Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Chàng Trai Tháng 12 - Michael Noonan

Michael Noonan là tác giả của 18 cuốn tiểu thuyết và nhiều truyện ngắn nổi tiếng dành cho độc giả ở nhiều lứa tuổi, bao gồm series truyện dài kì Flying Doctor, Magwitch và A Different Drummer. Ông cũng là nhà viết kịch bản, nhà soạn kịch cho các chương trình phát thanh, đài truyền hình, phim truyện và sân khấu. Các tác phẩm của ông đã được xuất bản, dựng thành phim và trình chiếu tại nhiều quốc gia trên thế giới. Cuốn sách đầu tay của ông có tên là In the Land of the Talking Trees được sáng tác khi ông còn đang phục vụ trong quân ngũ ở New Guinea trong Chiến tranh Thế giới thứ II. Cuốn tiểu thuyết dành cho các độc giả tuổi teen của ông có tên là McKenzie’s Boots (có tên trong dang sách “Những cuốn sách bán chạy nhất cho thanh thiếu niên” vào năm 1988 do American Library Association bầu chọn) được dựa theo những kinh nghiệm mà ông có được trong suốt thời kì chiến tranh. Tác phẩm The Patchwork Hero đã được Đài truyền hình ABC chuyển thể thành phim và dành giải thưởng cao. Giống như The December Boys, bối cảnh cho câu chuyện xảy ra vào năm 1930. Sau chiến tranh, Michel Noonan theo học ngành hội hoạ tại Phòng tranh Quốc gia ở Melbourne ( ông là tác giả của cuốn tiểu sử về hoạ sĩ Turner, cha đẻ của bức tranh The Sun Ir God nổi tiếng ), tiếp đó là ngành kịch nghệ, văn học, lịch sử và triết học tai Đại học Sydney. Từ năm 1957 đến năm 1979, ông sống ở Anh, sau đó quay trở về Australia và sống nốt quãng đời còn lại ở Queensland. Ông mất năm 2000. Những chàng trai tháng 12 (The December Boys) từ lâu đã được coi là một tác phẩm kinh điển của Australia. Đó là câu chuyện về 5 cậu bé đến từ Cô nhi viện St.Roderick. Tên của 5 cậu là Maps – thích lần theo đường bờ biển, Sharks – tóc đỏ và đầy chấm tàn nhang, Fido – được đặt tên theo một chú cún trong truyện tranh, Misty – có một mắt bình thường còn mắt kia không tốt, và bị che bởi cái mắt kính mờ tịt, và Choker – được đặt tên như thế (“Choker” có nghĩa là kẻ hay bị nghẹt, nói không nên lời) vì chẳng bao giờ trả lời được các câu hỏi trong lớp học. Năm người bạn này được gọi là “Những chàng trai tháng Mười Hai” vì mọi người đều nghĩ chúng đều được sinh vào tháng Mười Hai. Chúng được đưa đến bãi biển vào kì nghỉ, do bà Hodge “tài trợ”. Câu chuyện này được kể qua lời của Choker với một cái nhìn mới mẻ, ngây thơ và lạ lẫm đối với môi trường xung quanh cũng như với những sự việc xảy ra ở đó. Khi các cậu bé mới đến , tất cả đều sung sướng vì cảm giác tự do. Vì trước đó chưa đứa nào được đến bãi biển, nên chúng thích thú từ cơn sóng, bãi cát và mọi trò khám phá mà chúng có thể thực hiên quanh bãi biển. Captian’s Folly là một thị trấn nổi lên từ cuộc Đại Khủng hoảng những năm 1930 và khá vắng vẻ. Các cậu bé được giới thiệu với một đám dân cư sinh sống ở đây – những người lập dị một cách ngộ ngĩnh và thú vị. Trong đó gồm chủ nhà – ông bà McAnsh, và mấy cậu bé nhanh chóng phát hiện ra rắng hai ông bà dễ dàng bị “hạ gục” bời vài chai rượu vang, cho phép chúng được tự do nhiều hơn. Mấy cậu cũng kết bạn với một đôi vợ chồng – cô Teresa và chú Can Đảm, cùng với ông Lão Làng O’Leary – một người có rất nhiều kiến thức về địa phương. Qua O’Leary mà các chú còn gặp những người khác như Galore Bàn Tay Vàng, Hai Martin và Porter Bụng Phệ. Vào đêm Giao Thừa, Choker tình cờ nghe được chú Can Đảm nói với ông Lão Làng rằng họ (chú Can Đảm và cô Teresa) không thể sinh con và họ muốn nhận một đứa con nuôi. Cảm thấy quá “nặng gánh” nếu cứ giữ bí mật này một mình, Choker đành thú nhận với vị linh mục, và ông khuyên cậu nói ra với những người bạn của mình. Kể từ đó, kỳ nghỉ hầu như bị phá hỏng bởi sự ganh đua và cạnh tranh căng thẳng của các cậu bé, nhằm thể hiện mình vượt trội hơn những đứa khác, để thu hút sự chú ý và cảm tình của cô Teresa, với mong muốn được nhận làm con nuôi, trở thánh thánh viên của một gia đình thật sự… Xuyên suốt câu chuyện là chủ đề về tình bạn, về ước mơ có một gia đình, vế mong muốn rất hường hấy của tuổi mới lớn là được “hoà nhập” với xã hội, được “bình thường” như những người khác. “The December Boys” đã được dựng thành phim, với vai chính thuộc về Daniel Radcliffe (diễn viên đóng vai Harry Potter). Thân tặng Ted Willis – chủ nhân của căn nhà nơi cuốn sách này được thai nghén – vì tình bạn lâu năm và những lời động viên chân thành của anh. *** “Con còn lời nào muốn xưng tội nữa không, con trai?” Một giọng thì thầm khàn đục cất lên, phía bên kia tấm lưới sắt là cái bóng của vị linh mục. Có chứ, tôi vẫn còn muốn xưng tội tiếp nhưng không biết phải mở lời như thế nào. Từ trước tới nay mọi tội lỗi của tôi chỉ xoay quanh mấy chuyện nhỏ nhặt hàng ngày, không có gì là đặc biệt: lỡ miệng nói bậy, gọi tên Người, bật cười trong nhà thờ, nói dối về việc rửa chân mỗi tối, bỏ qua các buổi cầu nguyện sáng và đêm. Tuy nhiên tôi luôn cảm thấy mình có lý do để bỏ qua mấy buổi cầu nguyện đó, bởi lâu nay tôi vốn đã không chăm chú lắm vào điều được coi là Thiên đường của mọi người – các tín đồ Công giáo, Tin Lành… “Hãy nói ta nghe, con trai.” Biết phải giải thích thế nào đây? Tôi tình cờ nghe được thông tin đó thì đâu phải là lỗi của tôi. Nó đè nén trong tôi suốt quãng thời gian qua, như một thứ trái cấm mà tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài mong muốn được nếm thử một lần xem sao. “Con có một bí mật.” – Cuối cùng tôi cũng cất lời. “Một bí mật sao, con trai?” “Vâng, thưa Cha.” “Và nó khiến con phải lo lắng?” “Vâng, thưa Cha.” “Có lẽ con đã bị cám dỗ bởi những suy nghĩ tội lỗi?” Mọi việc có thể không phải bắt đầu theo cái cách mà Cha nghĩ, nhưng rõ ràng là những suy nghĩ tội lỗi của tôi thì có thật. Sự thật là mấy tuần gần đây trong đầu tôi luôn tràn ngập cái ý nghĩ tội lỗi ấy. Thông tin mà tôi nghe lỏm được thật quý giá, và tôi đã bị ám ảnh bởi ý nghĩ phải làm sao để ngăn không cho thông tin ấy lọt vào tai của bốn đứa bạn thân. “Một bí mật cũng có thể là tội lỗi, con trai ạ.” Đó chính là điều mà tôi đã luôn lo sợ. “Hãy bày tỏ nỗi lòng của con và rồi tâm hồn con sẽ được thanh thản.” Và thế là tôi kể cho Cha nghe. Về việc tôi đã nghe lỏm được, một cách vô tình, cuộc nói chuyện giữa hai người đàn ông có tên Foley Can Đảm và O’Leary Lão Làng về một phụ nữ tên Teresa. Có lẽ Cha hiếm khi phải nghe lời xưng tội từ một con chiên mới 12 tuổi như tôi. Cha ngồi trầm ngâm suy tư bên trong căn buồng buông rèm tối đó, nơi những suy nghĩ vẩn đục được các con chiên tự do thổ lộ và chế ngự. Phía bên kia tấm lưới sắt là tôi, đang quỳ gối xưng tội. Toàn bộ căn phòng được bao trùm bởi một sự yên lặng như tờ, đâu đó thỉnh thoảng vang vọng những tiếng thì thầm xưng tội của những con chiên đang ngồi trên các băng ghế dài phía bên ngoài. “Con trai của ta,” – Cha khẽ nói – “bằng việc muốn giữ riêng thông tin này cho bản thân, liệu con đã công bằng với những người khác chưa? Nếu con vẫn tiếp tục giữ im lặng, thì có nghĩa là con đang ích kỷ và trong mắt của Chúa, đó là một tội lỗi. Do đó, để tìm lại sự thanh thản cho mình, có lẽ tốt nhất là con nên chia sẻ thông tin mà con nghe được với những người bạn của mình. Hãy chia sẻ bí mật với họ, con trai của ta. Niềm vui và những nỗi lo trong cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn nếu chúng ta được chia sẻ”. Tiếp đó Cha nói lời xá tội cho tôi bằng tiếng Latinh. Ngày nay phương thức sám hối có vẻ cũng thay đổi, từ việc đọc ba lời cầu nguyện của kinh Kính Mừng hằng đêm đến việc đọc kinh Mân Côi trong 10 ngày liên tục, phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ và độ thường xuyên của tội lỗi mà người đó mắc phải. Tôi đã được Cha miễn cho không phải sám hối nhưng vốn kiến thức ít ỏi về tín ngưỡng vẫn đủ để tôi hiểu được rằng tội lỗi của tôi sẽ chỉ được gột rửa hoàn toàn khi tôi chịu làm theo lời khuyên của Cha và tiết lộ với tám cái tai thính kia của tụi bạn về cái điều sẽ khiến chúng phải ồ lên vì kinh ngạc. “Hãy cầu nguyện cho ta, con trai” – vừa nói Cha vừa kéo tấm gỗ nhỏ đằng sau tấm sắt và quay qua tiếp tục nghe lời cầu nguyện ở phía bên kia của căn phòng. Cầu nguyện cho Cha nữa ư? Với “nhiệm vụ” mà Cha vừa giao, chắc chắn tôi sẽ vô cùng bận rộn cầu nguyện cho bản thân mình ấy chứ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Theo Đuổi - Phạm Thanh Thuý
Phạm Thanh Thúy là cây bút nữ có lối viết già dặn, không xa lạ với độc giả yêu văn chương. Tác phẩm của cô thường đăng trên các báo, tạp chí văn uy tín trong nước. Nhân vật chính của Theo đuổi là Hàm Yên - một nhà văn trẻ. Suốt thời thanh xuân, Hàm Yên ôm ấp mối tình từ thuở thơ bé với người bạn thiếu thời tên Phố. Tình cảm đó trở thành một nỗi nhức nhối, ám ảnh cô trên mỗi bước đường đời. Duyên phận đưa Hàm Yên và Phố đến những cuộc gặp gỡ tình cờ. Hết lần này đến lần khác, họ để lỡ nhau. Hàm Yên luôn muốn gợi cho Phố nhớ về những ký ức thời thơ bé, trong đó có cả ký ức đau buồn về cái chết của bố mẹ anh. Ngược lại, Phố tìm cách quên đi. Họ cứ thế đi tìm bóng hình nhau. Khi đã ở bên nhau, họ lại làm tổn thương nhau bằng ký ức. *** Tôi đến Cẩm Xuyên vào giữa mùa mưa. Mưa suốt ngày suốt đêm, mưa gối ngày này sang ngày khác. Bầu trời gần như lúc nào cũng sũng nước. Vào những khi mưa ngớt, từ trên cung đường quanh co uốn lượn theo dáng núi, thấy phía xa xa những thác nước huyền ảo như những áng tóc buông dài của nữ chúa thượng ngàn. Rồi thình lình, hàng trăm con thác ấy đột ngột băng qua đường, tuyệt đẹp và hung hãn, dường như muốn ngốn ngấu lấy tất cả những vật thể bé nhỏ đang trườn trên lằn chỉ vắt ngang núi kia. Con đường nhỏ chìm lút trong làn mưa trắng xóa. Vượt qua hàng trăm con thác trữ tình ấy thì đến Cẩm Xuyên. Cẩm Xuyên nằm trên độ cao 1500 mét so với mực nước biển. Cảm nhận đầu tiên chính là lạnh. Cái lạnh của gió, của hơi nước khi những đám mây trườn trên những ngọn núi, luồn sâu vào từng kẽ lá, băng qua những cây cầu treo chênh chao bắc ngang lòng những con suối mùa mưa sục sôi gầm gào bất tận. Ở xứ này, lúc nào người ta cũng có thể nghe thấy tiếng thác nước tuôn ở đâu đó. Khu nhà cũ, tường vôi trắng loang lổ tróc từng mảng thảm hại, rêu xanh phủ dày trên mái ngói. Và căn phòng, vì lâu không có người ở, toát lên một mùi đặc trưng ẩm mốc, sự cô đơn, lạnh lẽo và nỗi buồn. Nỗi buồn dường như trú ngụ ở đó từ rất lâu, thấm vào từng mi-li-mét không khí. Có hai cửa sổ, tất cả đều sơn xanh, có sẵn một số đồ đạc thiết yếu, hẳn nhiều người đã từng sống ở đó. Phía sau là một đồi thông. Tôi nhận lời viết tự truyện cho một cựu quan chức. Một người đàn bà quyền lực, nay đã nghỉ hưu và hưởng thụ cuộc sống nhàn nhã sau cả một đời lăn lộn với chính trường. Tài liệu đã thu thập đầy đủ từ một năm trước, giờ tôi chỉ cần tìm một nơi gợi cảm xúc để viết thành một cuốn sách. Một thời gian dài chìm trong nỗi buồn sâu thẳm, tôi muốn đến Cẩm Xuyên. Và tôi đã đến, giữa mùa mưa, sẽ ở lại một thời gian nào đó, tùy thuộc vào tôi quyết định. ... Mời các bạn đón đọc Theo Đuổi của tác giả Phạm Thanh Thuý.
Phúc Lành Của Đất
Phúc lành của đất đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1920. Tác phẩm đồ sộ này viết về những người nông dân Na Uy gắn bó hàng đời với đất đai, trung thành với những truyền thống cổ xưa. Tác giả kêu gọi con người trở về với đất. Con người cá nhân chủ nghĩa kiêu hãnh trước kia tưởng có thể "làm rung chuyển thế giới bằng sự va chạm của vài tư tưởng phi lý" đã kết thúc đời mình trong chủ nghĩa bi quan và bị cái chết ám ảnh. Với văn phong trong sáng, cách diễn đạt gây bất ngờ, Knut Hamsun được coi là một trong những người cách tân văn xuôi Na Uy. Trong bài phát biểu tại lễ trao giải, đại diện Viện Hàn Lâm Thụy Điển nói: "Những ai muốn tìm trong văn học sự mô tả chân thật hiện thực đều tìm thấy trong Phúc lành của đất câu chuyện về cuộc đời của mỗi một con người, dù anh ta ở nơi đâu, lao động ở nơi đâu". *** Nhà văn Knut Hamsun (4/81859 – 19/2/1952) tên thật là Knud Pederson. Ông chào đời tại xã Lom, huyện Gudbrandsdalen, (nay thuộc tỉnh Oppland) miền Nam Na Uy; là con thứ tư trong một gia đình nghèo đông con (bảy người con). Năm ông lên bốn, cả gia đình chuyển tới sinh sống tại quận Hamarøy, tỉnh Nordland, miền Bắc Na Uy. Từ năm lên chín, ông phải tới giúp việc cho ông chú đang làm việc tại một bưu cục, thường xuyên bị đánh và bỏ đói. Những chấn thương tinh thần và thể xác này đã khắc sâu dấu ấn trong ông và là nguyên nhân của những di chứng thần kinh mãn tính về sau. Năm 1874, ông bỏ trốn trở về Lom, và từ đó bắt đầu một cuộc sống lang thang phiêu bạt khắp đó đây, hai lần sang Mỹ (1882-1884 và 1886-1888); nếm trải đủ mùi khổ ải, làm đủ mọi thứ nghề ngỗng trên đời: thư ký tiệm tạp hóa, bán hàng rong, phụ chữa giày, phụ tá cho quan chức hành chánh xã, giáo viên tiểu học, và hàng chục thứ nghề không tên khác. Từ năm mười bảy tuổi, ông cũng bắt đầu tập tành viết lách. Năm 1890, tác phẩm Sult (Đói) của ông được xuất bản, gây chấn động lớn trong văn giới bấy giờ với một bút pháp lạ lùng sâu thẳm, mô tả rất xác thực, tinh vi, nhưng đôi khi cũng khá hài hước những cảm xúc và ý tưởng của một nhà văn trẻ đang hồi khốn khó. Có lẽ đây là tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc nhất cho giới phê bình học giả cũng như bạn đọc toàn cầu kể từ ngày nó ra đời cho tới nay. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim hai lần. Lần thứ nhất năm 1966, do Henning Carlsen (sinh 1929) nhà sản xuất phim lừng danh người Đan Mạch đạo diễn; lần thứ hai năm 2001 do đạo diễn, biên kịch người Mỹ Maria Giese đạo diễn. Từ đó trở đi, bút lực của ông ngày càng dồi dào sung mãn. Về mặt bút pháp, ông là một trong những nhà văn cùng thời khác như James Joyce (1882-1941), Marcel Proust (1871-1922) và Virginia Woolf (1882-1941)… đã khai thác một cách tài tình thủ pháp Dòng ý thức ; hình thành nên trào lưu văn học hiện đại. Tổng cộng ông đã viết trên ba mươi cuốn tiểu thuyết và nhiều tác phẩm kịch, thơ… Trong đó nổi bật nhất là: Đói (Sult-1890); Những điều bí ẩn (Mysterier-1892); Pan (Pan-1894); Victoria (Victoria -1898); Dưới ánh sao thu (Under Høststjærnen -1906); Gã lang thang chơi đàn không dây (En Vandrer spiller med Sordin-1909) ; Niềm vui cuối cùng (Den sidste Glæde-1912); Phúc lành của đất (Markens Grøde-1917); Trên lối mòn hoang (Paa gjengrodde Stier-1949)… Năm 1917, ông mua một điền trang ở Nørholm, miền Nam Na Uy, lui về đó sống một cuộc đời ẩn dật, viết văn và làm việc nông điền. Năm 1920, ông đoạt giải Nobel văn chương nhờ bộ tiểu thuyết Phúc lành của đất . Xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân, sự oán ghét chủ nghĩa tư bản hiện đại của bản thân và do hâm mộ truyền thống tư tưởng Nietzche trong chủ nghĩa Phát xít cũng như đã có sẵn cảm tình với Đức do chính nghĩa của nước này trong Thế chiến I, trong lúc đó công luận tại Na Uy lại nghiêng về Anh và Pháp, dần dần trong ông đã hình thành một cảm tình sai lệch với chủ nghĩa xấu xa này. Năm 1932, ông gặp Hitler và Joseph Goebbels – Bộ Trưởng Tuyên truyền của Đức Quốc Xã. Dù không bao giờ gia nhập Đảng Phát xít, ông đã có những hành động và phát ngôn bày tỏ rõ rệt thái độ ủng hộ Đức của mình, chẳng hạn như tuyên bố với những người đồng bào rằng: “Tất cả chúng ta đều là người Đức” trong thời gian Đức chiếm đóng Na Uy, hoặc công khai viết lời ca tụng Hitler khi nghe tin ông này chết rằng: “Ông ấy là một chiến binh, một chiến binh của nhân loại, và một nhà tiên tri của nền công lý đối với mọi quốc gia.” Sau Thế chiến II, ông bị công chúng ghét bỏ; do được coi là bị bệnh tâm thần nên ông không phải ngồi tù mà chỉ bị phạt tiền 80.000 đô la Mỹ (1947). Kể từ đó cho tới khi lìa đời, ông sống trong cảnh lẻ loi nghèo khổ, bị mọi người xung quanh xa lánh. Ngày 19-2-1952, Knut Hamsun qua đời ở thị trấn Grimstad, miền Nam Na Uy, hưởng thọ 92 tuổi. Hồi đầu năm 2009, khi Na Uy phát hành đồng tiền mệnh giá 200 Kroner (khoảng 500.000 đồng VN) in hình ông và tiếp sau đó là những hoạt động trọng thể tưởng niệm 150 năm ngày sinh của Hamsun, đã có nhiều quan điểm gay gắt phản đối từ nhiều nước trên thế giới. Dĩ nhiên, bên cạnh đó cũng có nhiều ý kiến đồng tình, biện minh cho những hoạt động nói trên. Nếu không xét tới quan điểm chính trị của Knut Hamsun – vốn đã trăm phần trăm sai trái, không có gì cần bàn cãi nữa (có lẽ bản thân Knut Hamsun cũng đã nhận ra những sai lầm của ông trong quãng thời gian cuối đời), có thể khẳng định đa phần những di sản văn học mà ông để lại cho nhân loại là vô cùng quý báu. Và người đọc chúng ta có thể tri ân ông ở khía cạnh này. Sài Gòn, 3-2010 Nguyễn Thành Nhân Mời các bạn đón đọc Phúc Lành Của Đất của tác giả Knut Hamsun.
Cuốn Sổ Màu Xanh - James A. Levine
Tôi tên là Batuk. Năm nay 15 tuổi, tôi có một cái ổ tại Đường Chung ở Mumbai. Tôi đã ở đây 6 năm và được ban tặng một nhan sắc xinh đẹp cùng một cây bút chì. Cuốn Sổ Màu Xanh mở đầu bằng trang đầu tiên nhẹ nhàng như thế. Nhẹ nhàng, nhưng là để che giấu một câu chuyện tàn khốc và gây phẫn nộ khi nhân vật chính của nó, một cô bé, bị biến thành gái điếm khi em mới chỉ 9 tuổi. Một cuốn sách nhỏ, về một cô gái nhỏ sống trong cái ổ của mình cùng những đứa trẻ khác với công việc "làm bánh" đầy tủi hổ và nhục nhã. Cuộc đời Batuk cũng như cuộc đời hàng chục đứa trẻ khác, cả nam lẫn nữ, bị mua bán, bị lạm dụng, bị bóc lột cơ thể vì lợi ích của những người lớn nhẫn tâm chôn vùi các em xuống bùn. Lối thoát của em, cuốn nhật ký, không chỉ là một câu chuyện mà còn là một hiện thực được thể hiện bằng văn chương và những câu chuyện hư cấu. Ở đó em được sống với tâm hồn bay bổng, với bình yên và những hy vọng. Cuốn Sổ Màu Xanh không êm đềm như cái tên nó làm nhiều người lầm tưởng. Những trang sách dễ dàng khiến người đọc bị ám ảnh, vì số phận con người, vì ước vọng chan chứa của một cô bé 15 tuổi không thể thoát khỏi số phận mình, vì những giá trị lớn lao Batuk đã dùng cuộc đời mình trả giá và gửi thông điệp đến nhân loại. "Cuốn sổ màu xanh" là hình ảnh cô đọng về thân phận của những đứa trẻ hành nghề mãi dâm ở Ấn Độ, mà nhân vật chính là cô bé Batuk 15 tuổi bị người cha ruột của mình đem từ miền quê lên bán cho một ổ chứa ở thành phố Mumbai. Ở đó ngoài công việc tủi nhục, cô chỉ còn một cách duy nhất để giải trí, và cũng là để tìm thấy những khao khát sâu thẳm tâm hồn cô, đó là viết nhật ký. Một cách để cô duy trì cuộc sống. Chúng ta nhận được từ cô bé - không chỉ là những lời gởi gắm tuyệt vọng mà còn là sự thức tỉnh của lương tâm. Tác giả James A. Levine là bác sĩ người Anh. Trong chuyến đi thực tế ở thành phố Mumbai, ông đã nhìn thấy một bé gái mại dâm đang viết, và hình ảnh đó đeo đuổi tâm trí khiến ông viết nên tác phẩm này. *** "Cuốn sổ màu xanh là một câu chuyện gây xúc động sâu sắc và lời nhắc nhở đầy nhiệt huyết về tinh thần kiên cường của con người. Nó là một bằng chứng cho thấy việc ghi chép có thể mang đến ý nghĩa cuộc sống và giúp người ta vượt qua những hoàn cảnh đau khổ nhất. Tiếng nói của Batuk, cô bé bán dâm dũng cảm, sẽ lắng đọng mãi trong lòng người đọc." - Khaled Hosseini, tác giả của The Kite Runner và A Thousand Splendid Suns *** Tôi được nghỉ ngơi. Bà Mamaki Briila rất hài lòng. Tôi đã làm việc cật lực suốt buổi sáng nên khi tôi nói với bà là tôi mệt quá, bà mỉm cười: “Nghỉ ngơi đi, bé con Batuk. Hôm nay sẽ là một ngày phát đạt”. Thật ra, tôi không mệt mỏi gì lắm. Tôi tên là Batuk. Năm nay 15 tuổi, tôi có một cái ổ tại Đường Chung ở Mumbai. Tôi đã ở đây 6 năm và được ban tặng một nhan sắc xinh đẹp cùng một cây bút chì. Nhan sắc của tôi là do trời cho, còn cây bút chì thì trước kia bà Mamaki Briila, bà chủ của tôi, thường giắt trên tai. Hai đêm trước, tôi thấy cây bút chì của bà Mamaki bị rơi xuống đất. Lúc đó tôi vừa mới “làm bánh” xong và bà ta lăng xăng đến cái ổ của tôi với một nụ cười rộng hoác. Bà cúi xuống, véo má tôi và hôn lên đầu tôi. Khi bà nghiêng người xuống, bộ ngực đồ sộ của bà như muốn đập vào mặt tôi và tôi có thể nhìn thấy những giọt mồ hôi lấp loáng trên đó. Bà cũng có mùi như chúng tôi, nhưng tệ hơn. Bà phải đưa tay chống lưng và lảo đảo một chút thì mới đứng dậy được. Bộ ngực của bà đung đưa như những con thú con đang bám vào cổ bà nhảy múa. Bà rút cây bút chì sau tai và kéo ra một cuốn sổ tay nhỏ màu vàng từ nếp áo trong của bộ áo sari (hoặc có thể từ nếp da của bà không chừng). Khi mở cuốn sổ ra, bà nhìn xuống tôi và nở một nụ cười làm giãn rộng gương mặt đỏ như một cục gạch khô nhúng nước. Bà ghi chép gì đó vào cuốn sổ với những cái vẫy bay bướm của bàn tay múp míp. Bà ngọt ngào nói: “Bé con Batuk, ta rất mến con. Ta tưởng tối nay con sẽ làm cho ta thất vọng nhưng con đã khiến ta yêu mến con chỉ trong một giờ”. Tôi nghĩ hẳn bà sắp sửa nhắc nhở tôi về sự tử tế ngàn lần của bà, nhưng bà bị cắt ngang bởi một tiếng thét của Puneet. Puneet là bạn thân nhất của tôi và có một cái ổ nằm cách tôi hai gian. Puneet hiếm khi kêu la, không như Công chúa Meera, cô nàng than khóc liên tục mỗi lần “làm bánh”. Puneet chỉ rên khi buộc phải rên và tiếng thét mà anh thốt ra vào lúc đó có thể khiến đá vỡ đôi. Đó là một tiếng thét chói tai và duy nhất, không phải của sự đau đớn thể xác, vì Puneet không cảm thấy đau đớn, mà là sự kinh hoàng. Bà Mamaki cũng biết điều đó. Puneet có giá trị hơn tất cả chúng tôi vì anh là con trai. Tiếng thét của Puneet xé toang màn đêm yên tĩnh của con đường và nụ cười biến mất khỏi gương mặt bà Mamaki như một đồng xu rơi xuống đất. Bà quay đôi mông to như mông bò vào mặt tôi và chạy vụt ra khỏi cái ổ của tôi. Thật ấn tượng khi một sinh vật như bà có thể di chuyển với tốc độ nhanh đến thế. Khi bà chạy đi, chiếc đuôi áo sari bay phần phật khiến tôi nhớ đến những tấm nhựa mà người ta dùng để che chắn cây trồng dưới ánh nắng mặt trời mùa hè. Đó là lúc cây bút chì rớt khỏi tai bà Mamaki, vành tai bóng nhẫy bởi một nhãn hiệu kem xoa người đặc biệt. Bà Mamaki không biết cây bút chì đã rớt xuống sàn cái ổ của tôi, nảy lên vài lần rồi nằm im. Tôi búng người khỏi giường và gieo mình lên nó. Cây bút chì là của tôi, trời ban cho tôi. ... Mời các bạn đón đọc Cuốn Sổ Màu Xanh của tác giả James A. Levine.
Xe Lên Xe Xuống - Nguyễn Bình Phương
Tác phẩm này đã được xuất bản ở Việt Nam do NXB Trẻ phát hành tên là Mình và Họ.  Xe Lên Xe Xuống là cuốn tiểu thuyết mới của Nguyễn Bình Phương, là câu chuyện kể về quá trình đi lên đi xuống của Hiếu – người em của một tù binh trong chiến tranh biên giới phía Bắc đi tìm lại quãng đường chiến trận mà anh mình đã trải qua năm 1979 thông qua những ghi chép rời rạc trong nhật ký để lại. Lồng trong câu chuyện là chuyện kể về biên giới hôm nay trong chuyến đi lên với những đổi thay nhưng vẫn đượm đầy không khí của quá khứ oanh liệt tháng 2-1979 và sự kiện năm 1984. Bên cạnh là câu chuyện đi xuống được dẫn dắt từ sự kiện thủ ác của Hiếu và người tình trên chuyến xe áp giải. Và nổi trội hơn cả là câu chuyện chiến đấu ngoan cường của quân và dân vùng biên Tuyên Quang trong sự kiện 1979-1989. Xe Lên Xe Xuống vì thế không là chuyện của quá khứ mà là của hôm nay với bao nhiêu trở trăn và bất cập, mà điểm xuyết là cảnh quan núi rừng biên giới với bao vẻ hoang sơ và trầm mặc. Xe Lên Xe Xuống là truyện trong truyện được cài cắm một cách thông minh dười ngòi bút của Nguyễn Bình Phương. *** Xe xuống chậm một cách thận trọng. Mặt trời chậm chậm lăn theo lưng núi. Ðám người mặt lạnh đanh này cũng thở chậm dần. Những chớp mắt của Trang trở nên lờ đờ hơn. Tất cả đều chậm lại sau cú bay thảng thốt tuyệt mỹ của mình. Lúc ấy mình không hình dung đó là cú bay qua nhiều ngọn cây và đá. Mình cũng không ngờ rồi mọi thứ lại nhẹ nhõm đến thế này. Mình chỉ nghĩ anh đã sơ sểnh chủ quan, anh không quyết định dứt khoát nên mới bị họ vồ được. Mình không muốn lặp lại sai lầm của anh, cả của mẹ nữa. Ðừng bao giờ để bị bắt, anh đã ghi câu ấy bằng nét bút dằn đậm. Vừa mới đây, mình còn đứng sát cột mốc, hình dung xem anh quay lại bằng cách nào... Có thể anh vác đại trưởng vòng từ bên trái, chỗ có hai gồ đá giống hai bậc lớn, cũng có thể anh theo cái lối mòn chếch đó một đoạn để lên. Nhưng dù đường nào trở về thì anh cũng không thể biết rằng bọn họ đã phục sẵn ở đó. Mình vừa hình dung vừa thấy chờn chợn, không rõ vì sự hình dung hay vì cái gì khác. Hắn cau có cúi xuống nhặt cỏ may bám đầy ống quần, miệng vẫn ngậm điếu thuốc và khói dờ dật uốn lên. Nhìn theo khói nên mình phát hiện ra cái đám mây lạ lùng ngay trên đầu. Ðám mây ngũ sắc, có những tia sáng chói bắn tóe ra, giống chiếc nơm đang úp thẳng xuống. Mình biết không thể chụp ảnh đám mây vì mặt trời ngự sau lưng nó. Ðó là đám mây cô đơn nhất mình từng thấy trong cả chuyến đi này. Chiếc máy ảnh trên tay mình thành vật vô dụng dù nó đang chứa rất nhiều những đám mây khác. Mình định chỉ cho Trang nhưng thấy Trang mải nghe bí thư huyện đoàn nói nên thôi. Ðiều khiến mình bất ổn là đám mây gần như không di động, cứ lì lù một chỗ. Mình thấy hơi bức bối, có lẽ vì độ cao. Lái xe đi tới đi lui, thi thoảng lại thục chân vào lốp xe để kiểm tra. Không có sự phân hai ngả như lời bí thư huyện đoàn giới thiệu lúc trước. Ở hai phía cột mốc, cây vẫn mọc thẳng và chúng chẳng mảy may hé lộ điều gì bên trong. Mình như đang đứng trước một chiếc gương lớn, chẳng phân biệt nổi bên này với bên kia. ... Mời các bạn đón đọc Xe Lên Xe Xuống của tác giả Nguyễn Bình Phương.