng Zeus trở lại. Nhưng Apollo có quá nhiều kẻ thù là các vị thần, lũ quái vật và cả những kẻ phàm trần. Tất cả đều ao ước được thấy cựu thần Olympus bị tiêu diệt mãi mãi. Apollo cần được giúp đỡ, và thần chỉ biết có duy nhất một nơi để tìm đến…một vùng đất của các á thần hiện đại có tên gọi Trại Con Lai. Bộ sách Những thử thách của Apollo gồm có: Sấm Truyền Bí Ẩn Lời Tiên Tri Hắc Ám Địa Cung Rực Lửa Lăng Mộ Bạo Chúa ,,, *** Rick Riordan là tác giả có sách bán chạy nhất do tờ New York Times bình chọn cho bộ truyện dành cho trẻ em: Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus và bộ Tiểu thuyết trinh thám dành cho người lớn Tres Navarre. Ông có 15 năm giảng dạy môn tiếng Anh và Lịch sử ở các trường trung học cơ sở công và tư ở San Francisco Bay Area ở California và Texas. Ông cũng từng nhận giải thưởng Giáo viên ưu tú đầu tiên của trường năm 2002 do Saint Mary’s Hall trao tặng. Rick Riordan hiện đang sống ở San Antonio, Texas cùng vợ và hai con trai. Ông dành toàn bộ thời gian cho sáng tác. *** Bắt đầu từ một trại “khác” dành cho các con lai và kéo dài đến tận vùng đất ngoài tầm kiểm soát của các vị thần, phần 2 giới thiệu cho độc giả các á thần mới, hồi sinh các con quái vật đáng sợ nhất và khắc họa các sinh vật đặc biệt. Tất cả được xác định sẽ đóng một vai trò nào đó trong Lời Tiên Tri về Nhóm Bảy. PERCY BỐI RỐI. Khi cậu tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài, cậu không biết bất cứ điều gì ngoài tên của cậu. Bộ não xoắn tít của cậu chỉ còn lại một ít, ngay cả sau khi con sói cái Lupa nói rằng cậu là một á thần và huấn luyện cậu cách chiến đấu với cây bút/thanh kiếm trong túi quần cậu. Dẫu sao cậu cũng đã đến được trại dành cho các con lai, mặc dù cậu phải tiếp tục giết các con quái vật không chết đang quấy rầy cậu trên đường đi. Nhưng trại cũng chẳng gợi cho cậu chút quen thuộc nào. Điều duy nhất cậu có thể nhớ lại từ quá khứ của mình là một cái tên khác: Annabeth. HAZEL ĐƯỢC CHO RẰNG LÀ ĐÃ CHẾT. Khi cô còn sống trước đây, cô đã làm sai một điều. Dĩ nhiên, cô là một cô con gái biết nghe lời, ngay cả khi mẹ cô bị ám ảnh bởi tham lam.  Nhưng đó là vấn đề - khi Giọng Nói chiếm lấy cơ thể mẹ cô và ra lệnh cho Hazel sử dụng “quà tặng” của cô với mục đích xấu xa, Hazel không thể nói không với bà. Giờ, vì sai lầm của cô, tương lai của thế giới đang gặp phải nguy hiểm. Hazel ước gì cô có thể chạy trốn tất cả chuyện đó trên con ngựa xuất hiện trong các giấc mơ của cô. FRANK LÀ MỘT NGƯỜI VỤNG VỀ. Bà ngoại cậu nói rằng cậu là hậu duệ của các anh hùng và có thể trở thành bất cứ ai cậu muốn, nhưng cậu chẳng thấy được điều đó. Cậu thậm chí còn không biết cha mình là ai. Cậu vẫn hy vọng thần Apollo sẽ thừa nhận cậu, vì thứ cậu duy nhất cậu thành thạo là môn bắn cung – mặc dầu không đủ giỏi để giúp cho Đội quân Số Năm dành chiến thắng ở trò đánh trận. Cơ thể to lớn và lực lưỡng khiến cậu có cảm giác mình như một chú bò vụng về, đặc biệt là khi cậu ở trước mặt Hazel, người bạn thân nhất của cậu ở trại. Cậu hoàn toàn tin tưởng cô, thậm chí, đủ để chia sẻ bí mật mà cậu để gần với trái tim cậu. *** Lester (Apollo) Vẫn là con người; Cám ơn vì đã hỏi Chúa ơi, ta ghét cuộc sống này Khi CON RỒNG CỦA BỌN TA khiêu chiến tại Indiana, ta biết đây sẽ là một ngày thật tồi tệ. Bọn ta đã di chuyển về phía tây trong sáu tuần và Festus chưa bao giờ có thái độ thù địch như vậy đối với bất cứ một bang nào. New Jersey, mặc kệ. Pennsylvania, dường như khá thích thú, mặc dù đã có một trận chiến với Cyclopes của Pittsburgh ở đó. Ohio, đã cố kiềm chế, ngay cả sau cuộc gặp gỡ với Potina, nữ thần đồ uống thời thơ ấu của La Mã, người đuổi theo bọn ta dưới hình dạng một bình rượu khổng lồ màu đỏ hình mặt cười. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó, Festus chẳng hề thích Indiana, nó hạ cánh trên đỉnh vòm của tòa nhà bang, vỗ nhẹ đôi cánh kim loại của mình và khạc ra một tia lửa đốt rụi quốc kỳ ngay lấp lựng. "Woww, anh bạn", Leo kéo dây cương con rồng," chúng ta đã nói về điều này rồi, không phá hoại di tích công cộng". Ở đằng sau, trên xương sống con rồng, Calypso đang bám chặt vào vảy Festus để giữ thăng bằng "Này, chúng ta có thể xuống dưới được không, lần này thật nhẹ nhàng nhé?" Đối với một nữ phù thủy bất tử đã từng điều khiển các linh hồn gió, Calypso chẳng thích bay cho lắm. Gió thổi mái tóc màu nâu hạt dẻ của cô ta tấp vào cả mặt và miệng, làm tôi chớp mắt và phun nước bọt. Thật đấy, bạn đọc ạ. Ta, hành khách quan trọng nhất, đã từng là vị thần vinh quang Apollo, giờ phải ngồi đằng sau lưng rồng. Ôi bao nhiêu phẫn nộ tôi phải chịu từ khì Zeus tước đi quyền hạn thiêng liêng của ta, cũng chẳng bằng việc bây giờ ta là một thằng nhóc phàm nhân 16 tuổi với cái bí danh ghê rợn Lester Papadopolus. Chẳng đủ để ta phải lao xuống trái đất làm nhiệm vụ anh hùng cho tới khi tìm được cách trở về với ông cha thần thánh, có lại được những ân sủng tốt đẹp, hoặc là khuôn mặt đầy mụn, thứ mụn mà chẳng hề phản ứng với thuốc zit kê đơn. Mặc dù tôi sở hữu một tấm bằng lái xe từ tiểu bang New York, Leo vẫn không tin tưởng giao cho ta quyền cầm lái con chiến mã trên không của mình. Móng vuốt Festus đã phải cào cấu khắp nơi để đứng vững được trên cái mái vòm xanh lá, thứ mà quá nhỏ so với kích thước một con rồng đồng. Ta bỗng nhiên hồi tưởng về cái lần tối cố gắng gắn bức tượng Calliope to bằng người thật vào cỗ xe mặt trời, sức nặng của bức tượng làm mui xe chúi xuống và lao vào giữa Trung Quốc tạo nên hoang mạc Gobi. Leo liếc nhìn lại:"Apollo, ngài có cảm nhận được gì không?" "Tại sao ta lại cảm nhận được gì chứ, tà chỉ là một vị thần tiên tri.." " Ngài là người đã nhìn thấy cảnh mộng", Calypso nhắc nhở, " Ngài đã nói có thể Meg đang ở đây". Việc nghe thấy tên Meg làm tim ta đau nhói: " Điều đó không có nghĩa là ta có thể xác định vị trí của con bé, Zues đã tước đi quyền truy cập GPS của ta" "GPS?" Calypso hỏi "Hệ thống định vị thần thánh" "Nó không có thật" "Mọi người, bình tĩnh nào", Leo vỗ cổ con rồng, "Apollo, hãy cố nhớ lại xem nào, đây có phải cái thành phố mà ngài đã thấy trong mơ không?" Ta quét mắt về phía chân trời, Indiana là một vùng đất bằng phẳng, đường cao tốc bắc ngang qua một vùng đồng bằng nâu sẫm, bóng của những đám mây trôi lơ lửng trên trời tạo thành những vệt đen lỗ chỗ trên thành phố, xung quanh chúng tôi mọc lên tựng cụm nhà cao tầng khẳng khiu đan xen bởi những lớp tường gạch và cửa kính trông như những bó cam thảo đen và trắng. (chẳng phải loại cam thảo ngon lành gì, cả đen và trắng, cái loại kinh khủng mà đã ngự trong bát kẹo trên bàn cà phê của mẹ kế bạn trong hàng niên kỉ. Phải, Hera đấy, tại sao ư? Ta sẽ kể cho ngươi sau). Từ sau khi rơi xuống trái đất ở New York, ta cảm thấy Indiana thật vắng vẻ và thanh bình, một người hàng xóm thích hợp của New York - Như một thành phố trung tâm đã bị kéo giãn ra bao phủ toàn bộ vùng Manhattan sau đó giảm hai phần ba dân số và bị rửa trôi sạch sẽ. Ta chẳng thể hiểu nổi lý do gì khiến bộ ba hoàng đế La Mã ác quỷ lại để ý một nơi như thế này, cũng chẳng hiểu tại sao Meg McCaffrey lại được cử đến để tóm cổ ta tại đây. Giờ mọi thứ đã rõ ràng, ta đã nhìn thấy đường chân trời này, ta đã nghe thấy kẻ thù cũ Nero ra lệnh cho Meg: Hãy đi về hướng Tây, bắt lấy Apollo trước khi hắn kịp tìm thấy Oracle tiếp theo, nếu không thể bắt sống thì hãy kết liễu đời hắn. Điều đó thật đáng buồn nhỉ? Meg đã từng là một người bạn tốt, cô bé còn có thể trở thành sư phụ á thần của ta, nhờ khiếu hài hước của Zeus. Chừng nào ta còn là người phàm, Meg có thể ra lệnh cho ta làm bất cứ thứ gì, thậm chí là tự sát. Ôi ôi, đừng nghĩ tới những điều như vậy chứ. Ta loay hoay trên cái ghế kim loại của mình, sau nhiều tuần di chuyển, cả người ta mệt mỏi và đau nhức, ta muốn tìm một nơi an toàn để nghỉ ngơi và đây chẳng phải một nơi như thế. Có cái gì đó trong thành phố làm ta bồn chồn y như cảm giác của Festus. Than ôi, đây lại chính là nơi bọn ta muốn đến. Cho dù nguy hiểm đến mức nào, nếu được gặp lại Meg, ta sẽ lôi con bé tránh xa tên cha dượng độc ác của mình, ta phải cố gắng. "Chính là nơi này", ta nói, "trước khi mái vòm này sụp đổ, có lẽ chúng ta nên xuống dưới" Mời các bạn đón đọc Những thử thách của Apollo Tập 2: Lời Tiên Tri Hắc Ám của tác giả Rick Riordan.
Cuộc Sống Bí Mật Của Các Nhà Văn
Nathan Fawles là một nhà văn nổi tiếng, đã tuyên bố ngừng viết và đến ẩn mình trên đảo Beaumont nơi người dân sống tách biệt với phần còn lại của thế giới. Khát khao gặp gỡ thần tượng đời mình, Raphaël, một nhà văn tập sự, đã một ngày kia cập bến đảo, cùng thời điểm với Mathilde, một nữ phóng viên trẻ tuổi có phần bí ẩn. Giữa ba con người tưởng chừng xa lạ ấy liệu có tồn tại mối dây liên kết nào? Cái xác người phụ nữ bị tra tấn dã man và gắn trên cây cổ thụ của đảo thuộc về ai? Cũng như mười lăm cuốn tiểu thuyết trước, Cuộc sống bí ẩn của các nhà văn níu chân người đọc ngay những dòng đầu tiên. Cốt truyện được xây dựng hoàn hảo, cuốn ta vào một mê cung trinh thám tâm lý nơi số phận ba nhân vật chính đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau. Nói như Bernard Lehut từ kênh RTL, thì đây thực sự là “một cốt truyện đỉnh cao, một tác phẩm ly kỳ hồi hộp, một trò ‘gương phản chiếu’ khéo léo giữa tác giả và độc giả.” “Thông điệp từ Cuộc sống bí ẩn của các nhà văn chắc chắn là lời tỏ tình tuyệt đẹp mà Musso dành cho việc đọc, và cả việc viết.”       - Elle *** “Mọi người đều có ba cuộc sống: Cuộc sống riêng tư, cuộc sống công khai và cuộc sống bí mật…” – Gabriel García Márquez Cuộc sống bí mật của các nhà văn (La vie secrète des écrivains) là cuốn sách thứ 16 của Guillaume Musso, đã được xuất bản ở Pháp vào đầu năm 2019. Nhã Nam đã nhanh chóng mua bản quyền và như thường niên, vào cuối năm 2019 cuốn sách đã nhanh chóng ra mắt với người đọc. Ngay sau khi mở bán, Cuộc sống bí mật của các nhà văn đã đạt được con số kỉ lục 32 triệu bản phát hành trên khắp thế giới. Vốn là nhà văn vô cùng được yêu thích ở Pháp, các tác phẩm của ông được độc giả đón đọc rất nhiều. Không chỉ vậy, sức hút của ông ở Việt Nam vô cùng lớn với lượng người hâm mộ hùng hậu. Có thể nói Guillaume Musso là một trong những nhà văn đương đại Pháp được hâm mộ nhiều nhất. Marc Levy cũng là một nhà văn vô cùng nổi tiếng của Pháp, nhưng những tác phẩm của ông chủ yếu viết về tình cảm. Trong khi đó Guillaume Musso cũng viết về tình cảm đan xen cùng với trinh thám, hành động. Đây là một điểm đặc trưng và cuốn hút của những tác phẩm của ông, điều đã làm nên thành công của Guillaume Musso.   Cuộc sống bí mật của các nhà văn xoay quanh ba nhân vật chính: Nathan Fawles, Mathilde Monney và Raphaël Bataill. Nathan đã từng là một nhà văn vô cùng nổi tiếng, sau ba tác phẩm vô cùng nổi tiếng của ông là Loreleï Strange, Một thành phố nhỏ ở Mỹ- đạt được danh hiệu Pulitzer và Những kẻ bị sét đánh, Nathan đã quyết định gác lại sự nghiệp và lui về ở ẩn. Sự việc này khiến báo chí và giới công chúng vô cùng bàng hoàng. Trước khi kết thúc sự nghiệp viết, Nathan đã trả lời vô số các cuộc phỏng vấn của báo chí nhưng không ai là biết được lí do tại sao Nathan lại từ bỏ công nghiệp này khi đang đứng trên đỉnh cao sự nghiệp. Điều gì đã khiến Nathan Fawles từ bỏ danh vọng, tiền bạc? Cuộc sống bí mật của các nhà văn được kể theo ngôi thứ nhất, qua lời kể của Raphaël Bataill, một anh chàng yêu thích việc viết lách nhưng đã bị từ chối xuất bản cuốn sách đầu tay mới viết xong. Nản chí, anh nghĩ rằng tác phẩm của mình có thể được nhận xét và sửa lỗi khi anh gặp được vị thần tượng của mình: Nathan Fawles. Khi cánh cửa cơ hội gõ cửa thì Raphaël đã nhanh chóng nhắm bắt lấy, anh đã xin một công việc tạm thời trên đảo Beaumont- nơi Nathan đang sinh sống để có thể tiếp cận với ông. Một nữ nhà báo Mathilde Monney cũng có mặt trên hòn đảo Beaumont với mục đích là tiếp cận Nathan, nhưng ngoài việc tìm ra lí do bỏ sự nghiệp viết văn của Nathan thì cô ta còn có những mục đích khác. Thêm vào đó, cùng với sự xuất hiện của Mathilde thì còn kéo theo một vụ án trên đảo. Vậy mối liên kết của cả ba con người là gì? Sự xuất hiện cùng lúc của Mathilde có liên quan gì tới cái chết bí ẩn của người phụ nữ bị tra tấn dã man và gắn trên cây cổ thụ của đảo.  Có thể nói Cuộc sống bí mật của các nhà văn lại là một thành công nối tiếp tác phẩm trước đó- Cô gái và màn đêm. Đặc biệt hơn nữa là tác phẩm này hoàn toàn thuần chất trinh thám, hành động, và không có những chi tiết tình cảm được đan xen như các tác phẩm trước. Cùng với cốt truyện lôi cuốn, dàn nhân vân của truyện đều để lại những hình ảnh mà Musso muốn khắc hoạ Dàn Nhân Vật Nathan Fawles, nhân vật trọng tâm của cuốn sách , là một nhà văn giấu bao điều bí mật. Trước sự rời bỏ danh vọng và lui về ở ẩn của ông, không một ai biết được lí do thực sự khiến nhà văn làm chuyện đấy.  “ Điều cốt yếu là thứ nhựa sống tưới tắm cho câu chuyện của cậu. Thứ nhựa sống phải chiếm hữu cậu và lan khắp cơ thể cậu như một luồng điện. Thứ nhựa sống phải thiêu đốt những huyết quản trong cậu để cậu không thể làm gì khác ngoài đi đến tận cùng cuốn tiểu thuyết như thể cuộc sống của cậu phụ thuộc cả vào đó. Viết chính là vậy. Chính thứ đó sẽ khiến độc giả của cậu cảm thấy bị giam cầm, chìm đắm và họ sẽ đánh mất những dấu mốc của bản thân để mặc mình bị nhấn chìm như chính cậu từng bị vậy.” Dù không ưa Raphaël, và để đạt được sự trợ giúp của cậu thì Nathan đã miễn cưỡng đưa ra lời khuyên cho cuốn tiểu thuyết của cậu. Tuy nhiên, những lời khuyên đó lại chân thật, nó xuất phát từ trái tim của một nhà văn thực sự yêu nghề, quý trọng với nghiệp viết và có nhiều kinh nghiệm trong việc này. Chỉ với đó thôi mà người đọc có thể dễ dàng hình dung ra con người của Nathan- một nhà văn thực sự tâm đắc với nghề. Lí do thực sự khiến ông bỏ nghiệp viết không ai biết, nhưng Raphaël tin chắc rằng vị cứu tinh này có thể giúp mình, và nhờ vào những lời khuyên chân thành của Nathan thì anh đã có thêm cảm hứng để viết nên cuốn tiểu thuyết thứ hai của bản thân- Cuộc sống bí mật của các nhà văn. “ Phẩm chất hàng đầu của một nhà văn là biết lôi cuốn độc giả bằng một câu chuyện hay. Một câu chuyện có khả bứt độc giả khỏi cuộc sống riêng để phóng chiếu họ vào giữa sự riêng tư và sự thật về các nhân vật. Văn phong chỉ là phương tiện phân bổ câu chuyện và giúp câu chuyện trở nên cuốn hút.” Dù chỉ là một nhà văn tập sự chưa hề có tiếng tăm, nhưng Raphaël đã có những quan điểm, nhận xét đúng đắn về một nhà văn. Anh coi trọng phẩm chất cần có của một nhà văn, họ nên đặt hết tâm huyết của mình vào cuốn tiểu thuyết, chứ không phải những cuốn sách rẻ tiền.  Một nhà văn giỏi là khi anh ta có thể hút người đọc vào trong chính thế giới của câu chuyện. Khi độc giả đọc không ngừng nghỉ một cuốn sách, và sau đó là nhận ra được những giá trị bài học và thậm chí thấy bản thân của họ trong đó, thì nhà văn đó thực sự thành công.  Do được kể từ điểm nhìn của Raphaël nên mọi quan điểm của anh được thể hiện rất rõ ràng. Đó như thể chính là những điều mà tác giả Musso muốn dành tặng cho độc giả của mình. Musso như thể đã hoá thân vào chính nhân vật của mình để truyền tải những quan điểm của bản thân. Mathilde Monney là một nhân vật nữ khác biệt so với những cuốn sách khác của Guillaume Musso. Cô là một càng nàng cá tính, thông minh mưu mẹo, dám hành động một cách nguy hiểm để đạt được mục đích. Và đặc biệt hơn, là cô có những bí mật bị chôn vùi. Những bí mật mà một tai nạn năm xưa đã để lại, khiến cô mất đi trí nhớ và sống khi không hề hay biết gì. Chính vì vật ngay khi đã biết được sự thật cô đã có một kế hoạch, kế hoạch để trả thù. “- Một cuốn tiểu thuyết hay là gì?   – Bạn sáng tạo ra các nhân vật gợi nên tình yêu và sự cảm thông trong độc giả. Rồi bạn giết chết các nhân vật này. Và bạn khiến độc giả của mình tổn thương. Bấy giờ, họ sẽ luôn nhớ đến tiểu thuyết của bạn.” – John IRVING Cái kết của truyện, cú twist ở những trang cuối như cái tát của Musso dành cho độc giả của mình vậy! Bao bí ẩn, bất ngờ, sự thật bị giấu kín đều phơi bày trước ánh sáng. Người đọc phải há hốc mồm vì ngạc nhiên, trời ơi tại sao Musso lại làm vậy! Thử tưởng tượng khi cuốn sách đi được hơn 2/3 chặng đường rồi, thì nhân vật chính của câu chuyện chết? Hầu như chả bao giờ có tác giả nào dám làm vậy! Nhân vật chính sinh ra để kể chuyện, để truyền tải thay những điều tác giả muốn nói, thử hỏi có ai lại muốn giết nhân vật chính của mình! Thế nhưng đây là Guillaume Musso, điều gì cũng có thể xảy ra trong câu chuyện của ông, người đọc phải nán lại đến những dòng chữ cuối cùng để tìm ra được sự thật. Với cú lừa đầy bất ngờ ở cuối, Guillaume Musso đã khiến bao con tim bị tổn thương. Cho độc giả yêu nhân vật của mình, rồi lại để họ bị tổn thương và có cảm giác bị lừa, Musso thật đúng là tài tình trong việc kể nên một câu chuyện giả tưởng. Đây cũng chính là lí do tại sao Cuộc sống bí mật của các nhà văn lại đặc biệt hơn bao giờ hết! Kết Với bất kì fan của Musso, đừng do dự mà hãy đọc ngay cuốn sách này. Còn với những ai muốn biết thêm về ông, Cuộc sống bí mật của các nhà văn là một trải nghiệm tuyệt vời để tiếp cận với văn phong của ông. Chắc chắn độc gỉa không hề thất vọng khi đặt cuốn sách này xuống! Không chỉ vén màn lên sự thật đằng sau ánh hào quang của một nhà văn, những thông điệp truyền tải của Musso vô cùng rõ ràng và nhân văn. Thêm vào đó, những câu quote đầy chất lượng đến từ chính Musso và nhiều nhà văn nổi tiếng khác cũng được thu thập và mỗi câu quote đều đại diện cho ý nghĩa của mỗi chương truyện. Ngòi bút khắc hoạ nhân vật của Guillaume Musso vẫn tài tình như thế, ông tạo được sự đồng cảm dành cho nhân vật của mình, nhân vật của ông có thể đáng ghét hay thông minh, dũng cảm, họ đều để lại dấu ấn cho người đọc. Độc giả sẽ dần dần yêu những nhân vật Musso tạo ra, và rồi chính họ sẽ để lại bao bất kì dành cho độc giả. Với những ai đang chập chững trên con đường trở thành nhà văn, hoặc đơn giản là yêu thích sách, thì Cuộc sống bí mật của các nhà văn là một sự lựa chọn tuyệt vời. Chắc chắn cuốn sách thứ 16 này của Guillaume Musso sẽ đem đến những cảm xúc tuyệt vời cho độc giả. *** Bí ẩn Nathan Fawles (báo Le Soir - ngày 4 tháng Ba 2017) Vắng bóng trên văn đàn suốt gần hai chục năm qua, tác giả cuốn Loreleï Strange huyền thoại vẫn thực sự mê hoặc độc giả ở mọi lứa tuổi. Sau khi lui về ở ẩn trên một hòn đảo thuộc Địa Trung Hải, nhà văn nhất quyết từ chối mọi lời mời mọc của giới truyền thông. Sau đây là cuộc điều tra về kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont. Người ta gọi đó là hiệu ứng Streisand: càng tìm cách che giấu bao nhiêu, bạn càng thu hút sự tò mò bấy nhiêu. Kể từ khi đột ngột rút khỏi thế giới văn chương vào năm ba mươi lăm tuổi, Nathan Fawles là nạn nhân của cơ chế tai ác này. Cuộc sống của nhà văn người Mỹ lai Pháp này như được một vầng hào quang huyền ảo bao quanh và làm nảy sinh hàng loạt chuyện ngồi lê đôi mách cùng những lời đồn thổi suốt hai thập kỷ qua. Fawles sinh năm 1964 tai New York, cha là người Mỹ, mẹ là người Pháp, tuổi thơ của ông diễn ra trọn vẹn tại Paris và ông chỉ quay trở lại Mỹ để hoàn thành việc học, trước tiên là tại Học viện Phillips, sau đó là tại Đại học Yale. Tốt nghiệp chuyên ngành Luật và Khoa học Chính trị nhưng sau đó ông lại dốc hết sức mình cho sự nghiệp nhân đạo, với vài năm làm việc trên thực địa cho tổ chức Hành động chống lại nạn đói và Bác sĩ không biên giới, nhất là tại Salvador, Armenia và Kurdistan. Văn sĩ thành công Năm 1993, Nathan Fawles quay trở lại New York và xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Loreleï Strange, hành trình đầu đời của một nữ thiếu niên bị giam giữ trong bệnh viện tâm thần. Thành công không đến ngay tức khắc, nhưng chỉ sau vài tháng, nhờ những thông tin truyền miệng - đặc biệt trong giới độc giả trẻ - cuốn tiểu thuyết đã vươn lên đứng đầu danh sách sách bán chạy. Hai năm sau, với cuốn sách thứ hai nhan đề Một thành phố nhỏ ở Mỹ, cuốn tiểu thuyết hợp xướng uyên bác dày ngót ngàn trang, Nathan Fawles đã đoạt giải Pulitzer và nổi lên như một trong những giọng văn độc đáo nhất của văn đàn Mỹ. Cuối năm 1997, lần đầu tiên tiểu thuyết gia khiến giới văn chương sửng sốt. Sau khi định cư ở Paris, ông xuất bản cuốn sách mới của mình trực tiếp bằng tiếng Pháp. Những kẻ bị sét đánh là một câu chuyện tình đau thương đến xé lòng, nhưng cũng là một suy tưởng về nỗi đau trước cái chết, cuộc sống nội tâm và quyền năng của viết lách. Chính vào dịp này, công chúng Pháp đã thực sự khám phá ra ông, đặc biệt khi ông tham gia một ấn bản đặc biệt của Nồi hầm văn hóa cùng Salman Rushdie, Umberto Eco và Mario Vargas Llosa. Chương trình hồi tháng Mười một năm 1998 này chính là hoạt động truyền thông áp chót của ông. Quả nhiên, bảy tháng sau, khi vừa bước sang tuổi ba mươi lăm, Fawles đã thông báo việc mình quyết định ngừng viết hẳn trong cuộc trả lời phỏng vấn đầy sắc bén với hãng thông tấn AFP. Kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont Kể từ ngày đó, nhà văn vẫn giữ vững quan điểm của mình. Sống trong căn nhà riêng tại đảo Beaumont, Fawles không còn công bố bất kỳ bản thảo nào dù ngắn nhất, cũng không đồng ý trả lời phỏng vấn bất cứ phóng viên nào. Ông còn từ chối mọi đề xuất chuyển thể các tiểu thuyết của mình sang lĩnh vực điện ảnh hoặc truyền hình (mới đây Netflix và Amazon tiếp tục thất bại trong phi vụ này, bất chấp những đề xuất tài chính vô cùng hấp dẫn, theo như lời họ). Chẳng mấy chốc là tròn hai chục năm, sự im lặng chát chúa của “kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont” không ngừng nuôi dưỡng những ảo tưởng. Tại sao Nathan Fawles lại chọn cách tự nguyện rời xa thế giới như vậy khi mới ba mươi lăm tuổi, lại đang ở tột đỉnh vinh quang? “Làm gì có bí ẩn Nathan Fawles, Jasper Van Wyck, người bấy lâu vẫn là đại diện của nhà văn cam đoan. Chẳng có bí mật nào để khám phá đâu. Đơn giản là Nathan đã chuyển sang làm việc khác. Anh ấy đã ngừng hẳn việc viết lách và đoạn tuyệt với giới xuất bản.” Khi được hỏi về cuộc sống thường nhật của nhà văn, Van Wyck vẫn tỏ ra mập mờ: “Theo như tôi được biết, Nathan đang chuyên chú vào những mối quan tâm riêng.” Để sống hạnh phúc, hãy sống ẩn mình Để chận đứng mọi trông mong của độc giả, người đại diện này nói rõ rằng tác giả “không còn viết một dòng nào nữa từ hai chục năm nay” và tỏ ra dứt khoát: “Nếu Loreleï Strange thường xuyên được so sánh với Bắt trẻ đồng xanh, thì Fawles lại không như Salinger: trong nhà anh ấy không có két sắt chứa đầy bản thảo. Cũng sẽ không bao giờ có cuốn tiểu thuyết mới nào ký tên Nathan Fawles. Ngay cả sau khi anh ấy qua đời. Đó là điều chắc chắn.” Một lời cảnh báo chẳng đời nào làm nản lòng những kẻ tò mò tìm hiểu thêm. Năm tháng trôi qua, nhiều độc giả lẫn phóng viên đã lên đường tìm tới tận đảo Beaumont để lảng vảng rình mò quanh nhà Fawles. Họ luôn thấy cửa nhà im ỉm đóng. Dân trên đảo dường như cũng sinh nghi. Không có gì đáng ngạc nhiên tại một nơi mà thậm chí từ trước khi nhà văn chuyển tới sinh sống, câu châm ngôn Để sống hạnh phúc, hãy sống ẩn mình đã được nâng tầm thành khẩu hiệu. “Tòa thị chính không chia sẻ danh tính cư dân, bất kể nổi tiếng hay không,” viên trợ giúp thị trưởng chỉ nhấn mạnh như vậy. Hiếm người dân đảo nào đồng ý nói về nhà văn. Những người chấp nhận trả lời chúng tôi coi sự hiện diện của tác giả cuốn Loreleï Strange trên đất của họ là chuyện rất đỗi bình thường. “Nathan Fawles không ở ru rú trong nhà mà cũng chẳng co rúm người, Yvonne Sicard, vợ của bác sĩ duy nhất trên đảo, cam đoan. Chúng tôi thường xuyên gặp ông ấy ngồi sau vô lăng chiếc Mini Moke khi tới Ed’s Corner, siêu thị duy nhất của thành phố, để mua sắm.” Nhà văn cũng thường xuyên tới quán rượu trên đảo, “nhất là khi có buổi tiếp phát các trận đấu của đội Olympique Marseille,” chủ quán rượu nói rõ. Một trong những khách quen của quán nhận xét “Nathan không phải kiểu người cục cằn thô lỗ như báo chí đôi khi miêu tả. Đó đúng ra là một tay đáng mến thông thạo bộ môn túc cầu và chuộng rượu whisky Nhật.” Chủ đề trò chuyện duy nhất có thể khiến nhà văn nổi cáu: “Nếu anh cố gắng mắc nối tới những cuốn sách Fawles viết hoặc tới văn chương, rốt cuộc ông ấy sẽ rời khỏi phòng.” Một khoảng trống trong văn chương Về phần các đồng nghiệp của Fawles, ta thấy nhiều người phục tùng ông vô điều kiện. Thí dụ như Tom Boyd, vốn luôn dành cho ông lòng ngưỡng mộ vô bờ bến. “Tôi nợ Fawles một vài trong số cảm xúc đẹp nhất có được từ việc đọc nên hiển nhiên, ông ấy thuộc số những nhà văn mà tôi mắc nợ.” tác giả Bộ ba thiên sứ cả quyết. Lại thêm ý kiến của Thomas Degalais cho rằng Fawles đang xây dựng ba cuốn sách hết sức khác biệt thành một tác phẩm độc đáo sẽ làm nên lịch sử. “Dĩ nhiên, tôi cũng như tất cả mọi người đều tiếc nuối khi ông ấy rút khỏi văn đàn, tiểu thuyết gia người Pháp bày tỏ. Thời đại chúng ta thấy nhớ giọng văn ông ấy. Tôi mong Nathan quay lại đấu trường bằng cách viết một cuốn tiểu thuyết mới, nhưng tôi nghĩ chuyện đó sẽ không đời nào xảy ra.” Quả nhiên, có thể là vậy, nhưng đừng quên rằng Fawles đã chọn câu nói sau trong Vua Lear làm tiểu dẫn cho cuốn tiểu thuyết sau cùng của mình: “Chính những ngôi sao, những ngôi sao trên cao vời vợi kia, đang chi phối cuộc sống của chúng ta.” Jean-Michel Dubois NHÀ VĂN KHÔNG VIẾT NỮA Nhà xuất bản Calmann-Lévy Số 21 phố Montparnasse 75006 Paris Số định danh: 379529 Ông Raphaël Bataille Số 75 đại lộ Aristide-Briand 92120 Montrouge Paris, ngày 28 tháng Năm năm 2018 Thưa ông, Chúng tôi đã nhận được bản thảo Sự rụt rè của những đỉnh caocủa ông, và xin cảm ơn ông vì đã tin tưởng Nhà xuất bản chúng tôi. Bản thảo của ông đã được ban thẩm định của chúng tôi nghiên cứu kỹ lưỡng nhưng thật đáng tiếc, bản thảo không phù hợp với dạng tác phẩm mà chúng tôi hiện đang tìm kiếm. Chúng tôi chúc ông sớm tìm ra một nhà xuất bản cho bản thảo này. Trân trọng, Ban thư ký văn học TB: bản thảo của ông vẫn được lưu tại chỗ chúng tôi trong vòng một tháng nữa. Vậy trong trường hợp muốn nhận lại bản thảo này qua đường bưu điện, làm ơn gửi cho chúng tôi một phong bì dán sẵn tem. Mời bạn đón đọc Cuộc Sống Bí Mật Của Các Nhà Văn của tác giả Guillaume Musso & Phúc Chi Nhi (dịch).
Exodus - Đường Về Đất Hứa
Leon Uris là tác giả các tiểu thuyết, văn xuôi và kịch bản phim gồm nhiều tác phẩm thuộc hàng best - seller: Battle Cry, Exodus, Mila 18, Trinity... Cuốn tiểu thuyết sử thi EXODUS (1958) của ông đã được dịch ra hơn năm mươi thứ tiếng. Tác phẩm của Uris nổi bật vì sự nắm bắt những khoảnh khắc bi tráng của lịch sử hiện đại, bao gồm Thế chiến II và hệ lụy của nó, sự sinh ra của quốc gia Israel ngày nay và Chiến tranh Lạnh. Qua thành công rực rỡ của các tiểu thuyết cùng nghệ thuật kể chuyện bậc thầy, Uris đã tạo ảnh hưởng  lớn lao lên nhận thức của công chúng về lịch sử nhân loại thế kỷ hai mươi. EXODUS ĐƯỢC TÌM ĐỌC NHIỀU NHẤT THẾ KỶ CÙNG VỚI CUỐN THEO CHIỀU GIÓ–NẰM TRÊN BẢNG XẾP HẠNG BESTSELLER CỦA THE NEW YORK TIMES SUỐT 15 TUẦN LỄ LIỀN EXODUS – một hiện tượng xuất bản quốc tế – là cuốn tiểu thuyết tượng đài về những sự kiện địa chính trị khốc liệt nhất thế kỷ 20. Leon Uris dựng lên chân dung một quốc gia bất khuất khai sinh giữa trùng vây quân thù–khởi đầu cuộc tranh dành quyền lực kinh thiên động địa. Đây là câu chuyện quét ngang thế giới trong cơn cuồng nộ: chuyện về mối tình khắc khoải giữa một nữ y tá Mỹ và người chiến sĩ vì tự do Israel trong vòng xoáy bi tráng, lẫm liệt, đau thương nhất của một giai đoạn lịch sử... “Tầm nhìn sử thi, chói sáng, khai mở, bi hùng không thể tin nổi!” - SATURDAY REVIEW “Câu chuyện dập dồn hoang dại... hằn sâu trong sức nén, bừng sáng trong chiều sâu thấu suốt.” - NEW YORK HERALD TRIBUNE “Câu chuyện siêu tuyệt–thực sự siêu tuyệt–về một dân tộc trong cuộc tìm kiếm giấc mơ đã hai ngàn năm.” - CHRISTIAN HERALD “Cực kỳ kích động... một cuốn tiểu thuyết khổng lồ, đĩnh đạc trong phong thái Tolstoy, thuật lại hành trình dân Do Thái đi tìm một quê hương thất lạc... mà cũng thật ấm lòng.” - SAN FRANCISCO EXAMINER “Cuốn tiểu thuyết ngồn ngộn về một Israel khai sinh... Viết với nhiệt lượng trắng.” - CHICAGO TRIBUNE *** Tháng mười một 1946. Phi cơ nhấp nhổm trên phi đạo rồi ngừng lại trước tấm bảng lớn: CHYPRE HÂN HOAN CHÀO ĐÓN QUÝ KHÁCH. Dán mặt vào cửa sổ, Mark Parker nhận thấy phía xa đỉnh lởm chởm của ngọn Ngũ Chỉ, đỉnh cao nhất của dãy núi duyên hải miền Bắc. Một giờ nữa thôi, chàng sẽ vượt đèo đưa tới Cyrénia. Tiến theo hành lang, chàng xiết lại nút cà-vạt, hạ tay áo sơ mi xuống và mặc áo vét-tông. “Chypre hân hoan đón chào quý vị” đúng rồi, đó là ở trong cuốn Othello1 nhưng chàng không sao nhớ lại được phần sau của câu văn ấy. - Có gì khai báo không? - Hai kí-lô á phiện và một mớ sách về nghệ thuật khiêu dâm - Mark lầu nhầu trả lời. - Khi chàng vượt qua quan thuế, một nữ tiếp viên phi cảng tiến lại. - Ông là Mark Parker phải không? Có tin nhờ chuyển tới ông: Bà Kitty Fremont gửi lời xin lỗi vì bận việc không ra được. Bà xin ông đến thẳng Cyrénia khách sạn Dôme, bà đã giữ sẵn phòng tại đó. - Cám ơn cô bé. Tôi có thể kiếm taxi chỗ nào để đến Cyrénia? - Xin để tôi lo việc này. Xin ông vui lòng đợi vài phút... Quán rượu ở đầu bên kia chỗ “hành khách đến”. Mười lăm phút sau, trong chiếc taxi đưa về thành phố, Mark ngả người về phía sau và nhắm mắt lại. Thực ra, chàng thích Kitty bị kẹt không tới đón chàng ở phi cảng. Nhiều năm đã đi qua kể từ lần gặp chót, hai người sẽ có biết bao nhiêu điều để kể cho nhau nghe, biết bao nhiêu kỷ niệm để nhớ lại... Nghĩ tới rằng sau hết lại được gặp nàng, chàng cảm thấy sự xúc cảm ấm áp dữ dội, một xúc động sâu xa lẫn với một bồi hồi thầm kín trong cơ thể. Kitty, con người xinh đẹp, nàng Kitty quyến rũ. Liệu chàng có thể lập nổi một trật tự đại khái cho vô vàn hình ảnh nàng đang dồn dập tới với chàng không? Kitty Fremont, cô bé “hàng xóm láng giềng” như người ta thường nói ấy, với tóc kết bím, mặt lấm tấm tàn nhang, dáng điệu con trai, miệng đương nhiên là có mang máy sửa lại hàm răng cho thẳng: mẩu điển hình cho các cô gái nhỏ Hoa Kỳ. Rồi vào một ngày nào đẹp trời, con sâu xấu xí đã lột thành con bướm duyên dáng: Bộ máy sửa răng đã biến mất, đôi môi mấp máy một màu đỏ không nhờ gì thiên nhiên, các chiếc áo thung phồng căng hai trái chín mời mọc. Một thứ cây tươi mát, lành mạnh, ngon lành.. Cũng có cả Tom Fremont nữa. Lại một mẩu người điển hình Hoa Kỳ: Cậu bé khỏe mạnh tóc ngắn, nụ cười vừa trẻ con vừa chế nhạo, thể thao có hạng và ham mê làm những đồ lặt vặt. Người bạn thân nhất và tốt nhất của Mark, kể từ khi... nói chung, kể từ trước cho tới giờ. Các bà mẹ đã cai sữa họ vào cùng một thời, đã thả họ trên cùng một bãi cỏ, nhìn họ chơi cùng một trái banh. ... Mời các bạn đón đọc Exodus - Đường Về Đất Hứa của tác giả Leon Uris.