Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giữa Lòng Tăm Tối

Khép lại những tranh cãi, Giữa lòng tăm tối vẫn luôn và sẽ mãi là tuyệt phẩm văn chương đáng đọc của mọi thời đại. Joseph Conrad (1857 - 1924) là một trong những tác gia vĩ đại nhất của nền văn học Anh quốc. Ông là bậc thầy của nghệ thuật tạo tổng thể văn xuôi, phong cách tự sự, xây dựng nhân vật và mô tả tâm lý của ông có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều cây bút khác sau này như TS Eliot, F. Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway hay George Orwell. Thế nhưng tác giả của những áng văn đầy chất thơ Shakespeare này lại là một người gốc Ba Lan tới định cư tại xứ sở sương mù, và đến tận năm hai mươi tuổi mới nói trôi chảy tiếng Anh. Là người ngoại quốc, từng trải qua những năm tháng lênh đênh trên những con tàu thương gia của Anh và Pháp, Conrad đã truyền tải được xúc cảm của những miền đất khác vào nền văn học Anh, phản ánh một thế giới hoàn toàn bị thống trị bởi người châu Âu. Giữa lòng tăm tối là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Joseph Conrad, là kiệt tác văn học mà giới mộ điệu văn chương đều đã quen thuộc. Cuốn tiểu thuyết bao trọn câu chuyện phiêu lưu hải hồ của Marlow dựa trên hành trình có thật của chính tác giả vào năm 1890. Là người của biển cả, Marlow nghe theo tiếng sóng vẫy gọi, khao khát đi tới những miền đất chưa định danh trên địa đồ - “những khoảng trống của niềm hân hoan”, “một vạt trắng cho giấc mơ huy hoàng”, dấn thân vào “vùng tăm tối vô phương thấu hiểu”, cùng với tính hiếu kỳ thản nhiên của một trí óc tế nhị và trạng thái điềm tĩnh của một con tim sắt đá. Trên một con tàu hơi nước vá víu xập xệ thiếu thốn đủ đường, cùng thủy thủ đoàn là mấy tay da đen của bộ tộc ăn thịt người lúc nào cũng bốc mùi thịt hà mã thiu, Marlow ngược dòng con sông Congo hùng vĩ, bí hiểm mà mê hoặc để hoàn thành một nhiệm vụ tưởng chừng như bất khả thi. Ông phải đi cứu Kurtz - người được ca tụng khắp nơi là “thiên tài toàn năng”, kiếm được nhiều ngà voi nhất Công ty, được cả dân da đen yêu kính hết mực và đang ốm thập tử nhất sinh ở vùng thượng nguồn - về với văn minh, trước khi gã lìa đời. Sau bao nhiêu gian khổ, hiểm nguy của chốn rừng thiêng nước độc, Marlow tới được nơi, gặp được người, nhưng chỉ trở về với một tập tài liệu và lời tuyệt mệnh: “Nỗi kinh hoàng! Nỗi kinh hoàng!” Miền hoang dã Phi châu tạo ra bao nhiêu trở ngại cho con tàu của Marlow thì Giữa lòng tăm tối cũng gây ra bấy nhiêu sóng gió trong giới văn chương thậm chí cả giới phân tâm học, hoạt động nhân quyền hay nghiên cứu châu Phi cũng nhảy vào cuộc. Người ta bàn ra tán vào, khẩu chiến rồi cả bút chiến với nhau về cách hành văn của tác giả, cấu trúc, ý nghĩa của tác phẩm và vô vàn những thứ khác. Một trong những chủ đề được tranh cãi quyết liệt nhất chính là vấn đề phân biệt chủng tộc. Chinua Achebe - nhà văn, nhà thơ người Nigeria từng chỉ trích tác phẩm này là “phân biệt chủng tộc một cách khủng khiếp” với những hình ảnh miêu tả người da đen như những kẻ mọi rợ ngu đần, như những con vật chịu đòn roi. Những tình cảnh đáng thương, những vụ tra tấn kinh hoàng đều được kể lại bằng chất giọng lạnh lùng, vô cảm. Thế nhưng những lập luận khác lại cho rằng tại thời điểm Conrad viết cuốn tiểu thuyết này, khái niệm “phân biệt chủng tộc” vẫn chưa thành hình, quan niệm về khác biệt chủng tộc vẫn còn in đậm. Đó là thời người da đen bị trưng bày như thú lạ tại những nước đế quốc, và bị đối xử như súc vật, nô lệ tại những vùng thuộc địa. Vì thế, không thể trách cứ Conrad được. Tuy vậy, chính nhà văn cũng từng khẳng định rằng Giữa lòng tăm tối ngầm ý chỉ ra “tội ác của sự kém hiệu quả và ích kỷ thuần túy khi khai hóa văn minh ở châu Phi”. Thật vậy, hãy đọc những dòng này trong truyện: “Tôi ngờ rằng với họ cai trị chỉ đơn thuần là bóp nghẹt, không hơn. Họ là kẻ chinh phục, mà chinh phục thì chỉ cần vũ lực - vốn chả có gì đáng huênh hoang, vì sức mạnh của anh chỉ là ngẫu nhiên phát sinh từ cái yếu của kẻ khác. Họ vơ vét được bao nhiêu hay bấy nhiêu, vơ vét để mà vơ vét. Đó chẳng qua là cưỡng đoạt bằng bạo lực, sát nhân có tình tiết tăng nặng trên diện rộng...” Như thế, Giữa lòng tăm tối, ở một chừng mực nào đó, có thể coi là một bản cáo trạng về lòng tham, thói ưa hủy diệt và quyền lực chuyên chế của chủ nghĩa thực dân, “một bài phân tích về sự suy nhụt nhuệ khí của người da trắng, khi anh ra thoát khỏi vòng kiềm tỏa của châu Âu, bám rễ ở miền nhiệt đới với vũ khí trang bị đến tận chân răng, để thu lợi từ tầng lớp bị trị”. Và con sông dẫn tới “trái tim của một vùng tăm tối khôn cùng” không phải là con sông Congo cuộn xoáy ở lục địa Đen mà là con sông Thames êm đềm, dưới bầu trời hôn ám của “đế chế nơi mặt trời không bao giờ lặn”. Khép lại những tranh cãi, Giữa lòng tăm tối vẫn luôn và sẽ mãi là tuyệt phẩm văn chương đáng đọc của mọi thời đại. Bằng ngôn từ mơ hồ mà dứt khoát, huyền bí mà hữu hình, Joseph Conrad đã viết nên một áng văn đậm chất thơ, hấp dẫn, ám ảnh và đầy tính biểu tượng - một kiệt tác của của nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy, của phiêu lưu, của thiên nhiên hoang dại, hùng vĩ, và ảo tưởng của cả thời đại. *** Nellie, chiếc thuyền hai buồm, buông neo không một tiếng buồm lật phật, lặng lẽ nghỉ ngơi. Nước đã xuống, gió cơ hồ đã lặng; được buộc dưới sông, nó chỉ còn một việc là đậu đó đợi triều lên. Cửa sông Thames trải dài trước mắt chúng tôi, như khởi đầu của một thủy lộ dài bất tận. Ngoài khơi xa biển và trời liền thành một tấm áo không thấy đường may, và trong không gian lung linh này, những cánh buồm rám nắng vẫn dập dờn trên ngọn thủy triều như đứng yên thành từng cụm vải bạt đỏ chóp nhọn, lấp lánh ánh vécni từ những cột buồm. Sương lan trên những bãi bồi phẳng lì chạy dài tít tắp về phía biển. Bầu trời trên Gravesend[1] tăm tối, còn phía xa dường như vẫn ngưng tụ thành một quầng u ám thảm sầu, âm trầm bất động trùm lên đô thành lớn nhất và vĩ đại nhất trên trái đất. Tay Giám đốc Công ty là thuyền trưởng và chủ nhà của chúng tôi. Bốn người bọn tôi[2] trìu mến nhìn bóng lưng gã đứng trên mũi thuyền, nhìn về phía biển. Cả sông không có hình ảnh nào đại dương bằng nửa gã. Nhìn gã như một hoa tiêu, niềm tin của người đi biển được nhân cách hóa. Khó mà nhận ra, nghề của gã không phải ngoài kia, nơi giang khẩu lung linh, mà ở sau lưng, giữa vùng âm trầm u ám nọ. Giữa chúng tôi, như đã có lần tôi từng nói[3], có sự gắn bó của biển khơi. Ngoài việc neo đậu lòng nhau sau những quãng dài xa cách, nó còn giúp chúng tôi chịu đựng được những huyên thuyên, thậm chí là định kiến, của nhau. Tay Luật sư - loại bạn già chơi rất được - bởi tuổi cao đức trọng nhất hội, sở hữu cái đệm duy nhất trên boong, và nằm trên tấm thảm duy nhất. Tay Kế toán ôm theo hộp domino và đang lẩn mẩn xây nhà với những mảnh ngà. Marlow ngồi xếp bằng ở đuôi tàu, lưng dựa vào cột buồm lái. Má hóp, da vàng, lưng thẳng, dung mạo khắc khổ, đôi tay buông xuôi, lòng bàn tay ngửa ra trước, gã nhìn như một bức ngẫu tượng. Tay giám đốc, yên tâm là neo đã chắc, xuống đuôi tàu nhập bọn với chúng tôi. Cả bọn uể oải trò chuyện đôi lời. Rồi boong tàu chìm trong im lặng. Bởi lẽ gì đó, chúng tôi không bắt đầu ván domino ấy. Chúng tôi thấy trầm tư, chẳng có hứng làm gì ngoài tĩnh tâm quan sát. Ngày tàn dần trong cái bình lặng của ánh quang huy thanh tĩnh và tú lệ. Nước tỏa sáng một cách bình yên; vòm trời, không một gợn mây, như một khoảng mênh mông ôn nhuận ngập tràn thứ ánh sáng vô nhiễm; màn sương trên đầm lầy miền Essex[4] giống một tấm sa mỏng phát quang, rủ xuống từ những triền cao cây phủ trong nội địa, buông từng lớp trong mờ lên những bãi bồi. Chỉ riêng vùng ảm đạm phía tầy, vần vũ trên thượng lưu, là mỗi lúc một thêm u ám, như thể phẫn nộ trước sự lấn tới của mặt trời. Và cuối cùng, trong một đường lặn hình cung không thể cảm nhận được, mặt trời chìm dần, và từ màu trắng rực đổi sang sắc đỏ đục không phát quang và tỏa nhiệt, như thể sắp đột ngột tắt lịm, bị hạ sát khi chạm phải quầng u ám đang vần vũ trên một vùng người. Lập tức mặt nước bắt đầu thay đổi, và vẻ bình lặng kia bớt xán lạn nhưng lại nồng đậm hơn. Con sông lâu đời an tĩnh nghỉ ngơi giữa dòng nước mênh mang lúc ngày tàn, sau bao thuở phục vụ đắc lực chủng tộc định cư hai bên bờ, trải rộng trong vẻ tôn nghiêm bình đạm của một thủy lộ dẫn đến những chốn tận cùng trái đất. Bọn tôi quan sát dòng chảy khả kính này, không phải dưới hồng quang rực rỡ của một ngày ngắn ngủi một đến rồi đi không trở lại, mà trong ánh sáng uy nghi của ký ức trường tồn. Và quả thực, với kẻ từng, như người ta vẫn nói, “đi theo tiếng gọi biển khơi” với niềm đam mê và sùng kính, không gì dễ dàng hơn việc triệu hoán những anh linh quá khứ trên hạ lưu sông Thames. Con nước thủy triều vẫn miệt mài, tận tụy xuống lên, tràn ngập ký ức về người và thuyền từng được nó đưa về lại cố hương hoặc đem vào hải chiến. Nó từng quen biết và phục vụ tất cả những con người mà dân tộc này hằng tự hào, từ Sir Francis Drake tới Sir John Franklin, đều là Hiệp sĩ, có tước hiệu và không tước hiệu[5] - những hiệp khách giang hồ của biển cả. Nó từng vận chuyển những con tàu với cái tên lấp lánh như ngọc trong đêm tối thời gian, từ chiếc Golden Hind trở về với hai mạn tròn chất đầy châu báu và được ngự giá Nữ hoàng đến thăm, rồi từ ấy rời xa dòng chảy huyền thoại này[6], đến chiếc Erebus và Terror, theo đuổi những cuộc chinh phục khác - và không bao giờ quay lại[7]. Nó biết rõ cả hải thuyền và hải khách. Họ giong buồm từ Deptford, Greenwich và Erith[8] - kẻ phiêu lưu lẫn người lập nghiệp; tàu Hoàng gia cùng thuyền thương khách; thuyền trưởng, đô đốc, đám hắc thương[9] vùng Viễn Đông, các “tướng lĩnh tự phong của Hải đội Đông Ấn. Săn vàng hay cầu danh, ai nấy đều khởi hành theo dòng chảy ấy, mang gươm, và thường là cầm đuốc, sứ giả của quyền uy từ lục địa, hộ tống một điểm tinh hỏa từ ngọn lửa thiêng. Có sự vĩ đại nào không từng theo con nước của dòng sông ấy đến với bí ẩn của một miền đất lạ!... Giấc mơ của con người, hạt giống của thịnh vượng chung, mầm mống của đế quốc. Mặt trời lặn; hoàng hôn trùm lên dòng sông, và ánh đèn bắt đầu xuất hiện ven bờ. Hải đăng Chapman, một vật thể ba chân mọc lên từ bãi lầy, chiếu sáng rực rỡ. Ánh đèn từ những con tàu di chuyển trên thủy đạo - một dòng ngược xuôi tấp nập của những ngọn đèn. Và xa hơn về tây, trên thượng lưu, vùng trời phía trên thành phố khổng lồ kia vẫn mang dấu hiệu bất tường, một vầng âm trầm u ám trong ánh tịch dương, một tia nhìn giận dữ chói gắt dưới trời sao. “Nơi đây,” Marlow đột ngột lên tiếng, “cũng từng là một trong những chốn tối tăm trên trái đất.”[10] Gã là người duy nhất trong cả hội còn “đi theo tiếng gọi biển khơi.” Nếu có nói xấu được gã điểm gì thì đó là gã không đại diện cho tầng lớp của mình. Gã là hải khách nhưng cũng là lãng khách, trong khi phần lớn những người đi biển khác sống một cuộc đời, ta tạm gọi là, yên vị. Đầu óc họ mang tâm thức tại gia, và nhà của họ luôn đi cùng họ - con tàu; và tổ quốc của họ cũng vậy - biển cả. Tàu nào cũng giống tàu nào, và biển cả thì muôn đời vẫn thế. Trong sự bất biến của môi trường quanh họ, những duyên hải xa xôi, những mặt người xứ lạ, những bao la biến động của cuộc đời, tất cả lướt qua, được che phủ không phải bởi cảm giác huyền bí mà dưới một thái độ vô tri ít nhiều khinh thị; bởi đối với người đi biển, chẳng có gì huyền bí trừ bản thân biển cả, người tình của sự hiện tồn của y, và khó nhìn thấu như chính số mệnh. Với họ, sau giờ lao động, một cuộc dạo chơi hoặc truy hoan tùy tiện trên bờ là đủ khám phá bí mật của cả một lục địa, và nhìn chung họ thấy bí mật này chả có gì đáng biết. Chuyện của dân đi biển có một sự giản đơn trực diện, toàn bộ ý nghĩa của nó chỉ gói gọn trong một cái vỏ lạc vỡ[11]. Nhưng Marlow không phải dân đi biển điển hình (không kể xu hướng huyên thuyên ở gã), và với gã, ý nghĩa của sự kiện không nằm trong hạt lạc, mà ở ngoài, bao quanh sự tích phát sinh ra nó giống như nguồn sáng nhiệt phát sinh hồng quang, tương tự như những quầng sáng đôi khi ta vẫn quan sát thấy nhờ quang phổ của ánh trăng. Bình luận của gã không làm ai ngạc nhiên. Marlow là như thế. Phát ngôn ấy được đón nhận trong im lặng. Thậm chí chẳng ai buồn lầm bầm; và lúc này gã đang nói, rất chậm rãi... “Tôi đang nghĩ về thời xa xưa, khi quân La Mã lần đầu đặt chân đến đây, một ngàn chín trăm năm trước[12] - như mới hôm qua... Ánh sáng đã phát xuất từ dòng sông này từ... thời các Hiệp sĩ, nhỉ? Phải; nhưng nó như một lưỡi lửa chạy trên đồng cỏ, một vệt chớp giữa trùng mây. Chúng ta sống dưới ánh sáng bập bùng ấy - cầu cho nó bền lâu như vòng quay của trái đất này! Nhưng hôm qua bóng tối vẫn ở đây. Thử tưởng tượng, cảm giác của viên chỉ huy một chiếc... gọi là gì nhể? – Trireme[13] ưu tú trên Địa Trung Hải, đột nhiên bị điều lên phương bắc; vội vàng đi đường bộ băng qua Gauls; và được giao một con thuyền, loại vẫn được các quân đoàn La Mã - hẳn toàn những kẻ khéo tay ghê gớm - đóng cả trăm chiếc trong một, hai tháng, nếu những gì ta vẫn đọc là đáng tin. Thử hình dung ra gã ở đây - nơi tận cùng thế giới, biển màu chì, trời màu khói, kiểu thuyền vững chãi như cây đàn concertina[14] - bơi ngược sông đem theo quân nhu, hoặc mệnh lệnh, hoặc gì cũng được. Bờ cát, đầm lầy, rừng rú, man dân - cơ hồ không có gì vừa miệng người văn minh, không có gì để uống ngoài nước sông Thames. Ở đây chẳng có rượu Falernian[15], và cũng chẳng có chuyện lên bờ. Thi thoảng lại thấy một doanh trại thất tung trong hoang dã, như cây kim mất tích giữa đụn rơm - giá, sương, bão táp, bệnh dịch, lưu đày và chết chóc - cái chết lởn vởn trong không khí, dưới nước, trong bụi rậm. Binh sĩ chắc hẳn chết ở đây như ngả rạ. Phải rồi - gã sống sót. sống tốt là đằng khác, sống mà không nghĩ ngợi gì nhiều, có chăng chỉ đủ để sau này khoác lác về những gì đã trải qua. Họ đủ nam nhi để đối mặt với bóng tối. Mà có lẽ gã đã phấn chấn hơn khi tơ tưởng đến cơ hội được đề bạt lên hải đội ở Ravenna[16] trong ngày một ngày hai, nếu gã có bạn bè thân cận ở Rome và sống sót qua mùa lam chướng này. Hoặc hãy nghĩ tới một công dân trẻ tử tế, khoác toga - chắc hẳn cháy túi vì cờ bạc - theo gót thái thú, hoặc thuế quan, thậm chí thương gia, đến đây mong kiếm chác được chút gì. Đặt chân lên đầm lầy, cuốc bộ xuyên rừng, và khi đến dịch trạm trong nội địa, thì cảm thấy cái man di, man di cùng cực, vây bủa lấy mình, - tất cả sự sống hoang dã bí hiểm sục sôi trong rừng rậm, trong rừng già, trong tim đám man dân. Chẳng có thời gian để làm quen với những bí ẩn ấy. Gã phải sống giữa chốn vô minh, vốn dĩ là điều đáng hận. Song nó cũng tỏa ra sức dụ hoặc, tác động lên gã. Thứ dụ hoặc nảy sinh từ oán hận - hãy tưởng tượng nỗi hối hận, cơn khát khao đào tẩu, sự ghê tởm trong bất lực, tâm lý buông xuôi, cảm giác căm ghét ngày một dâng cao.” Mời các bạn đón đọc Giữa Lòng Tăm Tối của tác giả Joseph Conrad.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mật Mã Champa - Giản Tư Hải
Kiến trúc sư kiêm nhà khảo cổ người Pháp Paul Morierre cùng vợ là một phụ nữ Chăm có dòng dõi hoàng gia Champa làm việc tại thánh địa Mỹ Sơn từ những năm 90 của thế kỉ trước. Họ khai quật và nghiên cứu trên những phế tích đổ nát để tìm bí ẩn của nền văn minh Champa rực rỡ Đông Nam Á một thời. Là một nhà Phạn ngữ, ông từng dịch hàng trăm bia kí, những bộ thư tịch nói về dâng tế vàng bạc và máu người cho thần Siva từng tồn tại ở nước Champa cổ, nay thuộc miền trung Việt Nam. Điều làm ông bất ngờ và sợ hãi là những bí ẩn kho báu Champa và lễ hiến tế đó gắn liền với một hội kín tà giáo có từ thời trung cổ. Lúc họ quyết định thám hiểm vào sào huyệt của hội kín thì hai vợ chồng cùng cô con gái nhỏ bỗng dưng mất tích một cách bí ẩn. Sau 12 năm mai danh ẩn tích, ông lão gầy gò khắc khổ từng là nhà khảo cổ lừng danh bỗng xuất hiện tại thánh địa Mỹ Sơn và tuyên bố khai quật báu vật Champa quý báu nhất lịch sử. Đêm trước hôm tiến hành, người ta hãi hùng phát hiện ông chết thê thảm dưới bộ ngẫu tượng linga-yoni ngay trong một ngôi tháp. Sự kiện lập tức gây chấn động mạnh trong làng khảo cổ rồi mau chóng lan ra dân chúng bởi nó có dấu hiệu bị giết để lấy máu hiến tế theo nghi thức tôn giáo balamon cổ – một tục lệ cổ xưa từng diễn ra ở Champa. Rất may, trước khi chết, nhà khảo cổ đã kịp để lại một mật mã… *** Dưới độ sâu 35 mét, người đàn ông cao lớn và một phụ nữ dắt theo một con dê trắng thắt nơ đỏ đang dò dẫm dọc một đường hầm lát đá để tìm một cánh cửa. Ông ta cầm đèn pin chiếu lên tường hầm rồi dừng lại trước một mảng tường khả nghi quan sát hồi lâu. - Phòng 178. Chính căn phòng này. Người phụ nữ trẻ mệt mỏi đến mức không buồn nói câu nào, cô chỉ mong chồng đứng lại để tranh thủ ngồi phệt xuống. Cô không ngờ thánh địa lại xa xôi hiểm trở đến mức đi ba ngày trời mới tới. Ngay cả con dê đực quen nhảy nhót trên núi cũng run chân và thè lưỡi ra để thở. - Rốt cuộc cũng tới đích. – Người đàn ông Pháp nói - Chúng ta cứ trải chiếu nằm ở đây chờ cửa mở. Ông ta xem đồng hồ rồi lấy thuốc ra vừa hút vừa đi đi lại lại nhưng mắt không rời cánh cửa đá mang số 178 đang đóng im lìm. Bỗng đất đá xung quanh rung lên báo hiệu một cơn địa chấn dữ dội bất ngờ ập đến. Cánh cửa đá bật mở rồi rút lên cao theo chiều thẳng đứng, ông ta thét vợ ngồi dậy rồi cúi xuống nhìn cái hố vuông sâu nơi cánh cửa đá vừa rút lên trần. - Dê trắng đâu lại đây! – Ông thét to lên. Ông quay lại nhặt sợi dây nhấc bổng con vật đáng thương lên cao rồi thả xuống cái hố đen ngòm đang ngoác to. Tiếng thét thê thảm của con dê trắng câm bặt trong tiếng đá nghiến. Viên Kiến trúc sư người Pháp cùng với phu nhân mau lẹ vọt qua miệng hố trước mặt để vào bên trong. Hành trình gian nan đi tìm kho báu Champa cổ xưa mà họ theo đuổi bấy lâu nay rốt cuộc đã tới đích. Trong hang đá tối đen như mực, người phụ nữ trẻ tỏ ra sợ sệt khi nhìn lại cánh cửa đã sập xuống sau lưng. Một dải sáng lân tinh bò ngoằn ngoèo trên vách đá nổi lên một dòng chữ Phạn cổ đập thẳng vào mắt cô: “ Dâng máu cho Ngài! kẻ nào xúc phạm đến thần linh sẽ bị rút sạch máu ba đời dâng lên Ngài’’. - Anh nhìn kìa... - Cô gái chỉ tay nói. ... Mời các bạn đón đọc Mật Mã Champa của tác giả Giản Tư Hải.
Bạn Cùng Giường Trái Tính - Jennifer Crusie
Hai con người khác biệt nhau hoàn toàn cố cưỡng lại lực hút của trái tim, nhưng mọi điều kháng cự đều… bất khả kháng. Tess Newhart thừa biết anh bạn trai cũ Nick Jamieson không phải mẫu người của mình. Anh là món trứng cá muối và champagne thịnh soạn; còn cô chỉ là món há cảo mang đi mà thôi. Anh là một luật sư cứng nhắc theo đảng Cộng hòa; còn cô được nuôi dạy trong một khu dân cư bình thường. Anh muốn tiến xa trong sự nghiệp; còn cô chỉ muốn… anh. Tuy nhiên, không đời nào Tess chịu lệ thuộc vào công việc của anh. Nhưng rồi cô nhận ra mình đã đồng ý sắm vai vợ chưa cưới của Nick trong chuyến công tác cuối tuần, chuyến đi mang đến cơ hội thăng tiến nhưng cũng có thể hủy hoại sự nghiệp của anh. Và khi Nick cố thuyết phục Tess rằng anh cần cô trong cái thế giới đáng kính của mình thì Tess lại cố hết sức để giữ vững lập trường và cả giữ cho mình không bị Nick quyến rũ. “Hết sức mới mẻ, hài hước, tình cảm và táo bạo… Crusie là một trong những tác giả như thế.” *** Jennifer Crusie (sinh năm 1949) là bút danh của nhà văn Jennifer Smith, một tác giả dòng tiểu thuyết lãng mạn bán chạy và dành nhiều giải thưởng. Bà đã viết được hơn 15 cuốn tiểu thuyết, đã được xuất bản ở hơn 20 nước trên thế giới.  Bà đã tốt nghiệp ở trường Trung học Wapakoneta và có bằng cử nhân ngành Mỹ thuật tại trường Đại học Liên bang Bowling Green ở Bowling Green, bang Ohio. Bà có hai bằng Thạc sĩ. Bằng đầu tiên thuộc về chuyên ngành Professional Writing and Women's Literature ở Đại học Liên bang Wright, Crusie đã viết luận văn về vai trò người phụ nữ trong tác phẩm văn học kỳ bí. Bằng thạc sĩ thứ hai của bà thuộc nghành Mỹ thuật trong Tiểu thuyết của Đại học Liên bang Ohio.  Vào mùa hè năm 1991, bà bắt đầu nghiên cứu cho luận văn về ảnh hưởng giới tính đối với việc tường thuật, nghiên cứu sự khác nhau của việc kể chuyện giữa phụ nữ và đàn ông. Là một phần trong quá trình nghiên cứu, bà đã dự tính đọc một trăm cuốn tiểu thuyết lãng mạn dành cho phụ nữ và một trăm cuốn tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Các tiểu thuyết lãng mạn hóa ra khá nữ quyền và quá hấp dẫn, khiến bà không bao giờ đụng đến tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Thay vào đó, bà quyết định viết tiểu thuyết, bỏ việc và dành toàn bộ thời gian để viết cũng như hoàn tất học vị tiến sĩ. Đây là một trong những bước biến chuyển vô cùng mạo hiểm vì bà đã không bán được cuốn sách đầu tiên của mình mãi cho đến tháng Tám năm 1992.  Mặc dầu NXB Silhouette đã từ chối cuốn tiểu thuyết tiếp theo của Crusie, NXB Harlequin đã chấp nhận nó và xuất bản vào năm 1993 với tên gọi Săn chồng thuộc dòng sách Quyến rũ của họ. Thêm năm cuốn nữa của bà được Harlequins xuất bản, gồm Getting Rid of Bradley - đã giành được giải RWA dành cho Tiểu thuyết ngắn hiện đại hay nhất, Strange Bedpersons, What the Lady Wants, Charlie All Night, and Anyone But You.  Các tác phẩm tiểu thuyết của bà tiếp tục khám phá các cuộc hành trình của những người phụ nữ, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ, tình bạn, cộng đồng, và sự sáng tạo. Bà là một phụ nữ may mắn, và bà biết điều đó. *** Sáu tuần sau đó, khi cuối cùng dàn nhạc đã rời khỏi khu vực bể bơi, Tess thơ thẩn đi lại trong nhà mình, vẫn mặc chiếc váy cưới bằng vải nhiễu trắng cô đã tìm được ở cửa hàng trang phục cổ điển ở phố 12, nhấm nháp sâm-panh và suy nghĩ về tương lai. Cô đi từ phòng này sang phòng khác, yêu thích sắc màu mà cô và Nick đã trang hoàng cho căn nhà mấy tuần qua, nhưng vẫn cảm thấy một chút u sầu. Giờ cô đã kết hôn rồi. Cô là người đứng đắn. Có trách nhiệm. Tess ngồi trên cầu thang trông ra bể bơi sạch bóng. Angela trèo vào lòng cô, Tess vuốt ve con mèo và thở dài. “Xin lỗi?” giọng Nick vang phía sau, cô quay lại và thấy anh đang cau mày nhìn cô qua những chấn song cầu thang. Anh vẫn đẹp trai như từ trước đến giờ, ăn vận hoàn hảo trong bộ lễ phục, tóc tai gọn gàng. “Em chỉ vừa mới kết hôn,” anh bảo cô, vờ tỏ ra nghiêm nghị “Lẽ ra em phải hạnh phúc mê ly mới phải. Nếu chưa thấy mê đắm thì em nên đi xem phòng ngủ lớn của anh đi.” “Em biết,” Tess nói. “Em là người đã sơn nó thành màu vàng.” “Anh không quan tâm về màu vàng,” Nick nói. “Nhưng em cứ phải sơn trần màu xanh dương và dán những ngôi sao dạ quang thế à? Đêm qua anh tắt đèn và suýt chút nữa bị nhồi máu cơ tim khi nằm ngửa ra.” “À, em đã biết rằng mình sẽ phải dành nhiều thời gian ngó lên đó,” Tess nói. “Anh biết đấy, nằm ngửa lưng trong bóng tối.” “Anh biết có một thông điệp ở đây mà anh chưa hiểu,” Nick nói. “Giờ em là bà Jekyll rồi, em phải cư xử đúng mực. Gina đã đọc cho em nghe đạo luật ngăn ngừa phá rối trật tự về chuyện đó, và cô ấy nói đúng. Không có thêm tình dục mạo hiểm nữa.” Nick bắt đầu cười rồi nén lại khi anh thấy cô nghiêm túc. “Vậy là giờ đây em đang lên kế hoạch dành phần còn lại của đời mình trong tư thế thông thường hả?” Anh lại cười. “Ê,” Tess nói. “Em đang thích nghi. Cho em một chút khen ngợi chứ.” “Anh thích cho em xem món quà cưới hơn.” Nick vòng tới trước cầu thang, nắm tay cô kéo dậy, khiến Angela rơi phịch xuống sàn. “Nó nằm trong phòng khách.” “Phòng khách làm gì có gì. Chúng ta đã bán cái bàn, nhớ không? Và vì anh từ chối mua chiếc bàn màu đỏ em thích, nên…” Cô theo anh vòng qua chân cầu thang và khựng lại, sửng sốt. Phòng khách bị choán bởi một chiếc đàn piano cánh lớn nhất cô từng thấy. Nó có màu đỏ tươi. Nick dựa người vào cây đàn. “Anh kiếm được nó ở cửa hàng giá rẻ, tin hay không tùy em.” ... Mời các bạn đón đọc Bạn Cùng Giường Trái Tính của tác giả Jennifer Crusie.
Ước Mơ - Christine Arnothy
Cuộc sống con người luôn cho ta những ước mơ, có những ước mơ rất đơn giản, bình dị, có những ước mơ lại cao siêu kỳ vĩ, có những ước mơ có thể thỏa mãn khát vọng của con người, nhưng cũng có những ước mơ suốt đời làm cho người ta đau khổ, dằn vặt vì không sao chạm được vào nó.  Tác phẩm kể về cuộc sống khó khăn, gian khổ của những người dân vô tội trong chiến tranh thế giới thứ 2. Tuy vậy họ vẫn yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, cố gắng vượt qua qua gian khổ để vươn lên, đạt đến ước mơ vĩnh cửu của con người là sự tự do cho cuộc sống. Đó mới là ước mơ chính đáng nhất của nhân loại. Ước Mơ gồm hai phần: Phần một là "Mười lăm tuổi, tôi không muốn chết" và phần hai với tựa "Sống không phải dễ". Hãy hòa cùng tác phẩm và tác giả Christine Arnothy để xem các nhân vật của Ước Mơ suy nghĩ và mơ ước điều gì. *** Khi đến Vienne, chẳng có ai thèm để ý đến tôi... Chúng tôi đi trên đường, ít thấy đau đớn dưới cơn mưa tầm tã, hơn là khi thấy nét mặt dữ tợn của tên bồi bàn tại tiệm cà phê khi hắn cho chúng tôi biết những tờ bạc Schillings mà người đưa đường bán cho chúng tôi là tiền đã hết hạn lưu hành. Mẹ tôi đã đưa cho tên bồi bàn ấy chiếc nhẫn cuối cùng của bà và, bây giờ, vì sợ hãi, chúng tôi đi như chạy, nhưng tới một nơi vô định. Tôi ước mong có một người nào đó, miệng tươi cười, nắm tay chúng tôi để dẫn chúng tôi vào một ngôi nhà ấm áp, và người đó, với một cử chỉ tê nhị, chỉ cho chúng tôi cửa phòng tắm. Dò xét khuôn mặt của những người qua lại trên đường, tôi chỉ thấy những con mắt lờ đờ, nét mặt cau có. Họ nhìn chúng tôi một cách lơ đễnh, ánh mắt họ lướt qua trên chúng tôi như những giọt nước mưa. Bố tôi nói: – Hay là chúng ta trở lại nhà ga! – Để làm gì! Mẹ tôi hỏi. – Ở đó có trụ sở của một phái đoàn lo cho người tị nạn. Chúng ta đến xin ngủ ở đó đêm nay và ngày mai, tôi sẽ lo liệu. Không có tiền để đi tàu điện, chúng tôi cuốc bộ trở lại nhà ga. Ở đó, hai mẹ con tôi phải chờ bố tôi tiếp xúc trước với phái đoàn. Trong nhà ga đổ nát, mẹ tôi đứng tựa người vào một bức tường sứt lở, bà có vẻ yếu đuối, rã rượi đến nỗi tôi hoảng hồn, ôm hôn lên mặt bà. Bà ngước mắt lên nhìn tôi và mỉm cười: – Con ơi, giai đoạn khởi đầu một cuộc sống mới luôn luôn rất khó khăn... Nhưng chúng ta tự do. Đã lâu rồi mà bố tôi chưa trở lại. Tôi nhìn hai chân sưng phù lên của mẹ tôi; hai mắt cá chân đường nét mảnh mai của bà bây giờ chỉ còn là một khối thịt không có hình dáng. Và đâu đâu, trong cái nhà ga hoang vắng này, cũng không có lấy một cái ghế để ngồi. Gần bên chúng tôi có một phòng đợi cửa mở hé, nhưng nó không còn mái nhà. Có vài nhân viên hỏa xa đi ngang qua gần chúng tôi, nhưng họ không để ý đến chúng tôi. Tôi quỳ gối xuống trước mẹ tôi và đặt bàn tay lên trên một bàn chân của bà, bàn chân nóng như lửa. – Má đau lắm phải không? – Hơi đau thôi... Tôi phải cố gắng lắm mới khỏi gục xuống và ngủ thiếp đi dưới chân mẹ tôi. Đột ngột, như thể họ từ dưới đất chui lên, chúng tôi bị bao quanh bởi những hành khách đợi một con tàu sắp vào ga. Tôi đứng dậy, dò xét nét mặt họ, nhưng họ chẳng để ý gì đến chúng tôi, như thể họ không thấy chúng tôi ở đây. Tôi sờ cánh tay của chính mình, tôi vuốt mặt tôi với bàn tay dơ bẩn của chính tôi. Tôi băn khoăn tự hỏi: “Có thể chúng tôi đã trở thành trong suốt trong ánh sáng lạnh lẽo của mặt trăng chăng? Cho nên người ta đã không còn có thể trông thấy chúng tôi chăng? Có thể chuyện chúng tôi vượt qua biên giới chỉ là một giấc mơ và tôi sắp thức dậy ở Fonyod chăng?...” Mời các bạn đón đọc Ước Mơ của tác giả Christine Arnothy.
Tình Dục Của Gấu Trúc - Miên Miên
Tình dục của gấu trúc là một cái tên rất lạ cho một cuốn tiểu thuyết rất hay và hấp dẫn của nữ nhà văn Miên Miên. Được ví như một Vệ Tuệ thứ hai trên văn đàn Trung Quốc, bằng một giọng văn “nổi loạn” và nội dung đột phá, khắc họa tinh tế và sâu sắc những góc cạnh của cuộc sống thành thị của những người trẻ tại Trung Quốc, Miên Miên từng được báo Luận đàm quốc tế ca ngợi như một trong những nhà văn trẻ có tiền đồ nhất. Vẫn chân thực đến mức có phần trần trụi, Tình dục của gấu trúc thực sự là một bữa tiệc về cuộc sống thành phố phù hoa với bất kỳ ai cũng có thể là nhân vật chính. Cuốn sách mở đầu bằng một vụ án rắm rối và ly kỳ về cái chết bất ngờ của một cô gái trẻ sống tại Thượng Hải. Việc truy tìm nguyên nhân cái chết của cô mở ra nhiều bí mật khác về những mối quan hệ tình cảm và công việc chồng chéo. Sáu cô gái trong Tình dục của gấu trúc đều có những quan hệ “đặc biệt” với nhân vật nam chính – cũng chính là bạn trai của cô gái vừa chết. Nhưng nếu dồn hết tính cách của năm cô gái này lại chính là chân dung của cô gái thứ sáu. Tình dục của gấu trúc hé mở về cuộc sống thành phố hiện đại với quá nhiều thứ phức tạp và rối rắm trong các mối quan hệ giữa con người với con người... Có thể nói, trong gia tài của “người đẹp viết văn” Miên Miên, Tình dục của gấu trúc thực sự là một tựa sách đáng giá và nổi bật. Không chỉ gây được sự chú ý của các độc giả Trung Quốc, cuốn sách còn là một hiện tượng xuất bản khi có mặt ở nhiều quốc gia phương Tây như Pháp, Đức, Ý, Hà Lan và được độc giả đón nhận nồng nhiệt. *** Sinh nhật của Bao là bữa tiệc của những nhân vật thời trang. Nơi này hỗn độn với mọi chủng người với các màu da và các loại ngôn ngữ khác nhau, rì rầm nói chuyện riêng. Người chế tạo nước hoa K cứ liên tục chụp ảnh. Cô vừa đi dự một tang lễ về. Bao bước tới ôm K. K ngẩng đầu lên. Cô có khuôn mặt đầy nếp nhăn của thiên thần. Gần đây cô chế tạo ra một loại nước hoa có tên “Bối cảnh Trung Quốc”. K cho Bao xem những bức ảnh vừa chụp. K: Tiệc sinh nhật hàng năm của em luôn chỉ có những khuôn mặt giống nhau. Những người này, từng người lại có khuôn mặt bẩn của thiên thần. Cách đó không xa, có một cô gái cao gầy. Cô ấy đang nói tiếng Anh. Thông tin về cô gái cao gầy này phần lớn đều là những tin không xác định được. Cô ấy thường xuyên tài trợ một số hoạt động nghệ thuật, cho nên chúng tôi gọi cô ấy là Nhà tài trợ. Nhà tài trợ: Mình vừa đi Miami, cho nên da mới biến thành màu này. Cậu có biết Thượng Hải thiếu cái gì không? Thượng Hải thiếu biển lớn. Mình cần thường xuyên ngồi trên bãi biển ngắm bầu trời xanh, đọc sách cạnh các bạn thân. Mình ngồi đó tắm nắng, ngồi đờ ra không suy nghĩ gì hết. Chỉ nghỉ ngơi mà thôi, mình cần nghỉ ngơi. Trong một căn phòng khác. Một người nam và một người nữ ngồi ở đó. Bên ngoài cửa sổ là vườn hoa tối đen. Họ ngồi đối diện với chiếc ti vi nhỏ. Cô gái là công chúa trong phim có bối cảnh của Thượng Hải. Ánh mắt cô ấy xem ti vi vừa yếu đuối vừa dịu dàng. Ở nơi này, chúng tôi gọi cô ấy là ABC. Một số người luôn như vậy, cho dù họ đã là trai già nhưng vẫn lưu giữ được con mắt, thân hình trai trẻ. Khi họ ngồi bên cạnh các cô gái, khi họ nhìn bạn nói chuyện, đôi khi giống như bị gió thổi vào mắt vậy. Đôi mắt đó sáng long lanh như có nước mắt. Anh ấy từng là đại diện hoàn chỉnh cho một thời đại ngắn ngủi. Hai mươi tuổi đã trở thành thần tượng, một nhà thơ, một ca sĩ. Tiếng violon của anh, tiếng đàn guitar của anh giống như ánh trăng cuối cùng trước bình minh. ... Mời các bạn đón đọc Tình Dục Của Gấu Trúc của tác giả Miên Miên.